Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
Tuổi học trò & lính
Tác giả:
Lưu Hoàng Kỳ
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
Năm học đệ tam tôi và thằng Trương trở thành bạn
thân bởi hai lý do: thứ nhất nó học cùng lớp, thứ hai bọn tôi ở
trọ gần nhau, nên ngoài giờ đến trường thì tập trung tại nhà trọ
của thằng Tuấn Anh chơi.
Nhóm có 5 đứa: Tuấn Anh, Trương và tôi
cùng học đệ tam Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi, nhưng Tuấn Anh khác
lớp, Võ Mai Hoàng, Nguyễn Đủ học đệ tam Bồ Đề. 4 đứa đều 17 tuổi,
chỉ có thằng Trương 16.
Mỗi lần tập trung ngoài chuyện bài vở
thì nói chuyện con gái, bé này đẹp, bé kia xấu. Nói như tả cảnh
mây trời bay lang thang vậy thôi, chứ có thằng nào “cua” được bé
nào đâu, mà biết mùi yêu đương thế nào? Chuyện con gái, chuyện
tình yêu tuổi mới lớn bọn tôi vẫn là ẩn số của một Phượng trình
trong giai đoạn suy tìm, nên mang tâm trạng háo hức pha chút lãng
mạn. Mặt thằng nào cũng đầy mụn trứng cá, ria mép lún phún, bản
lãnh nhút nhát vì các nàng cứ chí choé như chim chích chòe. Bọn
tôi nhìn lén rồi thả hồn bay theo mây trời chỉ dám nói sau lưng,
đến khi “người ta” xuất hiện thì lúng túng như chó ăn vụng.
Tuổi mới lớn bọn tôi thằng nào cũng
thích con gái, bất kể trắng đen cao lùn không chê ai. Cứ nghĩ bọn
con gái như người “cõi trên”, không có những chuyện bình thường
“trần tục” như con trai bọn tôi. Thiệt tình lúc đó sao mà “dại
gái” dữ vậy không biết nữa!
Thời gian sau quen dần bọn tôi trêu
chọc gọi tên: “Cúc ơi! Hà ơi! Thanh ơi! Có bé thì cứ nghiêm như
muốn nói: ‘Đừng có mơ’. Có bé ném cho cái nguýt sắc hơn ‘ỷ thiên
kiếm’ của Cô Gái Đồ Long, còn lằm bằm: ‘đồ quỉ sứ’. Bọn tôi ngoác
miệng cười: ‘Người ta dễ thương, đẹp trai thế này mà bảo quỉ sứ
với yêu tinh là sao hả trời?’”
Phía sau nhà Tuấn Anh cách một khoảnh
vườn là nhà của bé Ngọc, lúc ấy Ngọc chừng 13 hay 14 tuổi, đang
học Đệ Lục trường Nữ, nhìn cũng dễ thương, nhưng mắc tội lùn. Vậy
mà không đứa nào chê cứ khen đẹp, bố của nàng là đại úy nhà luôn
có xe jeep đậu trước sân, mấy anh lính đi ra đi vào oai ghê lắm!
Dạo đó tuổi 16–17 của bọn tôi, lại con
nhà dân dã từ nhà quê ra tỉnh học xem cô nàng là loại “lá ngọc
cành vàng”. Mỗi lần Ngọc xuất hiện quét sân hay phơi quần áo, là
khung cửa sổ vách sau nhà Tuấn Anh trở nên quá hẹp, không đủ để 5
thằng chen nhau giành chỗ nhìn.
Một hôm thằng Đủ gọi: “Ngọc dễ thương
quá hà!”. Cô nàng liếc mắt “bắt quả tang” trong cửa sổ 5 thằng
con trai đang nhe răng cười. Cả bọn bị một cái nguýt dài kênh
kiệu miệng lằm bằm. Nhưng bọn tôi thì cười bảo nhau: “Tiểu thư
nói tụi mình dễ thương”.
Hôm sau thằng Chính (có em gái chơi với
Ngọc) cho bọn tôi hay: “Con Ngọc nó nói bọn bây ‘khùng’ đừng có
mơ, không có chỗ cho mấy thằng ‘khùng’ đâu!”. Nói bọn này “khùng”
nhưng Ngọc lại hay xuất hiện nhiều hơn, nhìn mây nhìn trời, thỉnh
thoảng liếc vào cửa sổ nơi có mấy thằng “khùng” luôn ứng chiến.
Thời gian trôi qua. 5 năm sau bất ngờ
tôi gặp lại Ngọc ở nhà Phượng bạn gái của Lê Xuân Cường, hôm hai
đứa đi chơi trong kỳ nghỉ phép mãn khóa, khi học xong căn bản sĩ
quan pháo binh ở Dục Mỹ về. Vừa bước vào tôi nhận ra cô gái lùn
lùn bên cạnh bồ thằng Cường là Ngọc, cô nàng có lớn hơn nhưng
chẳng khác xưa là mấy. Tôi làm như không quen, chỉ cười chào rồi
nhìn lên tấm bản đồ trên tường ra vẻ ta “cóc thèm” để ý. Nhưng
Ngọc thì vui vẻ đến trước mặt tôi cười:
– Anh Tiến... bộ không nhận ra Ngọc hả?
Bất ngờ, hồi nào nói bọn này “khùng”
không có chỗ, mà bữa nay gọi người ta bằng anh làm như thân thiện
từ đời nào vậy trời? Đã lỡ làm mặt lạ, tôi giả vờ suy nghĩ:
– Ngọc?... xin lỗi... không nhớ!
“Tiểu thư” nguýt:
– Thôi đi ông tướng giả bộ hoài, bộ
quên thiệt hả? Ngọc ở chỗ nhà Tuấn Anh, hồi mấy ông hay tập trung
lại đàn ca hát xướng ầm ĩ suốt ngày đó.
– À... nhớ rồi, bây giờ lớn quá nhìn
không ra. Tôi giả vờ ngạc nhiên.
– Mới mấy năm mà quên? Giả vờ quên thì
có, mà anh mặc đồ lính “beau” trai quá à nha! Lớn nữa. “Tiểu thư”
cười làm duyên.
– “Beau” từ lâu rồi đâu phải bây giờ
mới “beau”? tại người ta không để ý đó thôi! Tôi cười.
– Tiến cùng khóa với anh Cường hả? Ngọc
với Phượng thân lắm! Trời ơi đâu ngờ gặp lại anh ở đây.
Ngồi cạnh thằng Cường, Phượng nhìn Ngọc
nháy mắt cười:
– Vậy là gặp người quen rồi, nhờ tao
nha Ngọc.
– Ô,
hồi đó mấy ông tướng này nghịch lắm, láu táu như thứ gì...!
– Vậy mới bị “họ” gọi là mấy thằng
“khùng”. Tôi cười.
– Ai biểu tại hồi đó mấy ông cứ trêu
chọc “người ta” hoài chi chớ bộ.
– Trêu chọc người ta hoài, mà người ta
có thích không, cái đó mới quan trọng?
– Miệng lưỡi quá trời, bây giờ còn
“quá” hơn hồi đó, hai người này đi với nhau là coi chừng đó
Phượng.
Nhìn
Cường tôi cười:
– Vậy mà cả hai thằng có ma nào thèm
ngó tới đâu!
Ngọc nguýt:
–
Thôi đi ông, xạo vừa thôi... mấy ông ghê lắm ở đó mà không có...
ủa... ông Hoàng đi lính gì anh Tiến?
– Hải Quân, đang học ở Nha Trang.
– Ông Trương?
– Thiết giáp, còn học ở Thủ Đức.
– Ông Đủ?
– Đi lính biệt kích.
– Còn anh Tuấn Anh?
– Tuấn Anh lâu quá không có liên lạc...
Ủa mà sao biết tên hết trơn vậy ta? Cứ tưởng mấy thằng “khùng”
không ai thèm biết tên chớ?
– Sao lại không biết, lạ gì mấy ông hồi
đó nghịch quá trời!
– Hồi đó bọn này hiền khô có gì đâu mà
quá trời?
– Ở
đó mà hiền, láu táu thấy phát ghét à.
Tôi nheo mắt cười:
– Ghét thì ghét... mà thích thì cũng
thích có đúng không?
– Thôi đi... sợ mấy ông luôn!
Ngọc cười, thì ra dạo đó cũng khoái bọn
này gần chết mà làm bộ nói người ta “khùng”. Cho nên con gái nói
vậy mà không phải vậy. Buổi sáng hôm đó hai đứa tôi được chăm sóc
tận tình: chè, chuối, bánh trái đầy bụng.
Thằng Cường đánh đàn guitar, Phượng ca
bài: Một Lần Xa Bến và Tạ Từ Trong Đêm. Tuy đã được Cường cho
biết dạo còn trong trường Pháo Binh về năng khiếu ca hát của
Phượng, nhưng tôi cũng bất ngờ vì Phượng có giọng ca hay, điêu
luyện như ca sĩ chuyên nghiệp không phải tiếng hát học trò.
Rồi đến “tiểu thư” hát bài: “Thu Sầu”
và “Con Thuyền không Bến” Có đoạn không cần nhịp phách gì hết còn
làm duyên nữa mới ghê! Thằng Cường vừa đàn khều khều chân tôi
dưới gầm bàn, tôi không dám cười. Nhưng mỗi khi hết bài hai thằng
cứ phải khen hay.
Ngọc rủ chiều đến nhà nàng chơi, nhưng
bọn tôi từ chối vì chiều đó thằng Cường đi chơi với Phượng, còn
tôi cũng “có nơi” để đến rồi, nên chỉ hứa.
Khi chia tay Ngọc hẹn lần sau về phép
đi Phú Thọ chơi, hai thằng tôi đã nhận lời, nhưng không bao giờ
có ngày đó vì ra đơn vị bọn tôi lao vào trận mạc và Thằng Cường
đã không trở về, nó nằm lại chiến trường Duy Xuyên, hai đứa không
còn gặp nhau để đi chơi, thực hiện lời hứa hôm đó.
*****
Trở lại chuyện 5 thằng nhóc bọn tôi.
Nhóm con gái đi ngang qua nhà Tuấn Anh
bọn tôi biết tên gần hết, nhà trọ ở đâu? Bé nào đã có bồ? Mà chỉ
biết vậy thôi chứ có làm nên trò trống gì đâu!
Cuối năm đệ Tam thằng Trương “tán” bé
Huệ cùng lớp với thằng Hoàng nhà trọ ở cuối đường. Tôi bày nó
viết thư nhờ thằng Hoàng lên lớp trao dùm. Vậy là lá thư được
hoàn tất bằng tờ plur xanh với nét chữ đẹp, đá lên đá xuống lả
lướt như mây trời của thằng Trương, lời tỏ tình nặng mùi thơ Xuân
Diệu. Tôi còn nhớ cuối thư nó “chơi” hai câu thơ nghe lãng mạn
hết biết luôn:
“Nhớ em tím cả mây chiều
Giật mình chẳng biết mình yêu bao giờ!”.
Nhưng thằng Hoàng từ chối làm chim
xanh, nó lắc đầu: “Thôi, thằng Hải bạn tao cũng đang ‘cua’ con
Huệ, léng phéng nó đập què giò thì chết tao à”.
Thế là lá thư tình đầu tiên của thằng
Trương không đến được địa chỉ, uổng công thằng nhỏ ngồi cắn bút
tìm lời hay ý đẹp, viết rồi xé, mất hàng chục tờ plur và lâu cả
tuần lễ mới xong chứ có ít gì đâu! Tôi làm quân sư xúi “tấn công”
trực tiếp, hơi suy nghĩ nó cười cười:
– Lỡ nó chửi cho thì chết mẹ!
– Được con trai “cua” nó khoái bắt chết
ở đó mà chửi, mầy không tỏ tình trước, bộ biểu người ta là con
gái đi “tán” mầy trước hả? Tôi nói.
– Mầy xúi dại lỡ nó chửi, cho tụi mầy
chọc quê tao hả?
– Làm gì có, tụi mình con trai với nhau
mà chọc cái gì?
Nghe tôi nói thằng Trương xiêu lòng.
Suốt mấy tuần lễ hai đứa cứ rập rình ngoài đầu đường đón Huệ đi
học về, nhưng lúc nào các nàng cũng đi cả tốp cười nói líu lo làm
tôi và thằng Trương cứ giả vờ nghiêm như “ông cụ” khi chạm mặt.
Rồi sự kiên trì của bọn tôi cơ hội cũng
đến. Hôm đó Huệ đi về một mình, quanh vào đường bên hông nhà máy
đèn, tay xách cặp áo dài trắng tung bay. Tôi mừng:
– Đúng con Huệ rồi! mày ra đi, tao vô
ngõ thằng Tùng.
– Ừ, mày đi đi.
Tôi nói với theo:
– Mạnh dạn lên nghen mày.
Tôi rẽ vào ngõ hẻm nhìn theo hồi hộp.
Thằng Trương đi ra, lấy hết can đảm nó chào bằng nụ cười thật
tươi:
– Đi học
về hả Huệ?
Cô
bé cứ nhìn thẳng, chẳng thèm liếc mắt thử “ông kẹ” nào ân cần có
lòng tốt hỏi thăm. Anh chàng bước theo lặp lại:
– Đi học về hả Huệ?
Cô nàng tiết kiệm lời nói không thèm mở
miệng, mà cũng không liếc thử anh chàng nào mặt ngang mặt dọc,
đẹp hay xấu cao hay lùn da trắng hay da đen để thằng nhỏ bớt quê.
Chẳng còn hy vọng thằng Trương đành dừng lại.
Đứng trong hẻm thấy con Huệ đi qua, tôi
biết là trớt quớt “tình như mây khói rồi”! Vừa thấy tôi thằng
Trương cười: “Nó không thèm trả lời một tiếng mầy ơi!”. Tôi không
dám cười sợ nó “quê” tội nghiệp, chuyện chỉ hai thằng biết. Từ
hôm đó thằng Trương lơ luôn, không còn khen con Huệ dễ thương,
cũng hết nói: “để tao ‘tán’ con Huệ” như lâu nay nữa.
Lên Đệ Nhị bọn tôi thay đổi chỗ trọ, tứ
tán không còn tập trung nữa, Võ Mai Hoàng, Nguyễn Đủ ở đường Trần
Cao Vân. Phạm Ngọc Trương xuống đường Trần Hưng Đạo vào hẻm trước
nhà thờ, tôi ra đường Trần Thúc Nhẫn, còn Tuấn Anh vẫn chỗ cũ
thỉnh thoảng mới gặp nhau.
Trong nhóm Nguyễn Đủ và Tuấn Anh bị rớt
tú tài bán phần. Tôi và Phạm Ngọc Trương cùng vào lớp Đệ Nhất A2,
Võ Mai Hoàng vào Đệ Nhất B3. Nên ngày hai buổi gặp nhau ở lớp,
tôi còn đến nhà trọ chở thằng Trương đi chơi.
Năm Đệ Nhất bọn tôi đã lớn, dạo đó
Trường Nữ Trung Học không có lớp Đệ Nhất, các nàng qua Trần Quốc
Tuấn học chung với con trai. Bọn tôi ra thanh niên đi giày tây
quần xanh áo trắng thẳng nếp. Bên “phái đẹp” áo dài trắng giày
cao gót, dù xanh dù vàng. Bọn tôi trưởng thành không còn lấc cấc
nữa.
Lên Đệ
Nhất thằng Trương rất chăm và học khá, Toán, Lý, Hóa, Vạn Vật lúc
nào điểm nó cũng 14, 15, không phải như tôi dốt toán thấy bà cố
luôn.
Vậy mà
sau này khi nhập ngũ vào trường bộ binh Thủ Đức không biết Cục
Quân Huấn chấm điểm trắc nghiệm toán thế nào mà tôi lại lọt vào
Pháo Binh, xếp hàng đầu trong 4 binh chủng được gọi là thông
thái: nhất Pháo (pháo binh) nhì Công (Công Binh) tam Không (Không
Quân) tứ Hải (Hải quân).
Cho nên khi vào Trường Pháo Binh học
đến môn Tác Xạ Đại Cương và Địa Hình là hai môn áp dụng toán học,
cứ sin với cosin, tan với cotan, rồi căn số bậc hai bậc ba, rồi
lũy thừa với tam thừa, lại còn thêm cái bệnh ham chơi nên gần
ngày thi ra trường tôi học đến hụt hơi thức trắng con mắt mới đủ
điểm đậu.
Năm
lên đệ Nhất thằng Trương lo học dữ lắm. Thỉnh thoảng tôi và nó
chở nhau đến nhà mấy đứa bạn cùng lớp, xuống Tư Bình chơi với
Nguyễn Công Hoanh học bên Nhất A1. Trong nhóm bạn, Hoanh lớn tuổi
đã có vợ nên quanh quẩn ở nhà ít lang thang la cà như bọn tôi.
Có khi xuống nhà Vũ dưới bến Tam Thương
chơi, Vũ học Đệ Nhị trường Bồ Đề, hát hay như ca sĩ chuyên
nghiệp. Bọn tôi quen, rồi thân trong dịp học sinh làm văn nghệ
giúp vui cho mấy khóa huấn luyện Nhân Dân Tự Vệ ở sân bay Quảng
Ngãi.
Một hôm
Vũ rủ tôi và Trương ra bến Tam Thương tắm, lần đó Trương suýt
chết đuối bởi anh chàng không biết bơi. Chuyện tắm sông thì tôi
mê số một từ tuổi thơ. Trước nhà tôi ở quê có một con sông nên
bơi lội là “nghề của chàng”. Khi thằng Vũ đề nghị tôi ô kê ngay,
còn thằng Trương thì lắc đầu:
– Tao không biết bơi.
– Thì mầy ở trong cạn có sao đâu. Tôi
xúi thằng Trương.
Bến Tam Thương sâu lại đang mùa mưa
nước chảy mạnh, tôi và Vũ bơi ra giữa sông, “cu cậu” cứ quanh
quẩn gần bờ. Từ ngoài xa tôi vẫy thằng Trương: “bơi ra đây có tao
với thằng Vũ không sao đâu”. Nó lắc đầu cười.
Hai đứa tôi vùng vẫy hụp lặn, không để
ý thằng Trương. Khi nhìn lại thằng Trương mất tiêu bị cuốn ra xa,
chỉ còn cánh tay cố ngoi lên và trôi theo dòng chảy. Bọn tôi hốt
hoảng sải nhanh về phía nó nhưng thằng Trương đã chìm lỉm. Khi
tiếp cận được là cả vấn đề, may có hai anh thanh niên trong làng
từ đâu xuất hiện tiếp tay, khó khăn lắm mới đưa được vào bờ thì
Trương đã mê man mềm nhũn như sợi bún, uống một bụng đầy nước, nó
không còn thở, mắt nhắm nghiền mặt trắng bệch. Không biết trong
khi mất bình tĩnh, hai đứa tôi chụp kéo thế nào mà cái quần đùi
của thằng Trương tuột mất lúc nào không hay. Nhưng trong cơn kinh
hoàng bấn loạn chúng tôi không còn quan tâm chuyện nó trần
truồng.
Người
dân trong xóm vây quanh rất đông gọi nhau í ới. Mấy bác luân
phiên vác thằng Trương lên vai chạy tới chạy lui đầu chúi xuống
đất, nước trong bụng tuôn ra. Người ta làm hô hấp sau đó nó được
lau khô, kẻ bôi dầu người hơ lửa mà thằng nhỏ thì cứ nằm ngay đơ.
Tôi chết điếng chỉ biết đứng nhìn. Nếu nó chết thì tôi cũng tiêu
đời. Vậy rồi thằng Trương sống lại. Nhưng hôm sau nó cười cười
phàn nàn:
–
Bọn bây làm kiểu gì mà tuột mất quần của tao, lúc đó con gái
nhiều không mầy?
Hiểu ý nó tôi cười chọc quê:
– Đông dữ lắm... không chết là may còn
mắc cỡ cái gì!
Nó cười:
– Tự nhiên lộ hết, chắc không dám đi
chơi dưới đó nữa đâu!
Nói vậy rồi bọn tôi vẫn xuống bến Tam
Thương chơi nhưng không dám tắm nữa. Sau đó mấy tháng Vũ chết do
Việt cộng ném lựu đạn vào nhà một viên chức địa Phượng vào ban
đêm khi mò về hoạt động. Vụ khủng bố 3 người chết trong đó có Vũ,
nó chết khi mới 18 tuổi và đang học lớp Đệ Nhị. Tôi với Trương đã
tiễn đưa bạn ra nghĩa trang vào một chiều đông buồn.
Chuyện tình yêu của bọn tôi lúc đó như
ngắm trăng nói chuyện cùng chị Hằng vậy thôi, tán tỉnh thì có
nhưng chả đi đến đâu.
Sau khi có kết quả Tú Tài toàn phần bạn
bè tứ tán mỗi đứa một Phượng, đứa vào y khoa, đứa vào trường
Luật, đứa Cán sự Y Tế, đứa vào Võ Bị Đà Lạt. Đa số bạn lớp tôi
vào sư phạm Qui Nhơn. Tôi và Trương vào Sài Gòn học ngành báo
chí. Tôi ở nhà ông bác ruột khu Nguyễn Thiện Thuật quận 3. Trương
ở với bạn bên Chợ Cá Trần Quốc Toản.
Đầu tháng 9 tôi và Nguyễn Công Hoanh có
lệnh gọi nhập ngũ, vậy là đơn xin hoãn dịch không được chấp thuận
vì sinh năm 1949. Thằng Trương sinh 1950 nên còn đi học. Nó tiễn
tôi ở sân bay Tân Sơn Nhứt, ngồi trong quán nước đợi giờ tàu cất
cánh, buồn vô cùng cuộc đời sắp qua một ngã rẽ.
Cộng sản Bắc Việt mở rộng chiến tranh,
thi hành kế hoạch nhuộm đỏ toàn cầu của cộng sản Quốc Tế. Cảnh
thanh bình Miền Nam không còn nữa. Cuộc chiến ngày càng khốc
liệt, chết chóc lan tràn khắp thôn làng phố thị, lớp lớp thanh
niên đã ngã gục ngoài chiến trường. Khối cộng sản quốc tế: Nga,
Tàu ồ ạt viện trợ hàng triệu tấn vũ khí tối tân cho Bắc Việt. Hà
Nội đã lùa cả triệu thanh niên vào miền nam.
Tôi làm bổn phận thanh niên thời loạn,
đáp lời sông núi bảo vệ phần đất tự do, nền dân chủ vừa mới khai
sinh mà thế hệ chúng tôi đặt nhiều kỳ vọng vào sự phục hưng của
đất nước sau gần 100 năm bị đô hộ. Nhưng chiến tranh đã cướp đi
ước mơ của tuổi trẻ ở thế hệ chúng tôi.
Về Quảng Ngãi tôi và Hoanh sống những
ngày chờ đợi, Hoanh đã có vợ nên quanh quẩn ở nhà. Tôi thì lang
thang đến bạn bè đốt khoảng thời gian tự do còn lại.
Tôi lên nhà Huỳnh Lê trên Ngã Năm nghe
nó kể chuyện quân trường, Huỳnh Lê là bạn học luyện thi Đệ Thất
với tôi cùng là học trò thầy Khiêm ở Tư Duy. Ngày đó Lê nổi tiếng
học giỏi, đặc biệt là môn Quốc Văn, bài luận nào cũng được thầy
Khiêm đọc cho cả lớp nghe. Lê viết chữ đẹp, giỏi nhạc lý, chơi
đàn hay, nó còn sáng tác nhạc. Ra Trần Quốc Tuấn Lê học Anh Văn
tôi Pháp Văn, năm Đệ Ngũ và Đệ Tứ bọn tôi ở ngụ gần nhau nên chơi
thân.
Huỳnh Lê
nhập ngũ khóa 6/69 vừa mãn khóa ở Thủ Đức còn đang nghỉ phép chờ
trình diện Tiểu Khu Quảng ngãi. Nghe nó kể những sinh hoạt và kỷ
luật trong quân trường giai đoạn huấn nhục ở Thủ Đức làm tôi lo
quá chừng, Huỳnh Lê nói: “Mọi chuyện rồi cũng qua, cố gắng thôi
mày ơi!”
Tôi
và Hoanh trình diện tại phòng nhập ngũ Quảng Ngãi, chuyển ra
Trung Tâm 1 ở Đà Nẵng rồi vào Quang Trung. Trong suốt thời gian
quân trường hai đứa ở cùng tiểu đội nằm cạnh nhau.
Một buổi chiều sau khi ăn cơm xong buồn
nhớ nhà, định rủ Hoanh lên Câu Lạc Bộ thì thằng Trương xuất hiện
bất ngờ. Nó nhập ngũ khóa 6/70 vào Quang Trung sau tôi 2 tháng.
Đang nhớ nhà, cuộc sống ở quân trường căn thẳng mà gặp bạn vui
không tả được. Bọn tôi kéo nhau vào Câu Lạc Bộ ngồi hỏi tin tức
bạn bè.
Trương
cũng mang tâm trạng nhớ nhà như tôi, nó nói nhìn bên kia bờ rào
kẽm gai cảnh tự do của đời sống dân sự buồn quá, ước gì được sống
lại như ngày còn cắp sách đến trường tâm trạng chung của bọn tôi
ngày mới vào lính. Hôm sau lại gặp Võ Mai Hoàng nó cho biết vào
Quang Trung học căn bản 3 tháng quân sự trước khi về trường Sĩ
Quan Hải Quân Nha Trang. Cuối cùng bạn bè tôi kẻ trước người sau
đều “đoàn tụ” ở quân trường.
Từ đó tối nào 4 đứa cũng lang thang
trên những con đường dưới tàn bả đậu rồi vào câu lạc bộ ngồi hàng
giờ nghe Lệ Thu giọng sang trọng quí phái: “Ta ngắt đi một cụm
hoa thạch thảo... em nhớ cho mùa thu đã chết rồi...” hay: “Hạt
bụi nào hóa kiếp thân tôi... để một mai xay mòn thành đá cụi...”
giọng khàn khàn của Khánh Ly. Những bài hát quen thuộc làm nhớ
nhà, nhớ những ngày tháng cũ da diết. Bọn tôi ngồi cho đến lúc
chia tay về phòng tập họp trước giờ ngủ.
Hết 3 tháng ở Quang Trung, khóa 5/70
của tôi lên Thủ Đức trước khóa 6 của thằng Trương chừng vài
tháng. Bọn tôi chia tay hẹn thằng Trương ở Thủ Đức, còn Võ Mai
Hoàng sẽ ra Nha Trang về trường Hải Quân.
Khi đoàn xe rẽ vào đồi Tăng Nhơn Phú
vừa dừng ở Vũ Đình Trường, bọn tôi ba lô lên vai. Dù đã chuẩn bị
tinh thần, trống ngực vẫn đập liên hồi khi các Huynh Trưởng xuất
hiện như hung thần quần áo giày map láng coóng mặt lạnh lùng lúc
nào cũng hò hét.
Tôi bám sát Hoanh mồ hôi ướt áo, tiếng
còi tiếng ra lệnh của huynh trưởng. “Hoét, hoét, hoét... Các bạn
chú ý, 30 giây xuống xe nhanh lên bạn nào chậm chạp quờ quạng là
‘thác’ với huynh trưởng nghe chưa”? Bọn tôi nháo nhào náo loạn cả
Vũ Đình Trường.
“Hoét, hoét, hoét”. Nơi này: “đại đội
tập họp”, nơi kia hét lên: “đại đội tập họp, đại đội theo lệnh
tôi: Trái làm chuẩn, đại đội 10 hàng dọc 20 hàng ngang. Thao diễn
nghỉ, nghiêm. Thao diễn nghỉ, nghiêm, bên phải quây... bên trái
quay”. Chỉ có tiếng còi tiếng ra lệnh của huynh trưởng: “Ông kia
sao quờ quạng vậy ông? Ông có nghe huynh trưởng nói không? Biết
nhìn trái không?”. Bọn tôi như những hình nộm biết cử động răm
rắp phản xạ theo lệnh.
Huynh trưởng chào đón đàn em bằng màn
chạy quanh Vũ Đình Trường. 1,2,3,4; 1,2,3,4. Cả khối người chạy
theo tiếng đếm nhịp của huynh trưởng, rồi 5 vòng, 10 vòng bắt đầu
ngã, xỉu ngất la liệt.
Lên Thủ Đức tôi và Hoanh ở trung đội 3,
đại đội 12, tiểu đoàn 1, vị trí tiểu đoàn nằm ở cuối Vũ Đình
Trường thuộc khu tiền chế, tách riêng các tiểu đoàn 2, 3, 4 nằm
bên tay phải từ ngõ chính đi vào.
Thời gian huấn nhục bọn tôi rã rời đứa
nào cũng xác xơ như những thây ma, ra khỏi cửa phòng là chạy chỉ
có chạy và chạy. Không chỉ khổ cực khi tập luyện học hành mà
chuyện ăn uống ngủ nghỉ cũng trong vòng kỷ luật thép, tinh thần
căng thẳng suốt ngày đêm.
Cả ngày bị quần thảo bơ phờ, buổi tối
vừa “tan hàng cố gắng” lên giường là hồn lìa khỏi xác. 4 giờ sáng
còn đang mê man thì tiếng còi: “hoét, hoét, hoét. Đại đội tập
họp, 30 giây đại đội tập họp”. Tiếng thét của huynh trưởng: “Tôi
đếm từ 1 đến 10 bạn nào ra sau đứng qua một bên... 1... 2...
3.... 4...”
Bọn tôi bung dậy như lò xo, mắt nhắm mắt mở xếp mùng màn chiếu
gối, tay làm chân chạy mà hồn vía còn bay bổng nơi nào chưa nhập
xác. Trạng thái đó trong suốt 8 tuần huấn nhục, hình phạt có thể
đến bất cứ lúc nào. Cả quân trường vang dậy tiếng hát:
Đây khúc ca vang nơi quân trường đầy
hào hùng
Vai ghé vai ta thi tài trong
tình quân ngũ.
Nơi kia thì:
Khắp bốn Phượng trời từng đoàn người
trai về đây
Dưới mái quân trường hăng
say gắng sức đua tài.
Rồi việc gì cũng qua, khóa 5/70 bọn tôi
gắn alpha thì khóa 6 của thằng Trương nhập trường, nó về Tiểu
Đoàn 2 vị trí cách tiểu đoàn 1 của tôi hai đầu của Vũ Đình
Trường. Biết tin thằng Trương vào, Hoanh rủ tôi lên tìm nhưng
không dám, vì khu vực đó còn mấy khóa huynh trưởng đàn anh mà tôi
thì sợ phạt nên không dám ra khỏi sân đại đội.
Một Chúa Nhật không đi phép Trương
xuống tìm tôi, “cu cậu” mới vào sân đại đội bị Huynh Trưởng Uẩn
chận lại phạt tơi bời hoa lá: hít đất, nhảy xổm, pháo kích nhảy
xuống giao thông hào, “hành hạ thằng bé” te tua.
Bọn tôi đang lau súng trong phòng, nghe
tiếng hét trình diện ngoài sân nghĩ chuyện bình thường, đến khi
Hoanh phát hiện thằng Trương bị phạt thì tôi mới tá hỏa, Hoanh ra
bảo lãnh dẫn nó vào. Nhìn “thằng bé” bơ phờ tả tơi, áo quần ướt
nhèm đất cát tôi thương nó nhưng chỉ biết cười trừ. Trương xuống
Đại Đội 12 tìm tôi mấy lần, nhưng lần này xui gặp huynh trưởng
Uẩn “hắc ám”. Uẩn nổi tiếng phạt đàn em khi đi làm hướng dẫn.
Tôi ra Dục Mỹ học Pháo Binh, 2 tháng
sau thì Trương mãn khóa rồi tiếp tục học căn bản Thiết Giáp ở Thủ
Đức. Vài tuần tôi nhận thư nó một lần, có mấy tấm hình Trương đội
kết đen ngồi trên thiết giáp M113, và chiến xa M48.
Tôi cũng gởi cho nó mấy tấm hình bên
cạnh khẩu Đại Bác 105ly và lúc ở Đài Quan Sát thực tập điều chỉnh
tác xạ. Trong thư Trương nói sẽ chọn về Thiết Đoàn 4 của Sư Đoàn
2 để gần bạn bè. Nhưng ước mơ không toại, nó về Thiết Giáp Quân
Đoàn 4.
Rồi
thư từ vẫn đều khi tôi về tiểu đoàn 20 pháo binh. Có lần nó khoe:
“Tao uống bia khá rồi mày! Đời lính nay còn mai mất phải nếm cho
đủ mùi ‘trần tục’ mầy ơi!” Vậy là Trương thay đổi nhiều, không
thuốc lá, không rượu bia, hiền nhất trong nhóm bọn tôi, nó còn
hẹn: “Ngày mãn khóa tao về uống một bữa cho say nghe mày”!
Và tôi đã lỗi hẹn. Nó mãn khóa Thiết
Giáp về phép thì tôi đang đi đề lô cho Biệt Động Quân lội rừng ở
Tiên Phước. Hôm hành quân chấm dứt tôi trở về Tiểu Đoàn 20 nhận
được thư Trương, lá thư viết từ Vĩnh Long, trong thư nó than buồn
về phép mà không gặp tôi, bạn bè cũng không có đứa nào, thằng
trên cao nguyên đứa tận vùng giới tuyến, mỗi đứa một phương. Nó
nói ngày mang ba lô lên đường vào Nam trình diện đơn vị mới buồn
quá!
Đó là lá
thư đầu tiên gởi cho tôi khi Trương ra đơn vị, và cũng là lá thư
cuối cùng vì thư tôi hồi âm bị trả về bởi không có người nhận. Từ
đó không còn biết tin nhau.
4 tháng sau thư cho tôi từ Pleiku Hoanh
báo tin thằng Trương đã tử trận ở Vĩnh Long. Tôi nhận hung tin
khi về hậu cứ tiểu đoàn 20 pháo binh sau một cuộc hành quân nhảy
toán với Trinh Sát 2 ngoài Hương An trở về.
Đọc thư của Hoanh tôi buồn quá. Trước
mặt là biển Chu Lai, những con sóng dâng cao ùa vào triền cát bị
nhạt nhòa qua màn nước mắt. Gió biển lùa vào mặt, tiếng thông
reo, tất cả đều quen thuộc nhưng hôm nay có cảm giác mình lạc đến
nơi nào xa lạ, nghe cô đơn như chưa từng bao giờ cô đơn đến thế!
Tôi rã rời vào phòng buông mình nằm ngửa xuống giường nhìn lên
trần nhà, nước mắt lăn dài xuống thái dương. Một trời kỷ niệm với
thằng Trương ùa về như một cuộn phim từ khi bọn tôi còn là những
thằng con trai 15, 16 tuổi đùa phá nghịch ngợm. Tôi chưa bao giờ
nhớ nó như lúc này!
Bạn bè lần lượt ra đi không trở về,
ngày còn trong trường Pháo Binh nhận tin Huỳnh Lê tử trận, thấy
tôi buồn thằng Cường nói: “Chiến tranh mà, cổ lai chinh chiến kỷ
nhân hồi. Bọn mình cũng thế thôi”.
Rồi mới đây chỉ mấy tháng thằng Cường
cũng nằm lại ở Duy Xuyên trong một lần nhảy toán với Trinh Sát 5.
Nỗi buồn chưa nguôi thì bây giờ tin Trương tử trận, những thằng
bạn thân lần lượt ra đi, còn tôi ở lại, tiếp tục ba lô lên vai
tăng phái hết đơn vị này đến đơn vị khác đánh đấm tưng bừng suốt
gần 2 năm đi đề lô ngoài chiến trường, Thường Đức, Quế Sơn, đến
Ba Tơ, Đức Phổ, Sa Huỳnh, v.v.
Tôi đã bị Việt cộng vây hãm ở căn cứ
ROS, đội mưa pháo và tấn công biển người dồn dập 3 ngày liền khi
đi đề lô cho chi đoàn 1/4 chiến xa với Đại úy Nghĩa. Hỏa tiễn
122ly, cối 82ly, đại bác 130ly nòng dài, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7
của Nga Sô, Trung cộng trang bị cho Việt cộng cày nát ngọn đồi,
căn cứ cháy đen hoang tàn. Tôi đã gọi pháo binh bắn tiêu hủy phủ
đầu khi phòng tuyến bị địch tràn ngập, một trận cận chiến ngay
trong giao thông hào. Tôi đi vào cửa chết để tìm ra đường sống và
mở đường máu rút khỏi căn cứ ROS. Tôi thoát ra với Thiếu tá Phan
Văn Tươi tiểu đoàn trưởng 22 pháo binh, Đại úy Nghĩa chi đoàn
trưởng 1/4 chiến xa nhưng khi xuống khỏi ngọn đồi chỉ còn mình
tôi sống sót.
Vừa thoát bàn tay tử thần, tôi cầm Sự Vụ Lệnh trình diện Thiếu tá
Thuần Tiểu đoàn 77/BĐQ trở lại quần thảo cả tháng trời với Việt
cộng để tái chiếm căn cứ ROS. Lá quốc kỳ vừa tung bay ở Chi Khu
Quế Sơn, tiểu đoàn 20 Pháo binh lại gọi tôi về ném sang Tiểu đoàn
66/BĐQ, trình diện Thiếu tá Lương Bá Duân nhảy vào tiếp cứu chi
khu Ba Tơ bị Việt cộng vây hãm.
2 tháng lội rừng đội pháo, những đêm
cận chiến giành từng mét giao thông hào để kiểm soát cao điểm
trên đỉnh núi Cao Muôn. Quanh tôi bao nhiêu người lính Biệt Động
Quân gục ngã, bao nhiêu người đã nằm lại giao thông hào. Vậy mà
tôi vẫn sống, hình hài còn nguyên vẹn lúc trở về.
Tôi chấm dứt đề lô khi rời Tiểu Đoàn 20
pháo binh vào giữa năm 1973 thuyên chuyển về Pháo binh Tiểu Khu
Quảng Ngãi làm Trung Đội Trưởng 109/PB Diện Địa thay cho Thiếu úy
Võ Hoàng khóa 6/69. Hoàng cũng là bạn học cùng lớp với tôi ở Trần
Quốc Tuấn.
Về
trung đội tác xạ trong vai trò yểm trợ hỏa lực, tôi đã làm hết
trách nhiệm để giúp quân bạn ngoài chiến trường, trong sứ mệnh
bảo vệ miền nam tự do trước mưu đồ nhuộm đỏ thế giới của cộng sản
Quốc Tế. Nhưng định mệnh oan nghiệt, số phận của đất nước được
định đoạt trên bàn cờ bởi các đại cường đã vượt ngoài tầm với của
thế hệ chúng tôi.
Trong khi cộng sản Bắc Việt được Nga
Sô, Trung Cộng viện trợ không giới hạn, hàng triệu tấn vũ khí tối
tân ồ ạt đưa vào miền nam. Hàng ngàn kilomets hệ thống dẫn dầu
xuyên trường sơn cung ứng cho chiến trường. Thì người “bạn đồng
minh” Hoa Kỳ, bọn “phù thủy chính trị” ở Washington lại trói tay
chúng tôi bằng cách cắt hoàn toàn quân viện cho VNCH theo tinh
thần của cái gọi là Hiệp định Paris.
Từ trung tuần năm 1974 đạn tồn kho cạn
kiệt, xuống dưới mức an toàn, đại bác quá đời tác xạ. Hàng chục
công điện khẩn xin tiếp tế đạn dược, yêu cầu quân cụ thay nòng
tôi gởi đi đều được trả lời: “Đợi”.
Tôi được lệnh hạn chế tác xạ tối đa,
chỉ được bắn 1 đến 2 quả cho một lần quân bạn chạm địch. Những
nhu cầu quân sự khác cũng chung số phận, quân trang quân dụng
thiếu hụt. Máy PRC25 không còn pin để trực tác xạ, quân xa, phi
cơ, thiết giáp nằm ụ vì không có nhiên liệu xử dụng. Người lính
bộ binh, các tiểu đoàn Địa Phượng Quân chỉ còn nhận một nửa cấp
số đạn dược khi hành quân, lựu đạn khan hiếm không đủ phát cho
mỗi quân nhân.
Tình hình tiếp liệu quân đội bi đát đến
mức băng cá nhân không đủ dùng cho thương binh. Tinh thần binh sĩ
xuống thấp, kế hoạch bức tử Việt Nam Cộng Hòa của bọn “phù thủy
chính trị” ở Washington đã có kết quả, cán cân quân sự ngoài
chiến trường đã nghiêng về phía cộng sản Bắc Việt.
Đầu năm 1975 Chiến trường Quảng Ngãi
sôi động với những cuộc tấn công liên tục của Việt cộng, các đơn
vị bộ binh chiến đấu cô đơn ngoài chiến trường trong hoàn cảnh
đạn dược thiếu thốn. Trên bản đồ tình hình địch bạn những điểm đỏ
ngày càng nhiều và tiến gần hơn. Rồi tin Huế bỏ ngỏ, Tam kỳ bị
tràn ngập.
Để
chuẩn bị cho một trận đánh sau cùng, tất cả đạn còn lại trong kho
tôi cho binh sĩ chuẩn bị trong tư thế sẵn sàng tác xạ, đầu nổ
cao, đầu nổ CVT, đạn chống biển người, đạn hoa cải, đạn hơi ngạt,
đều bóc trần trong tư thế sẵn sàng tác xạ. Quanh vị trí, hàng
chục tọa độ cận phòng tôi cho tác xạ trắc nghiệm lấy hỏa tập tiên
liệu.
Tôi sống
trong tâm trạng lo âu, đất nước rơi vào tay cộng sản với tôi là
một nỗi kinh hoàng, điều mà tôi không dám nghĩ tới. Và cái ngày
định mệnh đó đã đến.
Lúc 17:30g chiều ngày 24 tháng 3 năm
1975 tôi nhận một công điện khẩn từ Đại úy Tùng chỉ huy phó Pháo
binh tiểu khu, trung đội 109 bắn yểm trợ cho cuộc di tản của Tiểu
khu Quảng Ngãi và tiêu hủy đại bác, kho đạn khi có lệnh.
Sau đó nhiều tiền sát viên vào hệ thống
tác xạ. Tôi cho lệnh bắn tối đa, không hạn chế, trung đội 109PB
LT đã thi hành lệnh tác xạ sau cùng.
Từ trong vị trí tôi thấy một biển người
di tản trên quốc lộ, đạp lên nhau trốn chạy cộng sản, tình hình
vô cùng hỗn loạn. Đến 12:00g khuya hệ thống vô tuyến mất liên lạc
với BCH Pháo Binh Tiểu Khu Quảng Ngãi, tôi sang tần số của Pháo
Binh Sư Đoàn 2 không ai có thẩm quyền ban lệnh gì cho tôi. Tôi
cho ngưng tác xạ và thi hành lệnh tiêu hủy đại bác, kho đạn bốc
cháy. Tôi lên xe cùng binh sĩ nhập vào dòng người di tản.
Ra khỏi cầu Bình Sơn lúc 1:00g khuya bị
Việt cộng chận đánh, hỏa tiễn, đạn cối, B40, súng cá nhân... bắn
xối xả vào biển người, máu thịt tung tóe, kẻ sống giẵm lên xác
người chết mà chạy.
Tôi cho binh sĩ xuống xe, mọi việc diễn
ra ngoài tầm kiểm soát. Không ai có thể điều quân trong một biển
người dân và lính hỗn độn, dày xéo đạp lên nhau trong khi cộng
quân bám sát tác xạ tự do. Trung đội 109 pháo binh thất lạc và
tan rã từ giờ phút đó.
Quốc lộ bị chận, người ta tỏa ra tìm
đường đi Chu Lai thì tôi không nỡ bỏ anh em đồng đội cứ tìm người
này người kia, trời tối đen như mực nên bị bỏ rơi lại, cuối cùng
chỉ còn Nguyễn Lòng tài xế và Huỳnh Đạm nhân viên kế toán tác xạ
bên cạnh.
Trời
sáng 3 thầy trò ẩn vào ruộng mía chờ đêm xuống sẽ tiếp tục đi,
đến nửa đêm hôm sau khi chuẩn bị vượt sông thì hướng Chu Lai bốc
cháy và đạn nổ long trời. Tôi ngã qụy vì tuyệt vọng, bộ tư lệnh
sư đoàn đã di tản.
Sáng hôm sau 3 thầy trò bị vây bắt. Tôi
không còn bình tĩnh để biết những gì xảy ra. Thần kinh tôi tê
liệt chỉ biết Việt cộng rất đông. Tôi bị đánh tơi tả tối tăm mặt
mày bằng báng súng vào đầu vào lưng, những cú đá thốc thừa chết
thiếu sống... ự... ự... bộp bộp ự... ự... Tôi ngã xuống lại bị
nắm tóc xách dậy đánh tiếp. Cảm giác đầu bị vỡ ra, mắt hoa lên,
tôi cảm nhận mùi tanh của máu, máu từ đầu, miệng mũi chảy xuống
áo quần, trong khoảnh khắc thấy cái chết thật gần, tôi gục xuống
mặc cho số phận.
Tiếng Việt cộng gọi nhau í ới, tôi nhắm
mắt chấp nhận cái chết. Có bàn tay nắm tóc lôi dậy, tôi đứng
không vững ngã chúi về phía trước. Dù cố gắng nhưng hai mắt không
mở ra được, đưa tay lên sờ mặt mới biết nó biến dạng phình to như
một quả banh nhầy nhụa máu. Hai tay tôi bị trói quặt sau lưng
dính chùm với 2 người lính, chao đảo lê lết bước đi trong đau đớn
rã rời từ thể xác đến tâm hồn.
Tôi lăn lóc qua những trại tù với bao
khổ nhục trong nhiều năm, xem như mình đã chết. Bao nhiêu ước mơ
đổ vỡ, bao nhiêu hoài bão còn dở dang! Ra khỏi nhà tù dù đang độ
thanh niên nhưng cánh cửa tương lai đã khép, trước mặt tôi một
tương lai mịt mù vô định.
Thời gian như bóng câu qua mành, mới đó
đã gần nửa thế kỷ. Nhóm bạn thân ngày xưa giờ chỉ còn mình tôi
sống sót. Năm ba đứa nằm lại cao nguyên, vài ba đứa gục ngã ở
Quảng Trị, Trần Quang Hiệp bỏ mình ngoài biển đông trên đường tìm
tự do. Tuấn Anh không có thông tin, Nguyễn Đủ, Huỳnh Lê, Lê Xuân
Cường, Phạm Ngọc Trương nằm lại ngoài chiến trường; Võ Mai Hoàng
là lính biển lại chết vì nước lũ cuốn trôi khi vớt củi trên sông
Trà Bồng lúc mới ra khỏi nhà tù được mấy tháng. Nguyễn Công Hoanh
xông pha trận mạc khắp miền cao nguyên vẫn bình an, nhưng khi vào
nhà tù lại mang bệnh hiểm nghèo không thuốc chữa, về quê lam lũ
với cuốc cày, làm thêm nghề đạp xe thồ nuôi đàn con dại cũng đã
qua đời bỏ lại vợ yếu con thơ.
Trong 40 năm lang bạt mưu sinh sống nốt
đoạn đời còn lại tôi vẫn chưa về thăm mộ thằng Trương như lời
nguyền.
Trương
ơi! Viết những dòng này thay cho nén nhang gởi đến mày, gần nữa
thế kỷ rồi, với tao mầy vẫn là thằng Trương như ngày nào, ngày
bọn mình ở tuổi mới lớn chưa tới đôi mươi đùa phá nghịch ngợm.
Hơn 40 năm chưa thăm mày một lần, tha
lỗi cho tao còn nợ mày một lời nguyền Trương ơi!
Phước Tuy: cuối năm 2010
Lưu Hoàng Kỳ
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Đêm Thánh với muôn muôn vàn vì tinh tú... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, December 15, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang