Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký chiến trường
Chủ đề:
Chiến trận Đồi Charlie
Tác giả:
MĐ Nguyễn Văn Lập
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
Nửa ngày ở Dakto
Sớm mai bắn súng lên trời
Chào cô gái Thượng mang đời trên lưng
Buổi trưa xuống, phố tưng bừng
Chào
nhau, Mũ Đỏ không mừng không lo.
Vào Charlie
Trăm con chim lạ về rừng
Cờ treo hai
ngọn, lẫy lừng chiến khu
Kontum gió núi,
sương mù
Theo
quân vào cuộc, sinh, từ, quê hương
Ba
lô, súng trận, sa trường
Tiếng quân reo,
dấy biên cương ngút ngàn
Điệu sầu nửa
phím tơ loan
Áo phong sương đã mấy lần tả tơi
Xung
phong vũ khúc lên đồi
Bom rơi, pháo nổ,
thây người ngả nghiêng
Tóc tai phủ mặt
đêm đen
Đầy
trời khói lửa Tam Biên, bão bùng
Một
thời ngang dọc kiêu hùng
Charlie gẫy
cánh thiên thần, tiếc Thương
Cánh dù
lộng gió muôn phương
Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi
Tay khô đốt sáng đỉnh trời
Lập loè đốm
lửa, thắp đời quạnh hiu.
Để kính nhớ cố Đại tá Nguyễn Đình
Bảo, Tiểu Đoàn trưởng TĐ11ND, và đồng đội tôi.
Để tưởng nhớ đề lô Tiểu Đoàn 2 Pháo
Binh Nhảy Dù, Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn úy Sơn, và 10 đệ
tử trong đó có hai đệ tử chúng tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nhì Nhỏ
còn ở lại Charlie...
Để tưởng nhớ anh em Không Quân, Thiếu
úy Dương Huỳnh Kỳ đã hy sinh để bảo vệ chúng tôi suốt trận đánh
lịch sử này...
Vào khoảng thời gian này, tất cả ám danh
đàm thoại truyền tin của Pháo Binh Nhảy Dù đều bằng 4 con số, thí
dụ như pháo kích gọi là 3113, bắn hiệu quả gọi là 3134, và tên
các giới chức gọi bằng 3 con số, thí dụ như tên chúng tôi gọi là
314, mỗi khi đụng trận, mọi tần số truyền tin đều chuyển qua hệ
thống của đề lô cho dễ tác xạ. Bài này sử dụng bạch văn cho độc
giả dễ hiểu.
(Tiếng động cơ trực thăng hoặc tiếng phi cơ vận tải dồn dập rồi
đáp xuống). Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1972, Tiểu Đoàn 2
Pháo Binh theo Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đi hấp tại Trung Tâm Huấn
Luyện Vạn Kiếp ở Phước Tuy, giữa chương trình huấn luyện có một
cuộc hành quân nhảy dù và có phi pháo yểm trợ bằng đạn thật. Cũng
như những lần tập trước đây, bãi đáp là một cánh đồng trống với
nhiều bụi tre lúp xúp, khi toàn bộ Tiểu Đoàn 7 và một Pháo đội Dù
với 6 cây đại bác 105ly kiểu M102 được trang bị vũ khí đầy đủ
nhảy từ phi cơ 123 an toàn đáp xuống đất, là mở đầu ngay cuộc tấn
công mục tiêu bằng đạn thật vào một khu rừng sát chân núi (tiếng
đạn nổ trên mục tiêu). Cũng vào thời gian này Pháo Binh Nhảy Dù
vừa mới được trang bị loại đạn cay CS 105ly nên tiểu đoàn của
chúng tôi được lệnh phải bắn thử loại đạn này, tôi cùng một Tiền
Sát Viên hình như là Trung úy Đỗ Trọng Dụng được lệnh đeo mặt nạ
ngồi dưới hầm gọi tác xạ bắn ngay trên đầu mình để thử công hiệu.
Cuộc bắn thử này có nhiều giới chức
quân sự cao cấp đứng trên một khán đài ở xa để quan sát. Tôi vừa
hồi hộp vừa tự trấn an, ai bảo đi pháo binh, sinh nghề tử nghiệp
mà, nếu điều chỉnh xa mục tiêu thì mất mặt KBC–4522, còn nếu bắn
ngay trên đầu thì chiếc mặt nạ thổ tả này có chịu nổi hàng chục
trái đạn cay hay không. Tôi chưa kịp lo ra thì tiểu đoàn thông
báo cho tôi xuống pháo đội lãnh hai đề lô đi tiền sát cho Tiểu
Đoàn 9 Dù. Một chiếc xe Dodge đưa ngược chúng tôi về Sài Gòn,
thầy trò vừa xuống xe vào trình diện Ban 3 Tiểu Đoàn 9 thì lại
được một công điện về trình diện Tiểu Đoàn 11 của Trung tá Nguyễn
Đình Bảo để đi Kontum.
Những bất thường trong đời lính làm cho
tôi không thấy có điều gì bất tường cả trong lệnh điều động này.
Đầu năm 1972, chiến sự đã trở nên sôi động nhất trong lịch sử
chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến được gọi là chiến tranh ý thức
hệ này cũng chẳng được giới sĩ quan trẻ như chúng tôi để ý nhiều,
chỉ quan niệm đơn giản đến tuổi là phải đi lính để bảo vệ quốc
gia. Mới đổi về Nhảy Dù đúng một năm mà đã tham dự hàng chục cuộc
hành quân lớn nhỏ, cái chết lúc nào cũng cận kề làm tôi chẳng còn
ý niệm gì về những cuộc ra đi của bạn bè về vùng 5 da ngựa bọc
thây. Vì ở đâu, Nhảy Dù có đụng là đụng thứ thiệt, chơi thật sự
với đại pháo 130ly, với xe tăng T54, và biển người cỏ rác nhất
định sinh Bắc tử Nam để thực hiện cho bằng được mộng làm tôi đòi
cho cộng sản quốc tế của Bắc Bộ Phủ, ở đâu, chúng tôi cũng phải
một đánh ba là thường xuyên, còn nếu không Bộ Tổng Tham Mưu chẳng
bao giờ chịu sử dụng cả. Nhưng ở đây, Charlie, chúng tôi phải một
đánh mười, Mặt trận B3 của cộng quân với Sư đoàn Thép 320, Sư
đoàn 968, chưa kể các Trung đoàn pháo và phòng không dầy đặc đã
sẵn sàng đợi Tiểu Đoàn “Song Kiếm Trấn Ải” danh hiệu 11 Dù hai
cây đèn cầy.
Phi cơ bay ra Pleiku ở một đêm, rồi hôm sau theo đường bộ ra
Kontum, rồi đi Tân Cảnh theo Quốc lộ 14, dọc đường nhiều quán
thịt rừng mọc lên làm tôi nhớ lại Sài Gòn, những bữa còn tiền thì
đấu với đại võ sĩ Rémy Martin hoặc cạn túi thì chơi với võ sĩ
hạng lông rượu rắn tại Quán thịt rừng Tân Vạn, gần hậu cứ Nguyễn
Huệ. Xe qua Căn cứ B5 rồi Diên Bình, những người lính Địa Phương
Quân đứng trên cầu vẫy tay cười cười, cái khung cảnh bình yên này
chỉ trong thời gian ngắn nữa thôi là có chuyện lớn xảy ra, đó là
cái bất tường của đời lính. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn II Nhảy Dù ở
Võ Định, tôi nhận bản đồ hành quân từ Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù
của Thiếu tá Bùi Đức Lạc (hiện ở San Jose), là vị Tiểu Đoàn
Trưởng tiền nhiệm của tiểu đoàn tôi, và chuẩn bị nhảy vào
Charlie. Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Tiểu Đoàn 11 Dù tức đề lô
chúa là Trung úy Lưu Văn Đúng danh hiệu 310, một đàn anh chưa bao
giờ chịu học nhảy dù, đã triệu tập chúng tôi lại phân chia và
thông báo nhiệm vụ, Trung úy Nguyễn Văn Khánh danh hiệu 311, cũng
là bạn cùng khóa với tôi là đề lô Đại Đội 111 của Trung úy Thinh.
Chuẩn úy Sơn danh hiệu 312, đề lô Đại Đội 112 của Đại úy Hùng
Móm. Chuẩn úy Hoàng văn Trưng danh hiệu 313, đề lô Đại Đội 113
của Đại úy Hùng Mập. Trung úy Nguyễn Văn Lập danh hiệu 314, đề lô
Đại Đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho (hiện nay ở Quận Cam). Đại
Đội 110 của Đại úy Nho đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 11.
Pháo binh từ Căn cứ 5 danh hiệu 415, Pháo binh Căn cứ 6 danh hiệu
416, Căn cứ Yankee của Pháo đội D1 ở hướng bắc danh hiệu 417, và
Pháo đội C1 danh hiệu 418 với 1 trung đội 155ly C 220 danh hiệu
419 ở hướng Nam yểm trợ trực tiếp hoặc tăng cường cho chúng tôi
theo yêu cầu. Nhìn một dọc các căn cứ hỏa lực yểm trợ cho Tiểu
Đoàn 11, tôi nhận thấy ngay tình hình rất là nghiêm trọng, và một
cuộc tapi khốc liệt sẽ diễn ra trên ngọn đồi vô danh nào đó nằm
sâu trong dãy Trường Sơn.
Sáng ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu
Đoàn 11 được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân, phi cơ bay
ngang Tân Cảnh nơi đúng một năm trước đây, sau Hạ Lào, một số đơn
vị của Sư đoàn Nhảy Dù từ Quảng Trị bay thẳng về đây giải tỏa Căn
cứ 5 và Căn cứ 6. Cuộc hành quân ngoạn mục nhảy ngay trên đầu
địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây,
Đại tá James Vaught, Cố Vấn Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù đã gọi máy về
MACV tại Sài Gòn yêu cầu những tên nhà báo ngoại quốc phản chiến
bay ra đây nhìn xem Nhảy Dù đánh giặc rồi về tường thuật lại cho
trung thực, nhưng chẳng có tên nào dám ra. Lúc này cuộc hành quân
đang đi vào giai đoạn chót, tôi từ Tiểu Đoàn 183 Pháo binh dã
chiến Long Khánh về trình diện Thiếu tá Lạc tại vùng hành quân và
được vị Tiểu Đoàn trưởng chịu chơi cho 4 ngày phép về Sài Gòn coi
như một đặc ân về Pháo Binh Nhảy Dù, đồng thời xù luôn 4 ngày
trọng cấm mà Trung úy Toàn, Chỉ huy hậu cứ (hiện ở tại San Jose)
tặng cho tôi về tội dám cãi lại quan anh ngay lúc tôi còn mặc bộ
đồ xanh bộ binh về trình diện Dù. Từ trên trực thăng nhìn xuống,
ở xa về hướng nam, con sông Pôkô màu bạc uốn khúc theo dãy Trường
Sơn rồi đổ ra cắt ngang Quốc lộ 14, đẹp như một nét chấm phá của
thiên nhiên, và dãy Trường Sơn ở hướng Tây trùng điệp những đồi
núi ngút ngàn với hầu hết là những ngọn đồi trọc lá trơ cành, giơ
những cánh tay khẳng khiu lên không như cầu nguyện cho một thiên
đường vừa đổ vỡ. Hai chiếc Cobra bay phía trước hộ tống cho những
chiếc chuồn chuồn UH1B đáp xuống căn cứ Charlie, không có màn bắn
dọn bãi đáp vì đã có quân ta đáp xuống trước, những người lính dù
nhảy xuống trực thăng rồi tản ra hai bên ghìm súng phòng thủ sát
giao thông hào, và tôi đã có mặt tại ngọn đồi vô danh mà sau này
đã đi vào Chiến Sử Nhảy Dù như một địa danh bất khuất không thể
nào quên của người lính quốc gia, cũng như làm cho tất cả quân
dân cả Miền Nam biết đến qua bản nhạc “Người Ở Lại Charlie” của
Trần Thiện Thanh.
Theo sự bố trí, Đại Đội 113 nằm phía
bắc dưới chân đỉnh Yankee, cách tiểu đoàn gần 3 cây số. Đại Đội
111 thủ Charlie cao độ trên 1000 mét. Còn lại Bộ chỉ huy tiểu
đoàn và các Đại Đội 110, 112, và 114 đóng quân tại căn cứ C2 cùng
dãy núi thoai thoải nhưng cao hơn và cách Charlie gần nửa cây số.
Nhìn trên bản đồ thì tất cả các đơn vị của Tiểu Đoàn 11 Dù đóng
quân trên một trục Nam–Bắc khá thẳng để dễ quan sát về hướng Tây
giáp với Kampuchia, nơi đường mòn Hồ Chí Minh rẽ ra các ngã vào
ba biên giới Việt–Miên–Lào ở phía Tây Bắc, còn Căn cứ biên phòng
Benhet thì nằm sâu gần biên giới hơn. Suốt trận chiến Charlie nổi
tiếng trong quân sử, Benhet vẫn bình yên vì cộng quân dồn mọi nỗ
lực để nhổ cái gai Charlie nằm chận cuống họng xâm nhập vào Tỉnh
Kontum qua ngã Dakto. Charlie là một căn cứ hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ
đã lâu giờ trông rất hoang tàn, khi Tiểu Đoàn 11 đổ quân xuống,
sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho tiện việc
phòng thủ. Bao quanh Charlie là những ngọn núi cao thấp với cao
độ trên một cây số. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối
nhỏ dốc đứng rất khó lên xuống nhưng nguồn tiếp tế nước uống và
tắm rửa cũng từ con suối này. Trận chiến diễn ra ác liệt tại
quanh khu vực này nên gọi chung là trận Charlie.
Đại Đội 114 đóng vòng cung phía Nam
chịu trách nhiệm nặng nhất vì địa thế thoai thoải dễ đánh lên, và
ngoài phòng tuyến cỡ 50 mét có nhiều cây cao rất dễ cho cộng quân
nấp vào đó mà tấn công, và trận chiến bắt đầu cũng từ hướng này
trước. Chưa bao giờ tôi thấy một Đại đội trưởng cho đào một cái
hầm trú ẩn hình chữ nhật to và kiên cố đến như vậy với nắp hầm
vừa thân cây vừa bao cát cao đến gần 1 mét, Trung úy Cho bảo tôi
ra gần ngoài tuyến tìm chỗ đào hầm, tôi nói tôi yểm trợ cho trung
úy, nếu trung úy nằm đâu thì tôi nằm đó. Trung úy Cho đành để tôi
ở chung trong hầm, nhờ vậy sau này tôi thoát chết dưới làn pháo
khủng khiếp của cộng quân. Tôi bảo hai đệ tử Hạnh và Nhỏ ra gần
ngoài tuyến tìm chỗ đào hầm, còn máy PRC25 thì đưa cho tôi, và
thỉnh thoảng chạy vào xem tôi có cần gì không. Chiều xuống, như
thường lệ khi đi trận, tôi gọi 417 tác xạ phòng thủ lập một số
tuyến cản theo hình vòng cung ngoài vòng vị trí khoảng 100 mét
(có tiếng pháo binh bắn điều chỉnh), xong yêu cầu gửi yếu tố tác
xạ đến các căn cứ khác để bắn theo yêu cầu khi cần. Nhờ những
tuyến cản này mà chúng tôi đã giữ được phía Nam C2 cho đến ngày
Charlie thất thủ. Đêm đầu tiên, tôi ngủ không được vì những tiếng
rì rì của xe cơ giới chạy suốt đêm, từng đoàn xe Molotova và có
cả tiếng xe tank chạy trong dãy Trường Sơn, hướng Tây và Tây Nam
cách căn cứ Charlie không xa, quân xa cộng quân mở đèn chạy công
khai như xa lộ không người. Tôi chấm một số điểm đâu đó trong
rừng tình nghi là đường mòn theo hướng xe chạy để bắn quấy rối
(harassing fire), khi pháo binh ta bắn, quân xa địch tắt đèn
ngưng chạy, hết loạt đạn, chúng mở đèn chạy tiếp, đêm nào cũng
thế, ngoài tầm bắn của pháo binh ta nên bọn chúng gần như công
khai di chuyển. Chắn chắn chúng đang mở chiến dịch lớn lắm nên
mới ồn ào điều quân như thế này, và Quân Đoàn II cũng biết như
thế nhưng không hiểu tại sao không cho B52 dập.
Ngày hôm sau 26/3/1972, tôi theo Thiếu
tá Lê Văn Mễ, Tiểu Đoàn phó danh hiệu Mê Linh (hiện nay ở San
Jose), dẫn hai Đại Đội 112 và 114 đi đánh giải vây cho một đơn vị
Tiểu Đoàn 2 Dù ở hướng Nam. Mục tiêu là một đỉnh đồi cách Charlie
khoảng gần 1 cây số, cộng quân thuộc Trung đoàn 3/320 đã chiếm
ngọn đồi này và xác một chuẩn úy của ta vẫn còn đó. Gần đến nơi,
Thiếu tá Mễ gọi tôi bắn dọn đường xong chuyển xạ bằng một quả
khói lên ngay trên đỉnh đồi cho phi cơ nhận diện đánh bom, rồi
pháo binh làm tiếp.
– 418 đây 314 xin tác xạ. Hết.
– 314 đây 418 xin tác xạ. Hết.
– Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói nổ
chạm. Bắn khi sẵn sàng. Hết.
– Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói.
Hết.
Độ hai
phút sau.
–
Bắn. Trả lời.
– Bắn. Hết. (tiếng pháo nổ)
Thiếu tá Mễ liên lạc với đứa con đi
đầu, xong xin điều chỉnh tác xạ:
– Hướng 800. Gần lại 100. Một khói.
Hết.
– Hướng
800. Gần lại 100. Hết.
Đến quả đạn khói thứ hai thì điều chỉnh
vào đúng mục tiêu, dứt trái khói, Mê Linh nói tiếng Anh như gió
liên lạc thẳng với phi cơ Phantom Mỹ nhào xuống thả bom, rừng núi
rung chuyển như cơn địa chấn vì mục tiêu cách chúng tôi chỉ hơn
100 mét (tiếng bom nổ). Khi phi đội rời mục tiêu, tôi xin pháo
đội bắn hiệu quả 10 tràng vừa đạn nổ vừa delay để phá hầm, khẩu 3
(đang điều chỉnh) bắn trước một quả (mỗi pháo đội có 6 đại bác
tức là bắn 60 quả). Mê Linh dặn tôi khi dứt loạt đạn này là xung
phong. Tôi trình Mê Linh để tôi chuyển xạ ra phía sau thành một
tuyến lửa không cho tụi nó chạy, phải chấp nhận giao chiến với
mình. Mê Linh OK. Dứt loạt đạn hiệu quả, pháo đội chuyển xạ thành
một tuyến phía sau. Trung đội đầu tiến dè dặt vì địa hình không
cho phép và đạn AK từ phía trên đỉnh đồi bắn xuống xối xả không
xung phong được. Từng khinh binh Dù tiến lên theo thế chân vạc.
Đạn AK và M16 thi nhau nã từng loạt (tiếng súng nổ rời rạc). Nhảy
Dù len từng gốc cây, người này bắn che cho người khác tiến, và
cuối cùng lên được triền đồi. Toán đầu tiên báo cáo sơ khởi dứt
được hai vịt con (tức Việt cộng) tịch thu được 1 AK, 1 CKC, và
tìm được xác viên chuẩn úy Tiểu Đoàn 2 Dù cùng một binh sĩ. Mê
Linh bảo rán lên đến đỉnh xem có gì không. Vừa dứt lời thì tiếng
depart đại bác từ phía Tây bắn tới cắt ngang hông Dù. Xịt oành,
Xịt oành. Tiếng đại bác này là sơn pháo 75ly không giật có sơ tốc
độ cao nên vừa nghe tiếng depart là nổ liền. Nhảy Dù bị đánh
ngang hông, vừa dứt loạt pháo là bộ binh địch tràn lên cũng từ
phía Tây. Mê Linh cho toán đi đầu lùi lại tránh pháo, kết quả ta
chết một, bỏ lại một M16. Lúc này thì địch đã ngưng pháo chỉ dùng
súng nhỏ. Mê Linh cho rút toàn bộ về nhập lại một vì sợ địch cắt
đôi. Địch vẫn tiếp tục bắn theo. Mê Linh bảo tôi bắn chận.
– 418 đây 314. Mục tiêu. Hướng 1000.
Gần lại 200. Một nổ. Bắn khi sẵn sàng. Hết.
Lúc này Pháo đội C1 đã biết chúng tôi
bị đánh ngang hông nên đã sẵn sàng bắn chận. Oành. Một tiếng nổ
lớn như tiếng sét đánh ngay trên đầu, mảnh đạn bay tua túa, tiếng
cành cây bị chém gãy rớt xuống đất nghe rào rào, xong hoàn toàn
im lặng, có thể nói một tiếng thở kế bên cũng nghe rõ. Chiến
trường hoàn toàn im tiếng súng. Tôi biết đạn đạo chạm cành cây
nên nổ trên không thay vì rớt xuống đất mới nổ, vì gấp rút quá
nên tôi không cho bắn đầu nổ cao, mặc dù tôi đã trừ hao yếu tố
nhưng đường tên đạn đạo chạm nổ trên cành, và đã vô tình ngăn
chận địch không dám liều lĩnh truy nã. Tôi trình với Mê Linh:
– Thiếu tá hỏi xem con cái mình có bị
gì không, còn tụi vịt con tôi đoán thế nào cũng lãnh đủ trái này,
mình giữ nguyên yếu tố này, nếu tụi nó lên, mình dứt nó liền. Lúc
này thì Cobra cũng lên vùng nhưng chưa bắn. Tiểu Đoàn trừ cũng
dừng lại dàn hàng ngang đề phòng địch xung phong. Một lúc sau,
tôi nghe nói Trung úy Lạc, Đại Đội 112 là người bạn cùng Khóa 27
Thủ Đức với tôi bị mảnh đạn chém ngay đầu bị thương nặng. Tôi bò
lại thấy Lạc nằm gần đó mở đôi mắt lờ đờ, đầu quấn băng, máu tuôn
xối xả. Tôi nằm xuống ghé sát tai Lạc nói:
– Tao xin lỗi, tao bắn đó, chỉ có mình
mày lãnh trái này, còn tụi nó không dám tấn công nữa nên chưa
biết thế nào, mày mà chết tao ân hận lắm, phải bắn chận nếu không
tụi nó tràn lên.
Lạc chỉ mỉm cười héo hắt, còn tôi thì
hết sức buồn bã hỏi tiếp:
– Mày thấy thế nào.
– Đau, không còn cảm giác gì hết. Thấy
Lạc tỉnh táo như thế tôi càng lo hơn vì người bị thương nặng
trước khi chết thường rất bình tĩnh như thế.
Tôi lại nói với Lạc như nói với một
người sắp chết:
– Một lần nữa, tao xin lỗi mày. Nói
xong tôi bò lại phía Thiếu tá Mễ. Nhờ quả đạn đại bác này mà địch
không dám đuổi theo. Trời đã gần chiều nên có lệnh trở về căn cứ,
Lạc cũng được trực thăng di tản. Trong lúc hai đệ tử lo ăn uống
còn tôi xuống suối tắm. Tại đây tôi gặp Trung tá Bảo cũng vừa đi
xuống tắm, thân hình ông cao lớn và nụ cười rất dễ thương, nhưng
tôi thấy lạ một điều là ông mặc áo giáp khi đi tắm, và chỉ có ông
là duy nhất mặc áo giáp mà thôi. Điềm gì đây, hay là ông đã linh
cảm được điều gì.
Sáng ngày 27/3/1972, trong lúc tôi ăn
cơm thì có một người lính chạy vào nói Thiếu tá Mễ gọi. Tôi xách
máy chạy ra ngoài tuyến giữa Đại Đội 112 và 114 thì thấy Thiếu tá
Mễ và Thiếu tá John Duffy (hiện ở San Jose), cố vấn Mỹ đang ngồi
sát gốc cây nhìn về phía trước mặt chỉ chỉ. Lính gác phát giác
địch xuất hiện phía bên kia triền đồi hướng Tây Nam căn cứ
Charlie, bọn chúng đang đi lên đồi như đi chợ. Thiếu tá Mễ hối
tôi:
– Bắn
nhanh lên không tụi nó đi hết.
Địch xuất hiện khá xa cỡ bảy tám trăm
mét đường chim bay, tôi quay sang Thiếu tá Duffy hỏi có đem theo
ống dòm cho tôi mượn, xa quá mắt thường bắn không chính xác,
Thiếu tá Duffy chạy vội về hầm rồi trở lại đưa ống dòm cho tôi.
Tôi dở bản đồ và địa bàn ra nhắm mục tiêu, xong chấm điểm địch
xuất hiện rồi mở máy gọi 417 ở Yankee xin bắn, và gọi thêm 415
tăng cường. Quả đạn nổ đầu tiên cách mục tiêu khoảng 200 mét,
điều chỉnh một lúc vào đúng mục tiêu, xong vạch một tuyến dài cỡ
300 mét trên bản đồ xin 417 và 415 chia nhau bắn, vừa gọi bắn tôi
vừa nói:
– Bảo
đảm thế nào tụi nó cũng khiêng đó thiếu tá.
Thiếu tá Mễ lại hối:
– Nếu trúng rồi bắn hiệu quả luôn.
Sau loạt đạn cuối cùng độ 10 phút, quả
nhiên địch cứ hai thằng dìu một thằng bị thương đi ngược xuống
đồi, tôi đưa ống dòm trình lại với Mê Linh:
– Trúng rồi,
thiếu tá nhìn xem tụi nó khiêng xuống đồi kìa. Thiếu tá Mễ xem
xong đưa máy cho Thiếu tá Duffy rồi lại hối tôi bắn hiệu quả
(fire for effect). Tôi đề nghị:
– Đề nghị Mê Linh cho tụi nó dìu em
xuống đồi, đồi cao như vậy thế nào tụi nó cũng phải tập trung
dưới chân đồi băng bó và nghỉ mệt một lát rồi mới di chuyển, đợi
tụi nó tập trung đông mình làm một lần đưa em vào hạ, dứt cội da.
Thiếu tá Mễ phì cười nói OK. Còn Thiếu tá Duffy không hiểu tiếng
Việt cũng nhe răng cười theo nói OK đô.
Tôi gọi xin chuẩn bị bắn T.O.T (time on
taget) tức là các vị trí pháo binh xa gần bắn trước sau nhưng
cùng lúc đạn nổ trên mục tiêu, đợi 20 phút sau khi địch không còn
khiêng quân xuống đồi nữa, tôi cho lệnh tác xạ. Lúc này thì họ
nhà pháo cũng đã biết tin nên đích thân Bùi Đức Lạc cho bắn tối
đa, tiếng đại bác từ các căn cứ thi nhau rót vào mục tiêu, còn
Mông Cổ nhà ta (anh em đùa vui Nhảy Dù dũng mãnh như quân Mông
Cổ) thì đứng dọc theo chiến hào quan sát như là một chuyện thường
tình (tiếng đạn pháo nổ tới tấp). Dứt loạt đạn tôi hỏi xem mình
có lục soát không, Thiếu tá Mễ nói để Trinh Sát làm chuyện này.
Đến trưa thì một loạt đạn pháo binh của địch từ dãy đồi hướng tây
đối diện và chỉ cách khoảng hơn một cây số với Đại Đội 112 bắn
qua, tiếng depart cũng giống như đã bắn hôm qua, vậy là tụi nó
đưa 75ly nhắm qua thằng 312 để trả lễ rồi, tiếp loạt đạn này là
những trái đạn 105ly rồi hỏa tiễn 122ly thi nhau rót xuống
Charlie mở đầu cho trận chiến khốc liệt nhất tại Quân Khu II từ
trước đến nay, và từ đó Charlie không một phút nào bình yên.
Trừ 75ly không giật bắn thẳng trúng mục
tiêu thì những loạt đạn khác rơi đâu đó ngoài căn cứ Charlie, như
vậy là tụi nó không có đề lô, anh em đề lô chúng tôi thay nhau đo
hướng và phản pháo, khi chúng tôi phản pháo thì địch im tiếng
súng, dứt loạt pháo là bọn chúng trả lễ. Các cuộc đấu pháo diễn
ra như cơm bữa, và lần lần thì những loạt pháo binh tầm xa của
địch rơi trúng căn cứ, đến ngày 29/3/1972 thì chúng đã điều chỉnh
pháo binh được toàn bộ Charlie mà nặng nhất là vào C2. Chúng tôi
biết đề lô của địch đã áp sát được căn cứ và điều chỉnh được mục
tiêu. Tôi nói với Trung úy Cho:
– Tôi nghĩ mấy ngày đầu tụi nó pháo
thăm dò khả năng mình, sau đó mới kéo 130ly đến gần để bắn chính
xác hơn và cũng ngoài tầm phản pháo của ta (đại bác 130ly của
địch bắn xa 32 cây số, còn 155 của ta thì 15 cây số, và 105ly của
ta thì chỉ gần 11 cây số mà thôi), chỗ mình dễ lên hơn cả, thế
nào tụi nó cũng đánh hướng mình.
Sau đó tôi cũng chia sẻ mối âu lo này
cho Trung úy Đúng:
– Tụi nó chắc chắn sẽ tapi tôi sau màn
pháo kích dữ dội, những yếu tố tác xạ tôi đã điều chỉnh xin 310
gọi bắn phụ nếu tôi bắn không kịp. Trung úy Đúng nói:
– Tôi cũng nghĩ như vậy, chỗ của 314 dễ
lên lắm.
– Tôi
thấy khói xịt từ ngọn đồi ngay trước mặt thằng 312 bắn qua, có lẽ
75ly hoặc 57 của tụi nó trực xạ rớt qua luôn bên tôi sao không
thấy thằng 312 gáy (xin bắn).
– 314 quan sát được bắn luôn đi, khỏi
nhờ 312. Hết.
Dứt chữ “hết” tôi hiểu ngay Chuẩn úy Sơn đề lô Đại Đội 112 bị
pháo kích đã tử trận. Tôi vẽ thêm tuyến pháo binh cận phòng trùm
lên thêm hướng Tây Nam để bắn che cho Đại Đội 112. Lợi dụng pháo
binh tầm xa pháo kích, 75ly của địch bắn thẳng từng vị trí của ta
mà không sợ phản pháo vì chúng tôi phải chui vào hầm tránh pháo.
Dứt loạt pháo tôi chạy vội ra tuyến điều chỉnh pháo binh bắn cấm
chỉ (tức là bắn rời rạc thỉnh thoảng từng quả không cho địch hoạt
động) vào vị trí pháo trực xạ của địch, nhưng không hề hấn gì,
chắc tụi nó khoét hầm trong núi, mỗi lần pháo tầm xa pháo kích
thì chúng kéo súng ra bắn theo để khỏi lộ vị trí. Tôi gọi 310 xin
mỗi lần tôi bị xơi pháo thì cứ gọi Phở Bò (pháo binh) nào của ta
rảnh thì bắn cấm chỉ không cho tụi nó kéo pháo ra trực xạ.
Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie
bị pháo kích thật nặng, mỗi ngày cỡ ngàn quả mà nhiều nhất là
130ly, rồi đến đại bác 122ly, và cả hỏa tiễn 122ly mà tôi nghe
được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu tá Lạc tụi tôi bị ăn 130ly,
ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lãnh pháo?
Lúc này Đại tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II Nhảy Dù
ở Căn cứ Võ Định cũng đã trình lên cấp trên xin cho TĐ11ND rút ra
ngoài căn cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lãnh pháo như thế này thì
phản chiến thuật quá. Nhưng Trung tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn
II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ gì chiến
thuật và pháo binh, vẫn kiên trì áp lực... tử thủ, chắc là định
dùng 11 Dù nhử cho địch lên tapi như Đại Đội 2 Trinh Sát Dù tử
thủ ở Đồi C1 dứt gần hết cả tiểu đoàn cộng quân nằm phơi xác ở
đồi C1, vì trận này mà cộng sản đã lên án tử hình Đại úy Trương
Văn Út, Đại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại đội
này. Quân đoàn II còn lệnh cho TĐ11ND ra hố pháo tìm chứng tích
của đầu nổ 130ly mới cho B52 dập. Quân đoàn cũng chẳng màng gần
một phần ba quân số TĐ11ND bị loại ra ngoài vòng chiến vì đạn
pháo và chưa đươc di tản. Cái hào quang chiến thắng của thượng
cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Nhảy Dù thật quá đắt, và quả
thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố
đạn đo hướng bắn và bới tìm đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các
bộ óc đặc sệt chỉ thị đây. Hằng trăm thương binh, mấy chục binh
sĩ tử thương vì pháo còn chưa di tản được nằm đầy các giao thông
hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2
500 mét thì nói gì đáp xuống tải thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một
pass B52 đánh về hướng Nam gần Charlie thì nhằm nhò gì, pháo của
chúng đặt về hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20
cây số thì không dập. Mỗi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng,
pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ
còn biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi
phản pháo nếu có thể. Tình hình hết sức khẩn trương, nếu không có
lệnh rút, chắc chắn chết hết vì pháo.
Sáng sớm ngày 01/4/1972, đúng như chúng
tôi dự đoán, sau màn điểm tâm đại pháo các loại, địch bắt đầu tấn
công từ hướng Nam Charlie trực diện Đại Đội 114. Địch đông như
kiến bám theo các thân cây cổ thụ dùng đủ các loại súng bắn thẳng
vào vị trí Dù, trong lúc đó, đề lô địch cũng chuyển xạ vào các vị
trí pháo binh của ta để cấm chỉ không cho yểm trợ. Lúc này đã lộ
rõ ý định của địch, mấy hôm nay, chúng chỉ pháo kích Charlie chứ
không pháo vị trí pháo binh của ta, để ta lầm tưởng chúng chỉ
pháo kích Tiểu Đoàn 11 chứ không đánh, rồi ta chỉ lo phản pháo mà
quên đi bộ binh của chúng đang im lặng tiến gần ta. Như vậy có
thể Charlie bị bao vây rồi. Cũng may việc giương đông kích tây
này mà các pháo đội của ta không bị pháo binh địch điều chỉnh
chính xác, cho nên còn rảnh tay yểm trợ được cho tôi. Trước mặt
chúng tôi là đơn vị tinh nhuệ nhất của cộng sản Bắc Việt, Sư đoàn
320 có một Trung đoàn có biệt danh là quả đấm thép đang dàn hàng
ngang trước mặt chúng tôi ồ ạt xông lên bất kể phi pháo, Đại Đội
114 anh dũng bắn trả, Đại Đội 112 cũng tiếp ứng, những người lính
Dù thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đứng thẳng từ
các chiến hào đan một lưới lửa ra ngoài phòng tuyến, và tất cả hệ
thống tác xạ pháo binh đều chuyển qua hết tần số của tôi, sẵn
sàng gom bi.
–
415, 416, 417 đây 314 xin tác xạ, địch tấn công, trường ca L1,
L2, L3 (các hỏa tập pháo binh làm thành những tuyến cản). Một
quả. Bắn khi sẵn sàng. Hết.
Không cần tôi xin tác xạ. Các pháo đội
đạn đã lên nòng khi biết tôi bị tấn công, nên khi nghe được tiếng
tôi gọi bắn thì đã nghe tiếng depart, những tiếng hú rợn người
lướt qua đầu, đất tung mù mịt trước mắt.
– Các trường ca. 5 tràng. Bắn hiệu quả.
Hết.
Đạn tua
túa hú gọi mục tiêu, những cây cổ thụ bật gốc ngoài phòng tuyến,
bụi tung mù mịt, cứ hễ dứt loạt đạn pháo của ta thì địch cũng
nhỏm dậy bắn vào, chúng đã đào các hố núp ngoài vị trí nên liều
lĩnh bắn che cho tốp khác từ hướng tây nam tiến lên, bất kể đạn
pháo, những con thiêu thân dàn hàng xung phong lên đồi. Lúc này
thì phi cơ đã lên vùng sẵn sàng thả bom, Trung úy Cho nói với
tôi:
– Nếu tụi
nó vượt được hàng rào thì bắn ngay sát tuyến của mình. Tôi trả
lời:
– Trung
úy bảo các con đội nón sắt và mang luôn ba lô che phía sau lưng,
lỡ có trái nào lọt vào tuyến thì phải chịu, nếu chịu tôi mới dám
bắn.
Trung úy
Cho nói OK, và tôi gọi các vị trí bắn gần lại từng chục mét cho
đến khi sát tuyến. Những loạt đạn cận phòng này rất có hiệu quả
và không biết có quả nào lọt vô luôn trong phòng tuyến hay không
vì đạn pháo của cả hai bên lúc này bắn dữ quá. Sau mỗi loạt pháo,
tôi lại nhỏm dậy nhìn ra ngoài, xác địch đầy ngoài tuyến nhưng
chúng vẫn bám chắc không chịu rút lui. Tiếng súng lúc này đã rời
rạc, có thể chúng chỉ lui lại để làm một cái gì đó. Bộ chỉ huy
Tiểu Đoàn 11 bảo ngưng tác xạ để tụi Tây (tức phi cơ Mỹ) nó làm
việc, rồi lại tiếp theo là phi tuần của Không Đoàn khu trục 530
tại Pleiku, Trung úy Trương Minh Ẩn lái chiếc Skyraider (hiện nay
là Tiến sĩ Phó thị trưởng Haltom City, Texas) vào vùng nãy giờ
gầm thét ngang trời thả những loạt bom ngoài vòng rào, chỉ cách
vị trí cỡ 50 mét theo yêu cầu của Trung tá Bảo, những núi lửa bốc
lên cao sau mỗi tiếng nổ và phi cơ của anh trúng nhiều vết đạn
phòng không, suýt chết. Lần đầu tiên trong đời lính, tôi thấy
Nhảy Dù chịu chơi dám thả bom gần như vậy và bắn pháo binh cách
mình hai ba chục mét (hiệu quả sát hại của pháo binh 105ly là từ
50 đến 100m, bắn cách mình cỡ hai ba chục mét là rất liều lĩnh và
hết sức nguy hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những
người lính Dù chịu đựng dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày,
phòng tuyến bể hết mà vẫn gan dạ tử thủ như thế.
Bên tai tôi có tiếng gọi của Thiếu tá
Lạc, ông bảo tôi có cần gì thì tất cả đều sẵn sàng, và tôi trả
lời nếu gà mình còn gáy (tức pháo binh còn bắn), thì không có tên
răng đen mã tấu nào có thể bước qua 114 được. Sở dĩ tôi dám khẳng
định như vậy là nhờ tinh thần chiến đấu dũng mãnh của anh em 114
Dù cho tôi sự an toàn trong lúc gọi pháo, nếu không thì bể tuyến
lâu rồi. Còn Trung úy Đúng thì rất tế nhị không xen vào hệ thống
tác xạ, để dành hết thời gian cho tôi gọi các pháo đội bắn, 310
cũng dặn tôi cẩn thận, tụi nó tạm yên là có vấn đề mới, nhớ canh
chừng thêm phía thằng 112. Vừa lúc đó thì hàng loạt tiếng depart
từ trong núi vọng về, thôi rồi, lần này chúng tập trung tất cả
các loại pháo chứ không riêng gì 130ly rót tới tấp vào vị trí ta,
ít nhất cũng 5 vị trí pháo của chúng bắn đồng thời vào C2, đây là
một kiểu bắn T.O.T giống như của ta, C2 rung lên dưới những cơn
địa chấn, tôi chạy vội vào hầm, tất cả các vị trí tác chiến và
pháo binh của ta đều bị pháo, tiếng các pháo đội gọi báo cáo ồn
hẳn lên trên hệ thống rồi im lặng vô tuyến, có vị trí trúng pháo
nhưng không trúng hầm đạn nên không có tiếng nổ phụ. Tụi nó mà
điều chỉnh được các vị trí pháo của mình thì bỏ bu, vừa lo sợ tôi
cũng vừa tìm những ngôn từ dễ thương như thế để trấn áp nỗi hồi
hộp, sau loạt pháo này là chúng mày sẽ tràn biển người lên lấy
thịt đè người. Nhảy Dù cố gắng, Nhảy Dù cố gắng, tôi lẩm bẩm bốn
chữ đơn giản này, binh chủng chúng tôi không có những khẩu hiệu
đao to búa lớn, rất đơn giản như một sự cố gắng, anh em quân đội
hết thế hệ này đến thế hệ khác cố gắng làm cho máu đồng bào bớt
đổ bằng chính máu của mình. Trong tiếng pháo nổ vang trời, tôi
nhấc máy gọi 310:
– 310 có nghi tụi đề lô nó áp sát mình
không, nghi tụi nó ở đâu thì con gà nào của mình “hưỡn” cho gáy
đại vài tiếng dằn mặt tụi nó cho biết thế nào là lễ độ, chứ chơi
như vậy hiếp quá. Nhưng 310 vẫn im lặng. Một sự im lặng rợn người
vì tất cả im lặng chờ đợi.
Dứt loạt pháo bắn T.O.T này, quả nhiên
địch hô xung phong, nhưng tiếng hô xung phong càng lúc càng yếu,
chúng tôi đã quen thuộc kiểu này, chúng mày chém vè ai mà không
biết, chắc chắn chúng mày bị thiệt hại rất nặng nếu không thì đã
là nhào lên tiếp để... lãnh đạn rồi. Những tiếng pháo thưa dần
tại C2 nhưng các vị trí pháo của ta vẫn còn bị địch cấm chỉ, tôi
nhìn ra phía Yankee, những cột khói bốc lên, rồi căn cứ 5 và căn
cứ 6 cũng thế, tụi nó đang điều chỉnh pháo binh. Thấy mẹ rồi.
Chiều đang xuống dần, những người lính
cũng vội vã sửa lại hầm hố, đào giao thông hào cho sâu thêm,
người chết và thương binh tăng thêm làm nặng thêm mối âu lo của
tiểu đoàn, tôi chạy vội ra phía hai đệ tử đang ngồi chong mắt
nhìn ra ngoài tuyến, trên tay hai đứa có hai cây M16 và dây đạn
từ lúc nào (hai đệ tử pháo binh mang máy cho ông thầy thường
không đem theo súng).
– Khỏi cần nấu cơm, tao ăn cơm sấy được
rồi, có gì nhớ kiếm tao. Hai đệ tử nhìn tôi, lo lắng, tôi hất mặt
về hướng đông căn cứ không nói, nhưng chúng cũng hiểu tôi nói gì.
Một đơn vị tổng trừ bị cơ động vào bậc
nhất của quân đội bị chôn chân làm vật tế thần, đóng quân ở
Charlie ngày ngày ăn pháo không khác nào con dê bị trói vào cột
đợi ngày hiến tế, Việt cộng quá nóng lòng đánh gấp để lấy tiếng
trên bàn Hội nghị Paris là đã tiêu diệt được một đơn vị Nhảy Dù,
chứ nếu chúng khôn ngoan một chút thì chỉ cần pháo thôi là cũng
đủ tiêu tùng hết. Tiểu Đoàn xin rút, Lữ Đoàn xin rút, Quân Đoàn
cũng không cho, có một âm mưu gì muốn chúng tôi thân bại danh
liệt tại ngọn đồi vô danh này, họ muốn biến những người lính
TĐ11ND thành những chiến sĩ “L’enfer Des Hommes” tức là những
người ra đi không về trên ngọn đồi quyết tử trong bộ phim vừa
chiếu ở Sài Gòn hay sao, nếu là những đơn vị khác thì đã rút đi
lâu rồi. Thật oan nghiệt cho những người lính mang danh những đứa
con của Thần Chiến Thắng Micae (Tổng Lãnh Thiên Thần Micae là
Thánh bổn mạng của binh chủng Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa).
Những ngày hôm sau, địch tiếp tục pháo
căn cứ, và sau loạt pháo là mon men đánh thăm dò tiếp Đại Đội
114. Liên tiếp trên một tuần, 114 bị tấn công nhưng mức độ chỉ
vừa phải, và không lần nào địch vào được sát tuyến, sau mỗi lần
tấn công thất bại, đêm về là chúng bò lên lấy xác, và Đại Đội 114
cũng không buồn bò ra ngoài thu chiến lợi phẩm. Sau mỗi đợt pháo
kích, căn cứ càng xơ xác không còn nhìn ra hình dáng nữa, từng
tấc đất bị xới lên, mùi thuốc súng nồng nặc khắp nơi, cây cối bị
khói ám đen thui và bị mảnh đạn pháo chém ngang dọc ngả nghiêng,
hầm hố tanh banh, tôi có cảm tưởng một con kiến cũng không sống
được, những cuộn băng vết thương văng tung tóe dính trắng xóa
trên các ngọn cây, địch đã điều chỉnh được toàn bộ căn cứ C2,
pháo vô là trúng phóc. Những hàng dây kẽm gai cao ngang ống chân
ngoài tuyến Đại Đội 114 giờ biến đâu mất dưới cả hai làn pháo của
ta và địch, có thể nói là nằm lăn xuống đồi cũng không còn vướng
một cộng kẽm nào. Những ngày đầu chúng chỉ bắn bằng đạn nổ, những
ngày sau thì xen vào đạn delay tức là đạn chui vào lòng đất hơn
một mét rồi mới nổ, không có hầm hố nào chịu nổi cả, thế mà ngoài
phòng tuyến anh em Dù vẫn sống, vẫn thở, những người chết và bị
thương thì vẫn nằm chung với anh em dưới chiến hào, mùi thuốc
súng và đạn pháo đánh át đi mùi tử khí, nội hơn một trăm anh em
bị thương không được di tản cũng là gánh nặng tâm lý đè lên tinh
thần chiến đấu của người lính. Nhưng đây là Nhảy Dù, một dân chơi
thứ thiệt, dám cân hồ tất cả giới giang hồ khét tiếng sinh Bắc tử
Nam thì còn coi cái chết vào đâu... Là dân pháo binh, nhưng tôi
cũng ngán kỷ luật chiến đấu của Nhảy Dù, về Sài Gòn chịu chơi tới
đâu thì chịu, chứ ra trận thì có lệnh là phải tiến, không có lệnh
lui thì... mẹ kiếp, trận này nằm đây chịu chết để vinh quang cho
những tên không biết mẹ gì là chiến thuật đã trói tay chúng tôi,
tận diệt.
Ngày
6/4/1972, địch tấn công căn cứ Delta của Tiểu Đoàn 2 Dù ở phía
Nam nhưng bị đánh bật ra để lại hằng trăm xác, không chừng Tiểu
Đoàn 11 Dù cũng được lệnh phải đợi địch đánh để làm giống như vậy
chăng, tụi nó đánh Đại Đội 114 cả tuần rồi mà, chết quá trời mà
đâu có lên được. Địch lại pháo kích, nằm dưới hầm nghe đạn pháo,
có những trái đạn delay rơi sát hầm, nổ tung dưới lòng đất kêu ục
ục, đất chuồi xuống, cái chết đang từ từ đến với tôi với tất cả
nỗi phẫn nộ, đúng là sinh nghề tử nghiệp, pháo nó thì chết vì nó
pháo là công bằng sao, tôi đang bị trói tay mà. Sau dứt mỗi loạt
pháo, tôi chạy vội ra tuyến quan sát, những người lính vừa tu bổ
công sự chiến đấu, vừa đưa mắt nhìn tôi dò hỏi, như khẩn khoản
tôi nói một lời gì, tôi biết họ muốn hỏi gì nên cũng chỉ biết hất
mặt về hướng đông, đường ra Quốc lộ 14, nếu bị địch tràn ngập.
Ngay lúc đó thì có một người lính giơ tay ngoắc tôi, xong chỉ về
ngọn đồi xéo về hướng đông nam, tôi cúi mình chạy đến, cách đó
khoảng 500 mét đường chim bay, bóng một tên lính Bắc Việt in trên
nền trời với tất cả thách thức, như vậy là cả ba hướng Đông, Tây,
và Nam đều bị địch bao vây, vậy còn hướng Bắc, gần nhất với ngọn
đồi Charlie của Đại Đội 111, chưa biết thế nào, không đánh được
thằng 114, tụi nó dám chơi thằng 111 sao, chỉ có phía Tây mới có
thể đánh lên 111 mà lại là là dốc đứng nữa... Tôi gọi Hạnh chạy
vào hầm báo cho Trung úy Cho biết, rồi xách máy PRC25 gọi 415
bắn, điều chỉnh trúng mục tiêu rồi cũng chả ăn nhằm gì, dứt loạt
đạn lại thấy nó đứng lên chống nạnh, như vậy là tụi nó đã khoét
núi nằm sâu trong đó rồi, đâu có móc ra được. Không chừng thằng
này là đề lô, tôi chỉ còn biết xin 415 bắn cấm chỉ khi có thể.
Những ngày kế tiếp, lương thực cạn dần,
có dấu hiệu địch sẽ đánh Charlie vì Đại Đội 111 nằm riêng rẽ, còn
thằng 113 thì nằm kế bên pháo binh khó đánh, và chúng tôi cũng
không còn xuống dưới chân 111 lấy nước được. Hai Trung đoàn 52 và
64 của địch quân số gấp 8 lần, xa luân chiến, tiền pháo hậu xung
gần nửa tháng cũng không chơi được Đại Đội 114, nên thế nào tụi
nó cũng tìm hướng khác và mục tiêu thì chỉ có Charlie của 111.
Ngày 9/4/1972, địch pháo dữ dội Bộ chỉ
huy Tiểu Đoàn 11 và mưa pháo xuống Charlie, xong bắt đầu tấn công
111. Đại Đội 111 chống trả quyết liệt, xác địch đầy sườn đồi. Khu
trục rồi trực thăng võ trang vào vùng trút xuống hàng tấn bom đạn
quanh căn cứ. Sau nhiều đợt xung phong không thành, địch lại rút
lui để lại hằng trăm xác chết.
Lúc này thì địch đã công khai di chuyển
quân xa ban ngày, tiếng xích sắt xe tăng, tiếng xe Molotova có
thể nghe thấy sau những loạt pháo. Bằng mọi giá chúng phải nhổ
cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai Trung đoàn này thì còn
những Trung đoàn khác sẵn sàng vào trận để lấy tiếng trên bàn hội
nghị. Không chơi được Song Kiếm Trấn Ải thì còn gì là danh hiệu
hai Sư đoàn của chúng đây. Vừa đánh chúng vừa điều quân, phía
đông tức là đường rút của 11 Dù, tôi đã quan sát được vị trí bọn
chúng đã đặt hai cây phòng không, một cây 12.7ly và một cây 37ly.
Hướng đông địch đã công khai để lộ vị trí để bắn máy bay và uy
hiếp tinh thần 110. Máy bay yểm trợ cho Charlie thì phải bay từ
hướng Bắc hoặc hướng Nam rồi đánh một vòng về hướng Tây để thả
bom, xong phải chúc mũi về hướng Đông ra thẳng Quốc lộ 14, địch
đã đặt hai cây phòng không tại đây chặn đầu khiến cho máy bay
không dám xuống thấp, thỉnh thoảng chúng còn nhắm xuống Charlie
trực xạ. Mỗi lần máy bay vào vùng là tiếng phòng không từ các
hướng nổ đầy trời, và ít nhất cũng cả chục cây phòng không giờ
đây đã dàn trận. Pháo binh của ta thì gần như bị tê liệt vì bị
pháo cấm chỉ của địch, cả Tiểu Đoàn 11 cũng thấy được nhiều chiếc
Chinook từ Phi trường Phượng Hoàng tải đạn pháo binh vừa đến
Yankee thì bị pháo và phòng không từ hướng đông bắn qua phải trở
lui, ngưng tiếng pháo thì lại bay vào rồi lại bị bắn không đáp
xuống được, cứ như vậy cả ngày. Tôi đã gọi các vị trí pháo bắn
hai cây phòng không này hoài mà cũng chẳng ăn thua gì. Cả nửa
tháng nay chúng đã đào hầm trong núi đợi giờ quyết tử dứt điểm 11
Dù, dầu có bắn trúng cây này thì chúng cũng sẽ điều cây khác đến.
Mấy chiếc khu trục đã trúng đạn phòng không, còn trực thăng võ
trang của ta hay Cobra của Mỹ là miếng mồi dễ lãnh đạn phòng
không nhất nên khó có thể vào vùng.
Đến giờ phút này thì đã rõ thế nào bọn
chúng cũng dứt điểm Charlie. Sáng ngày hôm sau, Đại Đội 111 bị
pháo thật nặng nề, dứt đợt pháo, bộ binh trung đoàn 52 địch tràn
lên, pháo binh của ta cũng bị cấm chỉ không yểm trợ được, định
mệnh đã dành sẵn cho 111, bị tràn ngập nhưng thiệt hại vừa phải,
111 phải rút về nhập chung Bộ chỉ huy tiểu đoàn. Độ nửa tiếng
sau, Trung úy Thinh, Đại đội trưởng 111 chạy vào hầm chúng tôi,
Trung úy Cho hỏi, Thinh kể lại:
– Việt cộng tràn lên là lo kiếm mấy cái
ba lô của ta, chúng chụp được ba lô của tôi, tôi buông ba lô
chạy, tụi nó không đuổi theo, có lẽ tụi nó đói lắm nên lên được
là lo kiếm ăn, chúng lục ba lô của ta, khui đồ hộp ra ăn tại chỗ
(thường là khi rút lui, ta mang theo ba lô trên lưng đề phòng bị
bắn phía sau). Ngay lúc đó thì Trung úy Khánh cũng chạy vào hầm,
tôi hỏi thì Khánh cũng nói bị y như tình trạng của Thinh. Tôi hỏi
tiếp vậy súng Colt của mày đâu. Khánh kéo cái địa bàn M1 đeo nơi
cổ ra nói tao chỉ còn có cái này. Tôi ôm bụng cười ngặt nghẽo làm
mọi người cũng cười theo. Nửa tháng nay, tôi không thể nở nổi một
nụ cười, giờ này ôm bụng cười ra nước mắt về cái chuyện tiếu lâm
có thực này thật thoải mái. Việt cộng ngoài việc bị bỏ đói phải
liều lĩnh hy sinh tính mạng kiếm từng lon đồ hộp của ta, chúng
còn bị ép uống thuốc “Hùng Tâm” tức là một loại thuốc kích thích
uống vào là hăng máu lên xung phong chẳng coi việc sống chết ra
sao cả, chiến thuật biển người của chúng thường kèm với liệu pháp
hùng tâm này. Cứ xem ảnh xác Việt cộng bị xích trên xe tank thì
mới biết cấp chỉ huy của chúng dã man như thế nào.
Sáng ngày 11/4/1972, Đại Đội 112 được
điều xuống chiếm lại Charlie đem theo cả Đại bác 90ly trang bị
riêng cho Nhảy Dù để bắn xe tank hoặc phá hầm, máy bay Mỹ lại vào
vùng thả bom, bay thấp thì sợ phòng không, nhưng bay cao quá khó
trúng mục tiêu, nên những phi đội sau, Tiểu Đoàn 11 xin thả bom
napalm, còn pháo binh vị trí nào của ta không bị cấm chỉ thì pháo
xuống phụ họa sau khi các phi tuần bay ra, hết đợt này đến đợt
khác, từng phi tuần của không quân Việt Nam vào vùng trải những
thảm lửa xuống Charlie, thả bom napalm phải bay thật thấp nên rất
chính xác, từng trái bom rơi trúng mục tiêu, nhưng Việt cộng
quyết cắt đôi 11 Dù nên cố thủ trong các hầm hố của ta bỏ lại.
Bất kể phòng không, chiếc phi cơ Skyraider của Thiếu úy Dương
Huỳnh Kỳ nóng lòng bay thật thấp xuống mục tiêu, thả bom, lúc
ngóc đầu bay lên bị trúng đạn phòng không và cánh bên phải vướng
vào ngọn cây trên ngọn đồi phía đông kế bên chỗ hai cây phòng
không, bị gãy cánh rồi rớt xuống đồi nổ tung, viên phi công đã
oanh liệt hy sinh. Chiếc còn lại bay vòng vòng tìm đồng đội, sau
khi xác định được vị trí, bèn quay trở lại Charlie, giận dữ trút
xuống những trái bom lửa còn lại. Lửa thiêu cháy Charlie, thiêu
luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát.
Ngày 12/4/1972, để trả thù cho đồng bọn
bị lửa bom đốt sạch tại đồi Charlie, địch tăng cường pháo kích
thật mạnh lên đồi C2, từng tấc đất bị cầy lên như địa ngục có
thật, tôi ngồi trong hầm lại nghe cái chết đến từ từ, ước lượng
có đến cỡ gần 10,000 quả đạn đại bác các loại rơi xuống C2 kể từ
ngày tử chiến, ngoài hầm bê tông cốt sắt ra chứ hầm hố như thế
này thì làm sao chịu nổi, bất cứ đơn vị nào mà trấn thủ nơi đây
chắc là phải tự động rút từ lâu rồi, tôi không dám nghĩ đến một
điều xấu nhất dành cho mình, không biết nhà tôi và đứa con đầu
lòng đang mang trong người giờ này ra sao, mỗi lần tôi đi trận,
nhà tôi đều dặn cầu nguyện Đức Mẹ che chở, giờ tôi đang làm điều
này... Chợt thấy Trung úy Cho nhổm dậy cầm lấy máy nghe rồi lo
lắng, tôi cũng qua tần số Trung úy Đúng hỏi, Trung tá Bảo, Tiểu
Đoàn Trưởng Song Kiếm Trấn Ải đã gẫy cánh thiên thần sau loạt
pháo kích vừa rồi, một quả 130ly trúng hầm, Trung tá Bảo hy sinh
còn Thiếu tá Duffy và Thiếu tá Mễ ở hầm khác chỉ bị thương nhẹ.
Thiếu tá Mễ lên thay. Suốt ngày hôm đó, địch tiếp tục pháo kích
C2 và bắn cấm chỉ các vị trí pháo binh của ta. Một bịch gạo xấy
cả tuần nay tôi nuốt không hết, miệng thật đắng còn nước uống thì
đo bằng từng nắp bi đông, riêng việc vệ sinh thì giải quyết ngay
ngoài miệng hầm. Pháo dữ quá nên tôi cũng giới hạn bớt chạy ra
ngoài tuyến quan sát. Trên tấm bản đồ, tôi ghi chi chít những vị
trí nghi ngờ pháo của địch báo cho Trung úy Đúng và Trung úy Đúng
cũng chẳng làm được gì khác hơn, gần tối địch ngưng pháo kích,
tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi Hạnh chạy vào lay
chân tôi dậy hỏi cần gì không, tôi lắc đầu.
Sáng ngày 13/4/1972, Đại Đội 113 được
lệnh đi lên phía Bắc tìm bãi đáp, còn Đại Đội 111 lên ngọn đồi
phía Đông xem có chỗ nào tải thương được không. Khi Khánh chui
vào hầm tôi, tôi thấy mặt có vẻ nghiêm trọng, không còn cái giọng
Nha Trang đơ đớ Quảng Ngãi nữa, không thấy có vẻ đùa cợt hàng
ngày như lúc còn ở hậu cứ, tôi bảo Khánh chạy theo tôi ra ngoài
tuyến và chỉ về ngọn đồi mục tiêu trước mặt, theo hướng tôi chỉ,
bóng tên Việt cộng đứng gác vẫn còn đó, tôi lại chỉ Khánh chỗ vị
trí hai cây phòng không cách đó không xa và nói:
– Tụi nó đầy ở trên đó, tao bắn hoài
cũng chả ăn thua gì, mày hết sức cẩn thận, nếu muốn bắn mở đường
tao bắn cho, khi lên coi chừng phòng không tụi nó trực xạ. Khánh
trở lại 111 bàn với Trung úy Thinh và cũng không thấy xin bắn mở
đường, chắc là muốn giữ im lặng.
Độ nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ
triền đồi bên kia, 111 lên được gần đến đỉnh đồi thì địch khai
hỏa, bằng luôn cả phòng không trực xạ. Không thấy Khánh xin tác
xạ, tôi muốn bắn phụ lắm, nhưng giờ này không biết nó ở chỗ nào.
Súng vẫn nổ, một chốc tôi nghe tiếng Khánh trong máy, Trung úy
Thinh, Đại đội trưởng 111 đã tử trận, Khánh lên thay. Rồi một
chốc lại nghe tin Trung sĩ Lung gọi máy, tôi biết Khánh cũng đã
nằm xuống... Cánh dù lộng gió muôn phương – Vào lòng đất mẹ, máu
xương ngậm ngùi. Đại Đội 111 thêm lần nữa tan hàng. Một số còn
lại rút về được căn cứ. Cả ngày đó địch vẫn tiếp tục giữ mức độ
pháo kích khủng khiếp, lương thực và đạn dược lại cạn dần, lại
thêm người chết và bị thương. Đêm dần xuống, tôi nằm trong hầm
buồn lắm, Trung tá Bảo ra đi hôm qua, Chuẩn úy Sơn đề lô ra đi
trong loạt pháo đầu tiên, Khánh vừa đi sáng nay, Lạc bị thương
nặng chưa biết ra sao, còn những người khác thì nằm đầy ngoài
chiến hào, bao giờ thì rút đây, không phải tôi bi quan, mà tức vì
cái lệnh tử thủ quái ác từ đâu đâu, chết như vậy thật uổng mạng.
Ngày 14/4/1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù tự
quyết định rút lui vào ban đêm, nhưng vào buổi trưa, sau những
đợt pháo kích dữ dội, địch xung phong lên từ phía Đại Đội 114
đồng thời pháo luôn các vị trí pháo của ta, tôi gọi mãi mà không
con gà nào chịu gáy, ngoài tuyến, không còn sợ pháo binh ta bắn
cản, địch nhào lên đông như kiến cỏ, Đại Đội 114 chống cự không
lại phải rút về dàn hàng ngang với Bộ chỉ huy tiểu đoàn, máy bay
cũng đã lên vùng bỏ bom ngay trên tuyến 114, hai bên giành nhau
từng hầm hố, từng giao thông hào. Pháo binh ta coi như bị tê
liệt, tôi đứng dưới giao thông hào sát với Thiếu tá Mễ, và Đại úy
Đoàn Phương Hải, Trưởng ban 3 giờ kiêm Tiểu Đoàn phó, Trung úy
Đúng đứng kế bên, cạnh đấy là Bác sĩ Tô Phạm Liệu, một Bác sĩ
Nhảy Dù mê đánh trận còn hơn cầm ống chích, lưng đeo khẩu Colt
45, tay cầm súng M16 giơ lên, miệng hét binh sĩ rán giữ vững vị
trí, tôi nghĩ thầm trong bụng nói cha nội này đi quân y uổng quá,
phải cầm quân đánh nhau mới đúng. Thỉnh thoảng tôi lại gọi máy,
khản cổ họng nhưng pháo binh của ta im lặng vô tuyến vì vẫn còn
bị pháo kích. Lúc này mặc dù chiếm được gần một nửa C2 nhưng địch
vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên phòng tuyến thứ hai của ta
vẫn giữ được. Chỗ tôi đứng, xác một binh sĩ Dù nằm trên chiến hào
ngay trước mặt, chết đã nhiều ngày, xác trương lên nhưng không
thấy mùi hôi vì đầy thuốc súng, còn trên mình mang thêm nhiều
mảnh đạn pháo sau đó, có lẽ chết hai ba lần. Bỗng Hạ sĩ Hạnh chạy
tới chỗ tôi nói:
– Em kiếm trung úy nãy giờ, Thằng Nhỏ
bị thương muốn gặp trung úy.
Tôi cúi đầu xuống chạy dọc ra ngoài
tuyến, gặp Nhỏ đang nằm dưới giao thông hào, bụng bị mảnh pháo
phá nát, ruột đổ ra ngoài dính đầy bụi đất. Tôi cúi xuống, Nhỏ
thì thào bên tai:
– Em khát nước quá, trung úy đái cho em
uống.
Giữa
tiếng đạn bay, tôi muốn khóc mà không rơi được giọt lệ, đệ tử tôi
đến giờ phút hấp hối còn nghĩ đến ông thầy. Tôi nghẹn ngào nói
với Nhỏ:
– Em
còn điều gì muốn nói thì nói cho Hạnh biết, anh còn phải coi xem
còn bắn được hay không.
Nói xong tôi đưa bi đông nước còn lại
một chút cho Hạnh để cho Nhỏ uống, rồi gạt nước mắt định chạy về
chỗ Thiếu tá Mễ. Ngay lúc đó có nhiều tiếng đạn AK bắn xéo trên
đầu tôi, khói súng mù mịt không thấy rõ phía triền đồi, tôi rút
quả lựu đạn M26 ném xuống dưới chân đồi. Đây là quả lựu đạn đầu
tiên trong đời lính tôi sử dụng để ngăn địch, thay vì phát súng
Colt 45. Không cần quan sát hiệu quả lựu đạn vừa rồi, tôi chạy
lại phía Thiếu tá Mễ. Giờ phút này địch đã lên được hơn nửa đồi
C2 và từ hướng Nam cùng với hướng Tây đánh lên, cả Tiểu Đoàn 11
chuẩn bị một màn cận chiến, bỗng một viên đạn AK bắn trúng bình
khói cay E8 của ta đặt trước mặt Thiếu tá Mễ cỡ chục mét. Tôi
thấy rõ gió thổi ngược khiến cho khói cay màu vàng bay ngược về
hướng tiểu đoàn, những người lính la lên địch pháo khói cay rồi
rút về phía tiểu đoàn, và Tiểu Đoàn 11 chính thức rời bỏ Charlie
vào lúc này, nếu không bị bình khói cay thì không biết thế nào
đây, có lẽ trời khiến cho 11 Dù không bị tràn ngập trên đồi C2.
Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật
“đồng ư quy tận” tức là gọi pháo binh bắn ngay trên đầu cùng chết
với địch nên không dám đuổi theo, thêm nữa hai chiếc Cobra của
Đại úy William Reeder và một phi công khác đã bắn chận vừa rocket
vừa đại liên từ đầu trận đến giờ, hết đạn lại bay về căn cứ tiếp
đạn xong, lại quay trở lại yểm trợ chúng tôi, nhờ vậy chúng tôi
xuống đến chân đồi không có phát súng nào bắn theo. Chiếc Cobra
của William Reeder sau đó còn bay theo đoàn quân đang rút lui để
bắn chận hậu.
Trời hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nữa sợ lộ vị trí, vả
lại chúng đã lên đầy trên C2; và giờ đây có lẽ đang lục hầm kiếm
thức ăn, nên pháo binh của ta hoạt động lại được bắn chận không
cho địch truy kích. Rút theo hướng đông nam độ vài trăm mét thì
nghe nhiều tiếng rít xé trời, bom B52 rơi xuống Charlie cày nát
thành bình địa. Đại Đội 113 ở hướng Bắc hầu như còn nguyên vẹn từ
ngày đầu đến giờ không bị đánh cũng như không thiệt hại vì pháo
kích, nên được lệnh đi ngược xuống Yankee tìm đường ra PZ (tức
bãi bốc, tiếng Anh là Picking Zone), trên bản đồ cách Charlie
khoảng gần 4 cây số.
Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay
lên vùng thả hỏa châu soi sáng, những dây đạn M79 từ phi cơ OV10
rót đều phía sau chận hậu, đạn nổ tụp tụp bum bum nghe như một
điệp khúc buồn nản của chiến tranh. Binh sĩ còn khỏe dìu những
người bị thương nhẹ, thật không thể tưởng tượng được có người bị
thương ở chân phải đi bằng cả hai tay ở những đoạn dốc khó đi
không thể dìu được, bản năng sinh tồn của con người nhất là của
người lính chiến thì không có gì có thể diễn tả ra hết được. Cạn
hết lương thực, đạn dược, thuốc men, và dưới những cơn mưa pháo
khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hơn một trăm
con người còn lại này chia đều mỗi người đã lãnh cỡ gần 100 trái
đại bác, thử hỏi còn có ai chịu đựng được như thế không. Tôi chợt
nhớ đã đọc đâu đó một câu nói của danh Tướng Mỹ, Mac Authur “Tôi
thương những người lính bộ binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện
cái chết trên chiến trường, lại còn phải gánh chịu những bất công
của thượng cấp”. Nghĩ lại hoàn cảnh của TĐ11ND còn tệ hại hơn thế
nữa, bị trói tay để đánh.
Đến gần sáng thì ra đến bãi bốc giống
như một cái thung lũng cạnh một con suối, đây là một khoảng trống
đầy lau sậy, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù kiểm tra lại quân số và chia
khu vực phòng thủ đợi trực thăng bốc về Võ Định. Tôi và đệ tử
Hạnh được cắt lên slick trực thăng sau cùng của Đại Đội 114.
Thông thường khi đi hành quân trực thăng vận, đề lô phải nhảy
theo toán đầu tiên và khi rút thì đi sau hết, để có thể gọi pháo
binh bắn bất cứ lúc nào.
Ngày 15/4/1972, trời sáng dần, khi ánh
nắng mặt trời đầu tiên trong ngày vừa sáng hẳn lên từ phương đông
thì có tiếng trực thăng bay đến, dẫn đầu là hai chiếc Cobra và
phía sau là một đoàn Trực thăng UH1B của Mỹ, hai chiếc Cobra có
trang bị rocket bay một vòng quanh bãi bốc quan sát, một trái
khói màu vàng được thả ra đánh dấu chỗ trực thăng đáp xuống,
chiếc UH1B thứ nhất vừa sà sà xuống mặt đất thì có tiếng đạn cối
của địch rơi xuống nổ ngay chóc bãi đáp, rồi hằng chục tiếng pháo
cối 82ly tiếp tục rơi xuống, những chiếc trực thăng vội vàng bay
thẳng lên không bốc được toán nào. Dứt loạt cối, Việt cộng từ hai
bên triền đồi xuất hiện như mọi da đỏ dàn hàng ngang xung phong y
hệt trong phim cao bồi viễn tây, vì đồi lau sậy thưa thớt nên rất
dễ thấy chúng không thổi kèn xung phong mà vừa chạy, vừa bắn, vừa
hô “hàng sống chống chết” vang trời. Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đang bị
nguyên một Trung đoàn Việt cộng phục kích, Trung đoàn này được
lệnh đi đánh phi trường Phượng Hoàng đêm trước, khi Tiểu Đoàn 11
Dù rút lui khỏi Charlie, chỉ huy của chúng đoán được ta sẽ bốc
quân tại đây nên cho lệnh Trung đoàn này lui trở lại để phục kích
định hốt gọn 11 Dù, bọn chúng tưởng khi pháo ở giữa tất nhiên ta
sẽ bung chạy tản ra chung quanh, bọn chúng đã phục kích sẵn sẽ
hốt gọn, nhưng không ngờ khi chúng tràn xuống, thì Nhảy Dù cũng
bung ra chống lại mãnh liệt.
Trận chiến lúc này giống hệt như một
cái nia đựng đậu đen và đậu trắng sàng qua sàng lại lẫn lộn như
đang đánh xáp lá cà, chỗ nào cũng có tiếng AK47 và M16 nổ lẫn lộn
còn hơn pháo Tết, coi như cả Tiểu Đoàn 11 trừ cùng bắn nhau một
lúc với một Trung đoàn Việt cộng, hai bên chạy qua chạy lại thấy
đâu bắn đó như xi–nê, làm Cobra bay trên đầu cũng không biết bắn
vào đâu, một chiếc trực thăng liều chết đáp xuống đất, tôi thấy
một số người chạy tới leo lên, những chiếc sau vừa sà xuống thì
Việt Cộng cũng rượt gần đến nơi, xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh
(hiện ở Houston) dừng lại ôm Đại liên 60 ria hết luôn một dây đạn
còn lại, Việt cộng ngã rạp xuống đồi rụng như sung, viên đạn đại
liên cuối cùng vừa ra khỏi nòng thì mấy cây AK đã chỉa vô đầu
Vinh, có lẽ vì cảm phục tinh thần anh dũng của người lính Nhảy Dù
này mà chúng không giết để trả thù cho đồng bọn, chỉ bắt sống.
Nhờ lòng quả cảm của người xạ thủ đại liên này mà một slick duy
nhất 4 chiếc trực thăng đã bốc được Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn 11 Nhảy
Dù, sĩ quan liên lạc pháo binh, và cố vấn Duffy, nhưng Đại úy
Đoàn Phương Hải, Trưởng ban 3 (hiện ở San Jose) thì bị một viên
đạn AK bắn xuyên bàn chân từ dưới đất lên, rớt xuống máy bay, may
nhờ Thiếu tá Duffy gan dạ quay trực thăng trở lại kéo lên.
Đạn hai bên vẫn nổ tới tấp, thêm một
cặp Cobra và một slick trực thăng khác vào vùng bay vòng vòng
trên trời. Việt cộng chỉ bất ngờ đi phục kích, nên không đem theo
phòng không, cho nên trực thăng của Mỹ mới hoạt động được, nhưng
chỉ bốc chứ không dám bắn vì sợ trúng quân bạn. Chiến trường lần
lần bớt đi tiếng súng, nhưng tiếng kêu hàng vẫn còn nghe văng
vẳng, tiếng trực thăng vẫn còn nghe vần vũ trên đầu. Lúc này tôi
đang đứng sát dưới bờ suối với ba bốn người lính nhìn lên khá rõ,
nên bảo họ chạy theo tôi ra bãi, may ra trực thăng thấy được rõ
đồ rằn ri so với đồ vàng bụi đất của Việt cộng mà bốc chúng tôi
lên. Những người lính nghe theo tôi chạy lên triền đồi, đang
chạy, tôi thấy một chiếc Cobra bay phía bên trái ngược hướng tôi
chạy lên, chừng quay lại phía sau thấy nó vòng lại nghiêng cánh,
kinh nghiệm chiến trường đã cứu tôi thoát chết, Cobra mà nghiêng
cánh về phía nào là nó bắn rocket về phía ấy, chắc là trực thăng
nó thấy Việt cộng rượt theo chúng tôi nên bắn, tôi chỉ kịp hô:
– Dạt ra một bên, trực thăng bắn.
Tôi vừa nhào đại qua một bên thì một
tiếng rocket nổ như trời giáng cách tôi cỡ vài mét không còn nhớ
rõ phía bên nào, tôi thấy mình văng lên rồi rớt lăn trở xuống
triền đồi, cây súng Colt 45 cầm trên tay văng đâu mất, cái địa
bàn đeo trên cổ và tấm bản đồ nhờ bỏ trong áo nên còn lại, may
mắn tôi chỉ bị chấn động nhẹ, nhưng không hiểu những người kia có
sao không. Tôi đứng dậy chạy ngược xuống bờ suối thì gặp một tốp
Dù, trong đó có Chuẩn úy Linh đang chạy theo bên bờ suối về hướng
Bắc, thấy tôi họ mừng lắm, cả tôi cũng thế, chưa kịp hỏi thì
tiếng súng đuổi theo cũng nghe kế bên lẫn tiếng kêu đầu hàng, tôi
chỉ hướng chạy qua bên kia bờ suối, vừa vượt qua bờ suối thì một
người chạy sau bị bắn rớt xuống suối, tôi thúc anh em chạy tiếp,
chạy khoảng 50 mét không nghe tiếng rượt theo, chúng tôi dừng lại
để thở. Tôi nói vội với anh em:
– Tuyệt đối không đầu hàng, đi theo
tôi, nếu người nào bị bắn mà bị thương, kể cả tôi, thì phải bỏ
lại, chạy thoát thân, chứ không được đầu hàng.
Mọi người tuân lệnh. Vừa đi tôi vừa xem
bản đồ. Võ Định cách khoảng 8 cây số, chỉ băng theo hướng đông
bắc là đến nhưng thế nào cũng gặp Việt cộng, tụi nó dứt Charlie
rồi tất phải đánh phi trường Phượng Hoàng, vô đó là lãnh đủ (về
sau đúng như vậy vì bọn chúng đang điều quân đánh căn cứ Võ
Định). Cho nên tôi quyết định đi thẳng lên hướng bắc khoảng một
cây số đánh lạc hướng địch, rồi vòng lại hướng đông nam ra Diên
Bình, cách đó khoảng mười mấy cây số. Vừa đói, vừa mệt, 10 người
mà chỉ còn có 3 cây M16, mỗi cây chỉ có một băng đạn, không biết
lúc đụng trận nữa thì thế nào, tôi lại nhớ đến Hạnh, người đệ tử
nhỏ con nhưng rất tháo vát, lên hạ sĩ thường được ở lại pháo đội
học bắn, nhưng không hiểu khoái tôi cái nỗi gì đòi theo tôi đi đề
lô cho khổ tấm thân, bây giờ không biết ra sao. Đi gần nửa ngày,
đồi cao cả ngàn mét, đói lả người, nửa tháng nay không đêm nào
ngủ được vài tiếng. Bỗng người đi đầu giơ tay ra hiệu dừng lại,
khu rừng tre trước mặt có tiếng động, quan sát một hồi thấy được
một toán Dù thất lạc, chúng tôi ra thủ hiệu nhận diện rồi nhập
chung, tới chiều thì gặp thêm một toán nữa, thêm hai chuẩn úy và
mấy hạ sĩ quan. Quân số bây giờ là 26 người với 10 cây M16, có
vài người bị thương nhẹ nơi chân và tay, mọi người đều đói quá,
không ai còn miếng gạo sấy nào, chỉ còn một lon thịt ba lát, anh
em khui ra đưa cho tôi, tôi cắn một miếng rồi trả lại nói mặn
quá, cả tuần nay chẳng nuốt gì được để từ từ rồi ăn. Biết được
Chuẩn úy Linh lớn tuổi và thâm niên hơn hai Chuẩn úy kia nên tôi
kêu Linh riêng ra và nói:
– Lính của anh, anh dễ chỉ huy hơn, còn
tôi thì dẫn đường ra thôi.
Chuẩn úy Linh trả lời:
– Trung úy lớn nhất ở đây, xin chỉ huy,
dẫn đi dâu chúng tôi theo lệnh trung úy.
Tôi trở lại nói với anh em:
– Như vậy tôi ra lệnh, nếu gặp địch
đông thì bỏ chạy, nếu địch ít thì đánh, ai bị thương kể cả tôi
cũng phải bỏ lại, tuyệt đối không được đầu hàng, tôi có niềm tin
tôn giáo, Đức Mẹ sẽ che chở chúng ta. Tôi động viên như thế và
mọi người tuân lệnh. Tôi cho tất cả mọi người còn vũ khí đi đầu,
ba chuẩn úy chia ra xen kẽ, còn lại không có vũ khí thì đi sau.
Tôi cũng dặn dò kỹ hướng ra Quốc lộ 14, trên đường sẽ gặp những
gì trên bản đồ. Nếu có thất lạc vì đụng trận thì theo hướng đó mà
ra. Không phải tôi sợ anh em đụng trận, tôi chỉ muốn làm tròn bổn
phận người anh, lỡ tôi có bề gì thì biết đường ra cho sớm, trễ
một ngày là có thể chết vì đói.
Tối đó, tôi dặn Chuẩn úy Linh cắt gác
xong chia nhau đi ngủ. Sau một đêm nghỉ thật ngon kể từ nửa tháng
nay, tôi đánh thức mọi người dậy thật sớm để leo núi đỡ mệt hơn.
Đến trưa, theo bản đồ chúng tôi đến một làng Thượng đã bỏ hoang,
không có gì để ăn, chỉ có một cây xoài thật cao toàn trái xanh,
đói gần chết mà chơi thứ này vô còn tịch sớm hơn nữa. Một người
lính bỗng thấy một cây điều rừng trong bụi cây trước mặt, có rất
ít trái nhỏ màu vàng cỡ ngón tay, tôi nói để tôi thử coi, bứt một
trái không dám đưa hẳn vào trong miệng để nhai, tôi nhây nhây
ngoài răng cửa, hơi có vị ngọt chát, tới chừng nuốt vô vừa đến
cuống họng thì nghe thật rát, tôi vội vàng nhổ ra, nguyên cổ họng
tôi bị ngứa tàn bạo, và một chốc sau thì đôi môi bị sưng lên,
tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, may mà không nuốt vô, nếu không dám toi
mạng lắm. Chúng tôi tiếp tục đi một lúc thì lên một ngọn đồi dài
mà đỉnh của nó thật bằng phẳng như ai đã san bằng. Ngọn đồi rất
đẹp, cây cối rậm rạp, chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ thì nghe tiếng
trực thăng bay từng đoàn về hướng Nam, có lẽ trực thăng đổ quân,
tôi cho anh em rút xuống triền đồi bên này, sợ trực thăng dọn bãi
hay pháo binh bắn ghép bãi lở trúng thì xui tận mạng. Thật đúng
như phép lạ, trực thăng dọn bãi phía bên kia đồi, đạn bạn vút qua
trên đỉnh mà chúng tôi vừa rút xuống. Hú hồn. Sau đó nghe tiếng
trực thăng đáp xuống. Đúng là đổ quân nhưng không biết đơn vị nào
đây (sau này tôi biết được Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đổ quân). Sợ ngộ
nhận, tôi quyết định đi tiếp, đến gần chiều thì dừng quân nghỉ
đêm. Đôi môi tôi giờ này sưng vù lên và thâm đen phía ngoài, còn
trong cổ thì ngứa vô cùng, chỉ muốn đưa cả nguyên bàn tay vào
miệng mà cào cho đã ngứa, không biết tôi có ra kịp quốc lộ không,
nếu bỏ mạng lãng xẹt như thế này vì ăn bạy thì đau quá. Trong lúc
dừng quân, chúng tôi kiếm được đâu đó ít rau tàu bay, luộc lên
với nước suối cầm hơi. Đêm đó nhìn lên bản đồ, tôi còn cách sông
Pô–kô độ 2 cây số nữa, qua sông này được thì chiều tối đến xã
Diên Bình. Nhưng con sông rộng và nước chảy thật xiết như thế và
người nào cũng đuối sức hết thì làm sao mà qua đây.
Trưa hôm sau, chúng tôi đến sông Pô–kô
đúng y tọa độ. Tôi cho mọi người ngồi nghỉ trong các lùm cây trên
bờ. Ngay lúc đó, một chiếc trực thăng từ hướng Quốc lộ 14 bay
thẳng vô núi, chúng tôi chạy ra bờ sông cởi áo giơ tay vẫy vẫy.
Từ xa trực thăng thấy được nhưng không dám bay lại gần, nó chỉ
bay vòng vòng quan sát chúng tôi một hồi rồi xong cũng giơ tay
vẫy vẫy rồi bay luôn. Tôi nghĩ trong bụng, chắc là trực thăng đi
kiếm chúng tôi, thấy chúng tôi gần ra đến nơi rồi nên bay vào tìm
những người còn kẹt lại trong sâu hơn, nhưng thế nào cũng báo về
Lữ Đoàn để báo cho đồn Địa Phương Quân Diên Bình biết đừng bắn
lầm. Tôi xem lại bản đồ, đây là đầu một cái ấp, thế nào họ cũng
có ghe để qua sông, tôi cho người đi dọc bờ sông khoảng một trăm
mét thì thấy có một cái ghe nhỏ và một người đã tình nguyện bơi
qua bên kia bờ lấy ghe, rồi lần lượt đưa chúng tôi qua sông. Có
lẽ bề trên đã an bài, một cái ấp Thượng bỏ hoang như thế này lại
có một chiếc ghe của ai đó bỏ lại để đưa chúng tôi qua sông, như
một phép lạ. Mọi người đều kiệt sức nên tôi quyết định cho anh em
đi ngang qua rẫy dân và cố tình nói chuyện lớn tiếng, để nếu có
lính nghĩa quân ở đây thì nhận ra giọng miền Nam chứ không phải
giọng Bắc con cháu giặc hồ mà không bắn lầm, đồng thời cũng vớt
vát chút đỉnh củ khoai trái bắp gì đó trên đường đi. Đây là một
quyết định có lẽ lạ đời nhất và phản chiến thuật nhất của một sĩ
quan. Cứ như vậy mà đi, có lúc những người lính còn ca lên mấy
câu vọng cổ hoặc mấy bài hát của miền Nam nữa, chẳng có gì ăn
trên đường qua rẫy vì rẫy cũng bị bỏ hoang lâu rồi, thì lót lòng
bằng tiếng ca ngọt ngào hương lúa miền Nam quê hương vậy.
Chúng tôi từ địa ngục trở về đâu có còn
ngán cái địa ngục nào nữa đâu, ba cái thằng du kích xã dám xuất
hiện ngăn chúng tôi sao? Tôi lấy cái lý của kẻ lỳ cho anh em tự
do ca hát nói chuyện cho đến khi gần đến Xã Diên Bình thì dừng
lại. Sợ mò vào ban đêm bị vướng mìn tự động hay lựu đạn gài nên
tôi cho dàn quân lại phòng thủ ngủ đến sáng mới vô, và dặn dò hết
sức cẩn thận, không chết dưới chục ngàn quả đạn pháo mà chết vì
đạp mìn Địa Phương Quân thì lãng xẹt. Tôi vừa đi một vòng kiểm
soát lại mọi người thì Chuẩn úy Linh tiến lại nói có hai thằng mò
vào liên lạc được bên trong rồi, họ mở cổng cho mình vào. Tôi nói
tài thiệt, sau đó tôi đi vào đồn chào vị Đại úy Tiểu Đoàn trưởng
Địa Phương Quân và trình bày lý do, viên đại úy nói hồi chiều tôi
đã được biết trước anh em sẽ về đúng nơi đây đêm nay, nên đã
chuẩn bị các thứ để giúp anh em Nhảy Dù. Tôi mượn máy liên lạc
với Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù và nhờ chuyển qua báo cho Tiểu Đoàn
11 Nhảy Dù biết chúng tôi đã ra đến nơi, xong nói tôi có một số
người bị thương, xin đại úy săn sóc dùm, viên đại úy cho người
dẫn anh em bị thương lại một tu viện gần đó, tôi đi theo. Những
vết thương được các seour rửa ráy hết sức cẩn thận, giòi con nào
con nấy to bằng đầu đũa bò ra từ trong tủy xương tay mà anh em
không cảm thấy đau đớn chi cả, có những nỗi đau còn lớn hơn trong
lòng mọi người và không ai dám nói ra vào lúc này, vì nói ra
chúng tôi sẽ khóc. Giọt lệ anh hùng phải rơi đúng lúc và đúng
chỗ. Các soeur cũng cho tôi vài viên thuốc gì đó uống cho khỏi
làm độc, tôi cám ơn rồi về gọi Chuẩn úy Linh đến để giao lại
nhiệm vụ chỉ huy anh em. Viên đại úy hỏi tôi muốn ăn gì, tôi chỉ
xin một tô cháo, và một chỗ nằm.
Trong lúc chờ đợi, tôi bước ra khỏi
hầm, bước lên cầu Diên Bình nhìn về dãy Trường Sơn âm u phía Tây,
những ánh hỏa châu lung linh trong đêm tối như canh giấc nghìn
thu cho đồng đội tôi đời đời an nghỉ, hay còn tiếp tục đâu đó
cuộc chơi tốn nhiều xương máu vì hai chữ tự do, những người đi
không về đêm nay, có Hạnh, có Sơn, có Khánh hình như đang bay
theo những đốm lửa nổ bộp trên không rồi tan vỡ từ từ thành hình
một cánh dù trên đồi máu, tôi thấy mình nắm lấy hai dây thượng
thăng, chạy băng xuống đồi, cánh dù từ từ lộng gió lên cao, bên
tai tôi còn nghe tiếng kêu khát nước của Cho, tiếng đạn hú rợn
người trên non, và tôi đi vào cơn mơ lúc nào không biết...
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, Song Kiếm Trấn Ải
Charlie đã để lại nơi đây người anh cả Nguyễn Đình Bảo cùng ba
trăm đồng đội, và tiểu đoàn về được tới Võ Định trước sau chỉ có
mấy chục người, chưa được một Đại đội. Sau Hiệp định Paris, Đại
úy Hùng mập, Đại đội trưởng 113 được trao trả. Xạ thủ đại liên
Nguyễn Tấn Vinh dọc đường dẫn ra Bắc, nhiều lần bọn cán binh Việt
cộng đòi giết để trả thù cho đồng bọn nhưng cấp chỉ huy của chúng
không cho vì nhu cầu trao trả, anh hiện ở tại Houston. Người đệ
tử tôi, Hạ sĩ Hạnh và nhiều anh em khác thì nằm lại tại một trại
tù binh nào đó tại vùng Thượng du Bắc Việt vì bị sốt rét và đói
khát. Trung úy Lạc giải ngũ sau trận này, không chết, nhưng vết
thương trên đầu khi thở ra hít vào thì da đầu cũng phập phồng
theo trông rất ghê, nên lúc nào cũng phải đội nón bảo hộ. Đại úy
Hùng móm và Chuẩn úy Trưng đề lô bị bắt sống nhưng đã trốn thoát
được sau đó, và chỉ vài tháng sau thì Đại úy Hùng móm đã nằm
xuống trên đường tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, chỉ cách ngôi nhà
cũ của mình có 100 mét. Còn Đại úy William Reeder sau trận
Charlie, bay đi yểm trợ căn cứ Benhet cách đó không xa, phi cơ
của ông bị bắn rơi ngày 9/5/1972, bị thương nặng và bị địch bắt
sống, đến sau Hiệp định Paris 1973 thì được trao trả cho Mỹ. Sau
trận Charlie, tôi được Thiếu tá Mễ chạy cho một cái Nhành Dương
Liễu, đợi mãi không thấy, hỏi lại thì được biết Bộ Tổng Tham Mưu
cúp hết huy chương của Quân Khu II sau trận này.
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đã đánh hai trận
lẫy lừng nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa, so với bất cứ tiểu
đoàn tác chiến nào trên thế giới. Trận Charlie bị pháo kích cỡ
10,000 quả đạn đại bác đủ loại trên một căn cứ nhỏ xíu, chưa có
trận nào mà một đơn vị của quân đội ta bị pháo khủng khiếp đến
như thế. Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù bị mất hơn 4 đại đội, nhưng đã tiêu
diệt được ít nhất cũng một Trung đoàn cộng quân của Sư đoàn 320
quả đấm thép, một đổi bốn. Sau chỉ một tháng bổ xung quân số rồi
ra tái chiếm Quảng Trị, chỉ trong một đêm đến sáng của một ngày
tháng 6 năm 1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù và đề lô pháo binh đã bắn
cháy 26 xe tăng địch, đánh tan cả một trung đoàn cộng sản Bắc
Việt gần bờ sông Mỹ Chánh, khiến viên Trung đoàn trưởng này bị
cấp trên của chúng xử tử. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bay ra
tưởng thưởng chiến công lẫy lừng này của Tiểu Đoàn Song Kiếm Trấn
Ải 11 Nhảy Dù. Có lẽ quân sử thế giới cũng chưa có một đơn vị nào
lập được một kỳ công thần kỳ như thế trong không đầy 24 tiếng
đồng hồ, và cũng chính nhờ Tiểu Đoàn 11 Dù đã dùng hỏa tiễn TOW
bắn cháy một xe tăng T54 của địch định khóa đuôi Đại Đội 1 Trinh
Sát Dù của Thiếu tá Dũng, Đại đội trưởng, mà tôi đã thoát chết
được khi đi đề lô cho đại đội này ngay sát bờ Nam sông Mỹ Chánh,
Hải Lăng, Quảng Trị cuối tháng 6 năm 1972.
Mũ Đỏ Nguyễn văn Lập
Charlie hill, defended to death
(Poetry and Memories of the Red Hat Nguyễn Văn Lập)
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Đêm Thánh với muôn muôn vàn vì tinh tú... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Anthony Huỳnh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, December 16, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang