Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn Giáng Sinh
Chủ đề:
Lễ Giáng Sinh
Tác giả:
GS Nguyễn Lý–Tưởng
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
Lễ Giáng Sinh là kỷ niệm
ngày Đức Chúa Giê–su, Đấng sáng lập Ki–tô giáo, sinh ra ở nước Do
Thái, cách nay 2023 năm. Đây là một biến cố trọng đại, không
những có ảnh hưởng đến người Ki–tô hữu mà còn ảnh hưởng đến toàn
thể nhân loại. Nhiều tác phẩm văn chương, nghệ thuật, âm nhạc,
hội họa, điêu khắc, v.v. trên thế giới đều lấy cảm hứng từ biến
cố này. Ngày nay, không một dân tộc nào trên thế giới mà không
biết đến ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh thường gọi là Lễ Noel
là do chữ Emmanuel ở trong Kinh Thánh, nghĩa là “Thiên Chúa ở
cùng chúng ta”, gọi tắt là Nuel hay Noel. Người Mỹ gọi lễ này là
Christmas.
Kinh Thánh là một pho sách cổ của người Do Thái gồm có 2 phần:
Kinh Thánh Cựu Ước và Kinh Thánh Tân Ước.
– Kinh Thánh Cựu Ước (lời giao ước cũ)
ghi chép lại các sự kiện liên quan đến tôn giáo, luật pháp, phong
tục, văn hoá, lịch sử, v.v. của người Do Thái trước khi Đức Chúa
Giê–su sinh ra.
– Kinh Thánh Tân Ước (lời giao ước mới)
là sách ghi chép lại cuộc đời và những lời giảng dạy của Đức Chúa
Giê–su (tức là những tư tưởng, giáo lý của Người).
Khi đọc Kinh Thánh, người ta thấy có
nhiều sự kiện liên quan đến lịch sử Do Thái và lịch sử nhân loại,
nhất là trong phần Cựu Ước. Nhưng mục đích của người viết Kinh
Thánh không phải để ghi chép lịch sử, cũng không nhằm trình bày
và chứng minh các sự kiện liên quan đến khoa học, mà chính là
nhằm mục đích đạo đức, tôn giáo: loan báo sự mạc khải của Thiên
Chúa cho dân tộc Do Thái nói riêng, và cho nhân loại nói chung,
về “ơn cứu chuộc con người” do chính Thiên Chúa thực hiện và các
giới răn của Thiên Chúa buộc nhân loại phải tuân giữ (tức 10 giới
răn).
Danh từ
“mạc khải” gồm có hai chữ “mạc” và “khải” ghép lại. “Mạc” theo
nghĩa chữ Hán là cái màn che, “Khải” là mở ra. Vậy “mạc khải”
nghĩa là mở bức màn che ra để cho mọi người được biết những gì
che giấu bên trong, tỏ cho biết những điều bí mật.
Người đầu tiên viết Kinh Thánh là
Moise, tiếng Việt phiên âm là Mai Sen, Môi Sen, Môi Se, v.v. ông
là người đã được Thiên Chúa chọn để lãnh đạo cuộc đấu tranh với
vua Pharaon, đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập cách nay vào
khoảng 3300 năm. Ông đã viết phần đầu của Kinh Thánh gọi là sách
“Sáng Thế Ký”. Theo các nhà thần học và kinh thánh học thì ông
được Thiên Chúa soi sáng, mạc khải cho biết để viết ra phần này.
Cũng có thể hiểu rằng những điều ông ghi chép đã được truyền từ
đời nọ đến đời kia trong dân tộc Do Thái trước ông. Sau khi ông
mất, có nhiều người tiếp tục viết Kinh Thánh cho đến ngày nước Do
Thái bị xóa tên (khoảng năm 70 đến 80 thế kỷ thứ I sau Công
nguyên). Phần đó gọi là Kinh Thánh Cựu Ước.
Phần Kinh Thánh gọi là Tân Ước (lời
giao ước mới) do các học trò của Chúa Giê–su viết về cuộc đời và
những lời giảng dạy của Người. Họ là những chứng nhân trực tiếp
hoặc gián tiếp (được nghe bà Maria, Mẹ của Đức Chúa Giê–su kể
lại). Bốn vị đó là Mathieu, Macco, Luca và Gioan (John). Ngoài ra
còn có sách Tông Đồ Công Vụ (hoạt động của các Tông Đồ của Chúa
Giê–su) không ghi tác giả là ai. Nhưng các nhà chú giải và theo
truyền thống trong Giáo Hội từ xưa thì tin rằng sách này do Luca
là người sát cánh với Phao–lô (Paul) viết, kể lại công cuộc
truyền giáo của các Tồng đồ đặc biệt là Phao–lô (Paul) và Phê–rô
(Peter hay Pierre) vào thế kỷ thứ I và sách “Khải Huyền” (hay
Khải Thị) do Gioan viết.
Kinh Thánh Cựu Ước (lời giao ước cũ
giữa Thiên Chúa và tổ tiên người Do Thái) có loan báo về một Đấng
Cứu Thế, gọi là Đức Ki–tô, sẽ đến trong dân tộc Do Thái để thực
hiện ơn cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại sau khi tổ tông
loài người là Adam và Eva phản bội lại Thiên Chúa là Đấng đã tạo
dựng nên mình. Những lời tiên tri nói về cuộc đời của Đấng Cứu
Thế do các tiên tri (ngôn sứ) đã được ghi chép trong Kinh Thánh
Cựu Ước. Thời gian của Cựu Ước là thời gian mong đợi, trông chờ
Đấng Cứu Thế đến. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nói với nhân loại qua
các tiên tri (ngôn sứ).
Tân Ước là lời giao ước, lời hứa của
Thiên Chúa đối với tổ tiên người Do Thái đã được thực hiện: đó là
sự giáng sinh của Đức Ki–tô. Trong Tân Ước, Thiên Chúa trực tiếp
nói với nhân loại qua Đức Ki–tô, con của Ngài.
Cuộc đời của Đức Ki–tô trong Tân Ước đã
diễn ra đúng như lời tiên tri trong Cựu Ước nói về Người. Do đó,
Cựu Ước và Tân Ước có liên quan mật thiết với nhau. Cựu Ước là đi
tìm và Tân Ước là gặp được.
“Tiên tri” hay “Ngôn sứ” là những người
lãnh đạo tinh thần, lãnh đạo tôn giáo của người Do Thái. Lúc đầu,
dân tộc Do Thái không có các vị lãnh đạo chính trị hay quân sự.
Toàn dân chỉ theo một tôn giáo duy nhất, chỉ thờ Đấng Tạo Hoá duy
nhất, người Do Thái gọi Đấng đó là Gia Vê hay Giê–hô–va, nghĩa là
Đấng Toàn Năng (tức Thượng Đế hay Thiên Chúa). Thiên Chúa đã chọn
những vị tiên tri hay ngôn sứ và qua những vị ấy, để truyền dạy
cho dân riêng của Ngài (tức dân Do Thái). Thiên Chúa đã ban cho
các vị ấy được quyền làm những việc lạ lùng để dân chúng tin.
Người tiên tri đầu tiên là Mai Sen. Những người kế vị sẽ được
chọn theo ý của Thiên Chúa và do vị tiên tri tiền nhiệm truyền
đạt lại. Tiên tri chọn một vi tướng để chỉ huy quân đội, bảo vệ
dân khi có chiến tranh. Về sau, người Do Thái đòi hỏi phải có một
vị vua như các dân tộc khác nên tiên tri thay mặt Thiên Chúa để
chọn vua cho dân: như trường hợp tiên tri Samuel chọn Saule làm
vua Do Thái, sau đó lại chọn David thay Saule. Từ David trở về
sau thì cha truyền con nối: như David truyền ngôi cho con là
Salomon. Vua lo việc chính trị, tiên tri lo việc tôn giáo.
Theo các sách tiên tri được ghi lại
trong Kinh Thánh Cựu Ước thì Đức Ki–tô sẽ sinh ra bởi một trinh
nữ thuộc dòng vua David. Người sẽ ra đời trong cảnh nghèo hèn.
Người sẽ sinh ra ở Bê–lem là một tỉnh nhỏ của nước Do Thái. Người
sẽ đi rao giảng Tin Mừng về “ơn cứu độ”. Để chứng minh Người là
con Thiên Chúa uy quyền, Người sẽ làm nhiều phép lạ cho kẻ điếc
được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ câm đuợc nói, người tàn tật, người
đau ốm được lành, kẻ chết được sống lại, v.v. Người sẽ bị bắt, bị
nhục hình, chết và sống lại... Đó là tóm tắt những điều Kinh
Thánh đã nói về Người.
Qua Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta biết
được dân tộc Do Thái bắt nguồn từ tổ phụ của họ là Abraham, cách
nay chừng 4000 năm.
Abraham sinh ra Isaac bởi vợ chính thức
là Sara.
Ngoài
Isaac, Abraham cũng có nhiều con trai với các nàng hầu, những
người này không được xem là “chính thống” vì không phải là con
“bởi lời giao ước” nghĩa là Đấng Cứu Thế sẽ không sinh ra bởi
dòng dõi của những người này.
Isaac có 2 người con trai sinh đôi là
Esau và Jacob. Esau không xứng đáng nên Jacob đuợc làm trưởng nam
và Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra bởi dòng dõi Jacob.
Trong một giấc mơ huyền bí, Jacob đã
được đổi tên là Israel. Ông có 12 người con trai, sau này con
cháu của họ lập thành 12 tỉnh của nước Do Thái.
Nước Do Thái (hay là nước Israel) là do
tên của Jacob (tức Israel) tổ tiên của họ.
Người con thứ 11 của ông Israel là
Giu–se (Joseph) bị anh em bán cho thương nhân Ai Cập, về sau đã
trở thành tể tướng của nước này. Sau trận đói xảy ra cho toàn
vùng, anh em của ông đã di cư vào Ai Cập.
Giu–se là người đã có công cứu dân Ai
Cập khỏi nạn mất mùa, đói khát kéo dài 7 năm liền. Sau khi Giu–se
chết, người Ai Cập đã vong ân, bắt con cháu của ông làm nô lệ cho
họ.
Thiên Chúa
đã chọn Mai Sen làm lãnh tụ dân Do Thái, đứng ra đấu tranh với
vua Pharaon, để đem dân Do Thái ra khỏi Ai Cập và về miền đất hứa
Canaan là nơi Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên họ là Abraham.
Họ đã đi qua biển đỏ (Hồng Hải) và trải
qua đoạn đường dài 40 năm, qua sa mạc... và phải chiến đấu với
nhiều dân tộc khác mới đến được đất hứa.
Những người sinh bởi dòng máu của Jacob
tức Israel đã trở thành dân tộc Do Thái.
Những con cháu Abraham nhưng không bởi
dòng máu Jacob, đã trở thành các dân tộc lân cận với nước Do Thái
và thù nghịch với Do Thái. Từ Abraham đến ngày nay khoảng 4000
năm.
Từ Mai
Sen đến ngày nay khoảng từ 3300 đến 3500 năm.
Cách nay khoảng 3000 năm, Do Thái đã
trở nên cường thịnh dưới triều đại của David. Ông là một anh hùng
dân tộc, giải phóng xâm lăng. Ông cũng là một thi sĩ, nhạc sĩ,
một nhà đạo đức và là một tiên tri. Ông đã để lại nhiều lời tiên
đoán về cuộc đời của Đấng Cứu Thế, nhất là về cuộc khổ nạn của
Người. Ông được sử sách gọi là “tiên tri”, “thánh vương”, v.v.
Con của David là Salomon, được gọi là
“người khôn ngoan nhất thiên hạ vào thời đó” đã làm cho Do Thái
trở nên cường thịnh nhất trong vùng, nhờ sự khôn ngoan, thông
thái và tài lãnh đạo. Trong đời ông không có chiến tranh xảy ra.
Sau Salomon thì nước Do Thái dần dần
suy yếu và bị các dân tộc lân cận xâm lấn.
Khoảng 587 trước công nguyên, quân
Babylon chiếm nước Do Thái và bắt dân Do Thái đem về Babylon làm
nô lệ cho họ. Sử gọi là “Thời kỳ lưu đày Babylon” kéo dài 49 năm.
Trước thời kỳ bị lưu đày, trong dân tộc
Do Thái xuất hiện nhiều tiên tri, kêu gọi dân chúng phải ăn năn,
hối cải, từ bỏ thói hư nết xấu để trở về đời sống đạo đức. Nếu
không, họ sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt.
Trong thời kỳ bị lưu đày tại Babylon,
lời kêu gọi dân ăn năn hối cải lại càng thống thiết hơn, và dân
Do Thái càng mong đợi Đấng Cứu Thế đến...
Theo họ, Đấng Cứu Thế được nói đến
trong Kinh Thánh sẽ là một lãnh tụ chính trị, quân sự để đánh
đuổi xâm lăng, cứu dân tộc mình thoát vòng nô lệ và tái lập đế
quốc Do Thái như thời David và Salomon. Nhưng theo lời tiên tri
của David và các tiên tri khác sau David, thì Đấng Cứu Thế là Con
Thiên Chúa, Người sẽ sinh ra trong cảnh nghèo hèn, và Người sẽ
chịu khổ hình để cứu chuộc tội lỗi cho nhân loại, để nhân loại
khỏi bị phạt và được trở nên con của Thiên Chúa, được hưởng phước
thiên đàng vĩnh cửu.
Khoảng 539 trước công nguyên, một biến
cố lịch sử đã xảy ra, vua nước Ba Tư là Ky–rô thắng đế quốc
Babylon. Người Do Thái bị lưu đày được trở về quê hương của mình.
Khoàng 533 trước công nguyên, Alexandre
đại đế đã làm cho nước Hy Lạp cường thịnh. Quân Hy Lạp chiếm được
cả Âu Châu và tràn sang tận Ấn Độ. Do Thái nằm trong vùng đất
thuộc đế quốc Hy Lạp. Sau khi Alexandre chết, đế quốc Hy Lạp dần
dần suy tàn. Đế quốc La Mã mạnh lên và đánh thắng Hy Lạp.
Trước khi kéo quân vào Do Thái, La Mã
kêu gọi Do Thái liên minh với họ để chống lại Hy Lạp. Sau khi
thắng Hy Lạp rồi, La Mã đem quân chiếm đóng Jerusalem và cai trị
Do Thái vào năm 63 trước Chúa Giê–su giáng sinh.
Đức Chúa Giê–su giáng sinh trong hoàn
cảnh dân tộc Do Thái đang sống dưới chế độ nô lệ của đế quốc La
Mã. Theo Kinh Thánh thì Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại một tỉnh nhỏ
là Bê–lem. Nhưng đã đến ngày sinh rồi mà bà Maria, mẹ Đức Chúa
Giê–su vẫn còn ở tại Nazaret, cách Bê–lem chừng vài trăm cây số.
Một biến cố đã xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri: hoàng đế La Mã
là Augustus Ceasare ra lệnh kiểm tra dân số. Mọi người phải trở
về nguyên quán để khai tên vào sổ hộ tịch. Thế là ông Giu–se phải
đem bà Maria đang mang thai, lên đường trở về Bê–lem, là nơi sinh
quán của mình. Đức Chúa Giê–su đã sinh ra tại Bê–lem đúng như các
tiên tri đã ghi chép. Những di tích về thời đại Đức Chúa Giê–su
hiện nay vẫn còn được bảo vệ.
Các nhà sử học và khảo cổ học đã minh
xác về Đức Chúa Giê–su là một nhân vật có thật trong lịch sử nhân
loại. Các chứng tích như: hang đá Bê–lem, nơi Người sinh ra, ngôi
nhà Người ở tại Nazaret, dinh quan Tổng trấn Ponce Pilastre nơi
Người bị xét xử, những giọt máu ở cầu thang (hiện nay người ta
dùng những tấm kính úp lên trên để bảo vệ), ngôi mộ, thập giá khổ
hình, khăn liệm có in mặt của Người (hiện để ở thành Turin), đồi
Calvario, nơi Người chịu chết, núi Olivete, nơi Người lên trời
trước mặt các môn đệ và dân chúng (hiện còn dấu chân in sâu vào
đá)... cũng như lời Người giảng dạy, tư tưởng và giáo lý của
Người. Những bản Kinh Thánh cổ được viết trên da bằng tiếng Aram
(Do Thái), tiếng Hy Lạp và La tinh (La Mã), v.v. hiện còn lưu giữ
cho đến ngày nay... Ông Daniel Rops, thuộc Hàn Lâm Viện Pháp, đã
nghiên cứu và công bố nhiều điều xác minh về cuộc đời Đức Chúa
Giê–su. Ngoài ra còn có hàng ngàn nhà nghiên cứu khác thuộc các
giáo hội: Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống, v.v. hoặc thuộc các
khuynh hướng tự do khác ngoài Giáo hội, cũng đã xác nhận những
điều được nhắc đến trong Kinh Thánh về Đức Chúa Giê–su là đúng.
Ngày sinh và năm sinh của Đức Chúa
Giê–su đã được thế giới chọn làm niên lịch mới gọi là lịch công
nguyên (ère chrétienne) hay là Dương lịch, lấy năm Người sinh ra
làm năm thứ nhất, đến nay đã 2023 năm.
Ki–tô giáo là do những người Do Thái,
học trò của Đức Chúa Giê–su, trước hết truyền bá cho chính người
Do Thái, sau đó mới truyền sang các dân tộc khác... Nhưng có một
số người Do Thái ngày nay vẫn còn trông đợi Đấng Cứu Thế như tổ
tiên của họ trong thời Cựu Ước. Những người này chỉ thừa nhận
Kinh Thánh Cựu Ước mà không tin vào Tân Ước.
Đối diện với Jerusalem có một ngọn núi
nhỏ tên là Sion, nơi đó có ngôi mộ của David, từ 3000 năm nay.
Người Do Thái xem đó là nơi linh thiêng của họ. Trên ngôi mộ này,
từ xưa tới nay có một ngọn lửa hằng cháy sáng mãi. Danh từ Sionit
hoặc “chủ nghĩa sionit” là do chữ Sion mà ra, có nghĩa là Do Thái
muốn trở lại thời đại huy hoàng của David và Salomon. Họ cứ nghĩ
rằng Đấng Cứu Thế là một lãnh tụ chính trị kiểu David hay
Salomon. Họ suy nghĩ theo tinh thần thế tục chứ không theo tinh
thần siêu nhiên của tôn giáo. Do đó, họ vẫn chờ đợi và chưa gặp
được Đấng Cứu Thế đích thực.
Đêm Giáng Sinh còn được gọi là “Đêm Hoà
Bình”, đêm mà thiên thần ca hát:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời;
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
Ngày xưa ở Việt Nam, dù trong thời
chiến tranh, hai bên đều đề nghị “hưu chiến” trong đêm Giáng
Sinh. Đêm Noel là đêm vui mừng cho cả nhân loại, không phân biệt
tôn giáo, dân tộc hay thành phần xã hội. Mọi gia đình đều vui
mừng vì đây là ngày vui của mọi người từ trẻ em cho đến người
lớn: nào cây thông, ông già Noel, những món quà, những cánh
thiệp, những lời chúc tụng tốt đẹp dành cho nhau, tiệc tùng, ca
hát, v.v. Riêng người Ki–tô hữu thì đến nhà thờ dự Thánh Lễ, kỷ
niệm Chúa Giáng Sinh... Những người khác cũng đi chơi, đi xem cho
biết lễ nghi phong tục, hoà mình vào niềm vui chung của “đêm hòa
bình”.
Chúng
tôi xin kính chúc quý vị một đêm Noel trong hoà bình, yêu
thương... trong tình yêu của Thiên Chúa đến với nhân loại. Người
đã đến trong nghèo khó, trần truồng, rét lạnh, từ chối tất cả
những tiện nghi sang trọng, giàu có của thế gian. Chúng ta đến
với Chúa, tức là đến với tình yêu và hoà bình chân thật, thì cũng
phải bỏ lại tất cả những đam mê vật chất, những dục vọng đê hèn
của trần thế và chỉ có tâm hồn trong sạch, thiện chí, mới gặp
được Người.
GS Nguyễn Lý–Tưởng
(kỷ niệm Giáng Sinh 2023)
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Đêm Thánh với muôn muôn vàn vì tinh tú... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by GS Nguyễn Lý–Tưởng chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, December 24, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang