Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Trường làng tôi
Tác giả:
Tiểu Thu
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
Tối thứ bảy, đi văn nghệ Chu văn An
về, Mai thao thức, trằn trọc mãi. Tới gần
sáng, mệt quá, mới
thiếp đi trong một giấc ngủ đầy mộng mị. Cũng tại cái bài Trường
Làng Tôi, đầy dẫy hình ảnh, gợi lại trong lòng Mai biết bao nhiêu
là kỷ niệm...
Mai không biết có phải tại mình sanh dưới chân ông Huỳnh Đế, hay
kiếp trước vốn dòng du mục, mà với cái thời gian ngắn ngủi có 6
năm tiểu học, Mai thay tới 5 trường khác nhau. Trong thập niên
50, tình hình dưới quê rất lộn xộn. Quận Cao Lãnh nằm dọc theo
con sông Hậu Giang. Ban ngày, quân đội Phật Giáo Hòa Hảo làm chủ
tình hình. Đêm Việt minh từ trong đồng về quấy rối. Thỉnh thoảng,
lính Cộng Hòa từ tỉnh kéo xuống bố ráp. Dân chúng lúc nào cũng
phập phòng lo sợ và luôn luôn trong tư thế sẵn sàng nhảy xuống
hầm núp!
Ba
làm việc trên Sài Gòn. Má, chị Lan và Mai vẫn ở dưới quê với ông
bà nội. Năm ba tháng má dắt chị em Mai lên Sài Gòn thăm ba. Sẵn
dịp đem gạo, gà vịt, cá mắm, trái cây lên tiếp tế. Cao Lãnh – Sài
Gòn chỉ cách độ 140 cây số, nhưng phải đi tàu đò xuống Sa–đéc,
rồi ngủ lại một đêm (thường là ngủ trên mui tàu), hôm sau mới lấy
xe đò đi Sài Gòn. Mai còn nhớ những chiếc xe đò cọc cạch, khách
ngồi chật như nêm, trên mui chở cả trăm thứ. Thỉnh thoảng phải
ngừng lại đổ nước cho nguội máy! Còn phải qua bắc Mỹ Thuận mới là
gian nan (nhưng bù lại, trong khi chờ đợi, được ăn một dĩa cơm có
con tôm càng kho tàu, chan nước mắm mỡ hành, có trộn gạch tôm đỏ
tươi, cũng đáng lắm)!... Ở chơi với ba độ 1 tuần, mấy mẹ con lại
cụ bị trở về quê. Ngoài những thứ cần cho ông bà nội, cái món
không thể thiếu được, là những ổ bánh mì giòn rụm mua tại bến xe.
Lần nào má cũng mua 2, 3 chục ổ về biếu bà con lối xóm.
Một buổi sáng đẹp trời, má đánh thức
Mai dậy rất sớm. Bắt con nhỏ tắm rửa sạch sẽ, mặc cái áo đầm sọc
caro hồng, trắng. Đầu cài chiếc nơ trắng có chấm hồng. Chân mang
đôi săng đan trắng. Tay ôm 2 cuốn vở và 1 cây viết chì. Má dắt
Mai xuống đò qua sông, tới trường thầy bảy Tánh xin cho Mai học
lớp chót. Thời chiến nên trường cất cũng dã chiến luôn! Chung
quanh là những cây cao rợp bóng mát. Suốt ngày tiếng chim hót véo
von. Phía sau trường là một rừng cây đủng đỉnh. Nhà nào có đám
tiệc cũng tới chặt lá về che rạp. Bông đủng đỉnh màu vàng tươi,
kết thành chùm, để trang trí ngoài cửa rạp cho thêm phần mỹ
thuật. Trường chỉ có 1 căn duy nhất. Chiều ngang độ 10 thước, sâu
5–6 thước, ngăn đôi bởi một tấm phên tre, có chừa lối đi. Thầy
Tánh kiêm nhiệm 2 lớp nên chạy qua chạy lại như mắc cửi.
Phần lớn học trò nhà quê ăn mặc khá lam
lũ. Tuy còn nhỏ xíu nhưng Mai cảm thấy mình hổng giống con giáp
nào trong chiếc áo đầm, nên mấy ngày sau nhứt định xin má cho mặc
áo quần bà ba như những đứa trẻ khác. Mỗi ngày má đưa Mai ra tới
bến đò, đứng đợi Mai qua tới bờ bên kia má mới về. Tan học Mai về
một mình. Má không lo, vì ông lái đò chính là “ba nuôi” của Mai.
Má kể lúc hơn 1 tuổi, con nhỏ cứ bịnh rề rề, nhiều khi làm kinh,
giựt sùi bọt mép khiến cả nhà hết hồn. Cô hai Bạch chị của ba,
khuyên nên đem Mai “ký bán” cho 1 người nào đó làm con nuôi.
Trong làng có 2 nhân vật khá lạ lùng,
đó là bác Huế Nhiên và chú Huế Kiên. Tuy chẳng có dây mơ rễ má gì
tới cái xứ Thần Kinh xa lơ xa lắc đó (bác Nhiên người gốc Bình
Định và chú Kiên người gốc Bắc kỳ!), nhưng thời đó, trong Nam,
nếu không phải là người Nam, thì đương sự chính là người Huế! 2
ông Huế giả hiệu này, không biết trôi lạc xuống làng Tân An từ
bao giờ (quên hỏi má), nhưng tứ cố vô thân, nghèo xơ nghèo xác.
Sau này, khá lớn tuổi, chú Kiên cưới được cô Mành, vì cô này lật
lờ. Phần bác Nhiên được đẹp duyên với cô Chương, lý do đơn giản
là trai làng không ai dám đến gần. Cũng bởi xuân thu nhị kỳ, mỗi
năm cô tắm nhiều nhứt là 2 lần!
Vậy mà khi lấy chồng cô đẻ sòn sòn năm
một. Sản xuất một lèo tới 6–7 đứa. Má kể có lần tới thăm bác gái
mới sanh, vừa vén mí mùng lên là má tưởng xỉu cái đùng, vì cái sự
“nặng mùi” từ trong mùng xông ra! Cả xóm lăn ra cười cái lần bác
bị bà chị ruột lôi xềnh xệch xuống sông bắt tắm. Bác vừa “bị”
tắm, vừa khóc, vừa nỉ non:
– Bắt tui tắm rủi tui bịnh ai chịu tiền
thuốc đây?
Bà
chị vừa kỳ cọ cho bác, vừa la ầm ĩ:
– Mày bịnh tao chịu tiền thuốc. Đàn bà
con gái gì mà còn hôi hơn chồn! Tao cũng khá khen cho thằng chồng
mày còn ở với mày cho tới ngày nay!
Vậy mà lũ con bác lớn như thổi, mạnh
cùi cụi quanh năm. Vì vậy ba má đem Mai ký bán cho bác làm con
nuôi. Chỉ khổ thân con nhỏ, mỗi lần gặp ông già nuôi đều bị ổng
ôm “hun” một phát lên má! Ai qua đò cũng phải trả mấy cắc, riêng
Mai thì miễn phí (con nuôi cũng có khác)! Đó là chưa kể những hôm
phát tài, bố cao hứng móc túi cho Mai 5 cắc mua mía ghim. Về nhà
bị má la, vì bác nghèo, con đông, không nên nhận tiền của bác tội
nghiệp!
Kỷ
niệm không thể quên được trong thời gian học lớp chót này là cái
chết tức tưởi của thằng Đường. Nó mới bằng tuổi Mai. Một hôm đang
ngồi học, cu cậu ôm bụng kêu đau. Thầy Tánh cho nó về. Qua hôm
sau không thấy nó đi học lại. Đến ngày thứ ba, thầy nói nó vẫn
còn đau nhiều lắm. Trị thuốc bắc hoài không hết, gia đình phải
đem nó xuống bịnh viện Cao Lãnh điều trị. Nhưng 2 ngày sau thằng
Đường chết. Lúc đó mọi người mới biết nó bị sưng ruột dư. Khi chở
xuống bịnh viện đã bể tùm lum, không cứu kịp!... Thầy Tánh dẫn cả
2 lớp đi đưa đám ma. Thấy má nó lăn lộn khóc, Mai cũng thút thít
khóc theo!....
Qua năm sau, lên lớp 5,
Mai khỏi phải qua đò, vì chú hai Thuận (em chú bác của ba) mở 1
ngôi trường cách nhà Mai độ 200 thước. Kêu ngôi trường cho nó
oai, chớ thật ra nó còn có phần tệ hơn “ngôi trường” năm ngoái,
vì chỉ trần sì có một lớp! Trường được cất trên nền đất, xung
quanh là vườn cam, quít, bưởi... Sát vách có cây mận hồng đào,
trái đỏ tươi, thường xuyên thu hút “nhỡn quan” của đám học trò
ham chơi hơn ham học. Chú Thuận vừa là thầy giáo, vừa là thầy
thuốc. Đúng ra lúc còn trẻ, chú bị gia đình bắt ép phải khăn gói
quả mướp ra tận xứ Huế tầm sư học đạo. Chú được thọ giáo với một
danh sư đất Thần Kinh (lần này đúng là người... Huế 100%). Tuy
giỏi về nghề thuốc vô cùng, nhưng chú chỉ thích làm thầy giáo.
Cuối cùng chú đành hành song nghề, trong sự sung sướng của đám
học trò. Trường cách nhà có 1 cái sân độ mươi thước. Mỗi lần có
khách đến nhà xin khám bệnh, chú giao lớp cho thằng Nam, (vì nó
nhiều tuổi và lớn con nhứt lớp), nhưng lại hiền khô, chẳng ma nào
sợ, nên lần nào lớp học cũng ồn như cái chợ. Có đứa còn chạy qua
đứng trước cửa nhà thầy, khoanh tay cúi đầu rất nghiêm chỉnh:
– Thưa thầy cho em đi... đái!
Thầy đang tập trung hết tâm trí để bắt
mạch cho bệnh nhân, nên phải gật đầu. 10 lần hết 9, nhóc ta chạy
ù ra vườn, nhảy tót lên cây mận, hay cây trứng cá, hái đầy nhóc
một túi... Chú Thuận trị học trò bằng roi mây. Nhưng hình phạt
thần sầu nhứt của chú là nắm mớ tóc mai kéo lên. Kéo tới đâu là
nạn nhân nhắm mắt, nhắm mũi cố rướn người theo tới đó. Chừng rướn
hết nổi thì chỉ còn nước òa lên khóc!
Đến giữa năm học, có một chuyện động
trời xảy ra làm rúng động cả mái trường (may phước được lợp bằng
lá) bé nhỏ này! Hôm đó trời nắng thật đẹp, không khí trong suốt
như pha lê, lại mát mẻ dịu dàng nhờ đám mưa tối hôm trước. Trong
vườn chim chóc ríu rít chuyền cành. Trong lớp, đám học trò nhỏ
đang để hết tâm trí vào bài toán đố. Chợt có tiếng chim véo von
từ ngoài đưa vào. Tiếng hót rất lạ, không giống bất cứ tiếng chim
nào hằng ngày Mai vẫn nghe. Mấy chục cặp mắt đồng loạt hướng về
phía cây mận sát vách (vách bằng lá chằm, còn chừa phía trên độ
hơn thước mới tới nóc). Lủng lẳng trên nhánh mận là 1 chiếc lồng
chim, bên trong có 1 chú đang nhảy nhót lung tung, thỉnh thoảng
ngừng lại vươn cổ lên hót một tràng. Chú chim rất đẹp, đẹp hơn
tất cả những con mà Mai đã được thấy, với bộ lông màu xanh lá
cây, chiếc mỏ màu vàng và hình như giữa hai mắt có 1 khoanh tròn
màu trắng. Chú Thuận nhíu mày hỏi:
– Lồng chim của đứa nào?
Thằng Tín – con chú – đứng lên khoanh
tay:
– Dạ của
con.
Chú ngạc
nhiên:
– Ủa, ở
đâu mày có? Mà giống chim gì coi lạ quá vậy?
Thằng Tín hơi ngập ngừng:
– Dạ của chú Huế Kiên cho con. Chú nói
con chim này tên Vành khuyên (nó phát âm Dành khuyên).
Chú Thuận nhíu mày như đang suy nghĩ
một điều gì, rồi như chợt nhớ ra, chú cao giọng:
– Có lý nào chú Huế Kiên cho mày. Loại
chim này đâu có ở đây mà chú bắt được?
Thằng Tín cặp mắt chớp lia, ấp a ấp
úng:
– Dạ, con
không biết.
Chú Thuận từ từ tiến tới trước mặt ông con, mặt đằng đằng sát
khí:
– Có phải
mày đã ăn cắp 5 đồng của má mày để mua con chim này không? Nói
mau. Hôm kia má mày kêu mất 5 đồng.
Thằng Tín lắp bắp:
– Dạ không phải con.
Nói chưa dứt câu đã bị lãnh 2 cái tát
nảy lửa. Cu cậu hồn bất phụ thể đành khai thiệt:
Số là cách đây hơn tháng, chú Huế Kiên
được ông Tám Sang mướn chèo ghe, chở lúa lên Sài Gòn bán cho mấy
chành gạo. Trong lúc rảnh rỗi, chú theo mấy người bạn lái ghe đi
thăm Sài Gòn, Chợ lớn cho biết. Tới khu chợ bán đủ loại chim, cá,
chó, mèo... thấy có bán con chim Vành Khuyên, có lẽ chạnh lòng
nhớ về xứ Bắc xa xôi, chú đứt ruột trích ra một món tiền, mua chú
chim đem về, chắc mong hằng ngày ngắm nhìn cho đỡ nhớ quê xưa.
Không ngờ gặp nhóc tì Tín là người đồng điệu. Tuy mới 8–9 tuổi
đầu, nhưng cu cậu rất mê chim chóc. Nó đã từng nuôi 1 con sáo (từ
lúc mới ra ràng), bỏ công hằng ngày bắt cào cào, châu chấu cho
ăn. Sau đó còn lột lưỡi và dạy sáo ta nói được vài câu. Nhưng 1
hôm bất cẩn, anh chàng bỏ mạng dưới nanh vuốt của mấy con mèo
hoang bên nhà bà Sáu Tân (sát hàng rào)! Cu Tín tiếc thương con
sáo khóc hết mấy ngày. Từ hôm biết chú Huế Kiên có con chim lạ,
vừa đẹp lại hót hay, hầu như ngày nào nó cũng ra nhà chú, ngoài
lộ mới, để chơi với con chim. Cách đây 2 hôm, con Lanh, con chú
Kiên bị trúng gió (?), trên thổ hạ tả, chú kẹt tiền mua thuốc cho
con, nên muốn bán rẻ, vừa chim vừa lồng có năm đồng. Cu Tín mừng
rơn, nhưng đào đâu ra tiền?
Suy nghĩ nát óc, sau cùng mê con chim
quá, cu cậu đành nhắm mắt “mượn đại” tiền của bà via. Hy vọng bả
không khám phá ra. (Ai bảo trai gái khi thương nhau mới mù quáng?
Hỉ mũi chưa sạch như thằng Tín, khi mê chim cũng dám uống thuốc
liều chớ bộ)!
Sau khi tặng ông con 2 cái tát gần gẫy cổ, chú Thuận quay ra cho
cái đám học trò, đang ngẩn tò te, một bài mô–ran: Lợi dụng lúc
nhà người ta đang “tang gia bối rối” để mua đồ rẻ như thằng Tín
là gian ác! Thay vì ăn cắp tiền đi mua con chim, nó có thể xin
chú thuốc đem cho con Lanh nhưng Mai có nghe gì đâu. Vì tuy sóng
gió đang ầm ầm xảy ra trong lớp học, ngoài kia, chú Vành khuyên
vẫn thản nhiên nhảy nhót và cất tiếng hót véo von. Sau khi tan
học, chú Thuận dẫn thằng Tín, cầm lồng chim tới nhà chú Huế Kiên
trả lại, 5 đồng cho luôn. Chú Kiên mừng lắm, cám ơn rối rít! Cũng
từ đó, tiếng hót và chú chim màu xanh có cái tên Vành Khuyên đã
thấm sâu vào tâm hồn non nớt của cô nhỏ.
Nhớ hoài...
Rồi năm học sau, Mai không nhớ vì lý do
gì (thuở đó, ăn, học, đánh chuyền, nhảy lò cò, tắm sông, cất nhà
chòi... chiếm hết thì giờ và tâm trí của Mai, còn chỗ nào để nhớ
đến chuyện khác?) chú Thuận dẹp ngôi trường nhỏ và chú Sáu Lân,
cũng em họ của ba, tốt nghiệp trường “Xách Lu” (tức Chasseloup
Laubat, các bà dưới quê phát âm nôm na là Xách lu cho tiện!) trên
Sài Gòn về, xin phép ty học chánh dưới Cao Lãnh mở một ngôi
trường tiểu học (chỉ có 3 lớp).
Trường được cất trên nền cũ của ngôi
nhà nền đúc xưa (bị tiêu thổ kháng chiến phá từ lâu), vách ván bổ
kho, mái tôn đàng hoàng. Tuy mái tôn nhưng không nóng, nhờ núp
dưới bóng mát của 2 cây vú sữa tím cổ thụ. Ngoài Hiệu trưởng Lân
còn có 2 cô giáo. Cô Bích độc thân, từ tỉnh khác đổi tới, nên cô
phải mướn một căn phòng, ăn ở luôn tại nhà bà Sáu Tân. Cô xinh
xắn, hiền, dạy lớp 5. Lớp tư do cô Liễu phụ trách. Cô Liễu có gia
đình, năm đó đang mang bầu đứa con thứ nhì. Mỗi sáng cô phải đi 7
cây số, từ Cao Lãnh lên Tân An dạy. Học trò đứa nào cũng mê tơi
mùi nước hoa từ người cô tỏa ra. Chú Lân dạy lớp 3. Chú đánh học
trò còn dữ hơn chú Thuận. Chú không xài roi mây mà xài thước
bảng! Làng Tân An nằm cạnh con sông Cửu Long, đất bồi nên cây
trái sum suê. Nhiều nhất là xoài và dừa. Ít người làm ruộng. Trái
lại xã Mỹ Ngãi nằm sâu trong đất liền, cách Tân An một cánh đồng
khá rộng. Đa số làm nghề nông. Đến mùa gặt, cần nhiều nhân công,
nên con cái họ đi học thất thường. Nhiều đứa trụ trì một lớp 2–3
năm là chuyện tự nhiên. Trong lớp Mai có 5 đứa bên Mỹ Ngãi qua
học. Tội nghiệp, phải đi bộ 3–4 cây số mới tới trường, nên tụi
nhỏ phải gói cơm đem theo ăn trưa tại lớp. Chiều, tan học lại
phải băng qua cánh đồng rộng mênh mông mới về tới nhà. Còn sức
đâu để học bài, nên đứa nào cũng học rất kém, nhứt là thằng Đức.
Nó hơn Mai 2 tuổi, mà tháng nào cũng bị cầm cờ đứng chót. Mỗi khi
bị thầy kêu đọc bài thuộc lòng là mặt mày nó xanh dờn. Có hôm làm
toán sai be bét, bị chú Lân phạt 5 khe. Mỗi lần cây thước bảng
quất cái trót xuống bàn tay đen đủi của thằng Đức là Mai lại giật
thót người. Nó nghiến răng chịu trận không dám khóc, nhưng cặp
môi xám ngoẹt! Có một lần chú oái oăm bắt Mai thi hành bản án, vì
Mai được nhiều điểm nhứt lớp. Mai là người từ bi, chớ đâu có gian
ác như chú Lân, nên chỉ khẻ nó 1 cái nhẹ hều. Chú giật cây thước,
bắt Mai xoè bàn tay bé bỏng ra, rồi quất xuống 1 cái mạnh ơi là
mạnh. Đau thấu trời xanh! Đâu có chịu tha, chú bắt Mai tiếp tục
thi hành bản án. Lần này, con nhỏ lấy hết sức quật cho anh cu Đức
5 cái.
Hôm
sau, Mai đem cho nó trái xoài thanh ca chín vàng lườm, thơm phức:
– Trò đừng giận tui nha. Tui đâu muốn
đánh, tại thầy bắt.
Thằng Đức nhận trái xoài, ra vẻ cảm
động:
– Tui
hổng giận trò đâu. Cũng tại tui học dở thôi! Mà Mai à, trò làm
cách nào mà học giỏi quá vậy? Tháng nào cũng đứng nhứt.
Con nhỏ nghệt mặt ra, rồi cười trừ, vì
biết phải giải thích cách nào đây?
Chú Lân còn độc thân lại đẹp trai. Cô
Bích xinh xắn, dễ thương, thì chuyện gì đến tất phải đến. 2 người
thương nhau. Nhưng Mai nghe mấy người lớn nói gia đình cô Bích
không môn đăng hộ đối (Mai đem câu này hỏi con Hải, con chú
Thuận, nó hơn Mai 1 tuổi, ai ngờ nó cũng mù tịt, không hiểu gì
hết, nhưng rán làm tài lanh, đóng vai Mao Tôn Cương:
– Chắc nhà cô Bích nghèo, không có
nhiều đăng để bắt cá với gia đình mình, nên ông bà Tám Dư đang đi
hỏi vợ cho chú Lân dưới Cao Lãnh.
Cô Thu, con gái ông Hội đồng Tâm, nhà
rất giàu. Một trưa Chúa nhật, con Hải, thằng Lâm và Mai hẹn nhau
đến nhà bà Sáu Tân. Nhà bà cất cách mặt đất độ nửa thước, dưới
sàn tối om, có một đám mèo hoang trú ẩn. 3 đứa chui vô sàn để
nhìn mấy chục cặp mắt sáng rực, di chuyển trong bóng tối của lũ
mèo, đang chạy lung tung vì sợ. Không ngờ phía trên là phòng cô
Bích. Tụi Mai nghe tiếng cô khóc nỉ non, rồi tiếng chú Lân dỗ
dành:
– Em
đừng lo. Anh nhứt định không cưới cô Thu đâu.
Anh thề chỉ thương mình em thôi...
Nghe đến đây 3 nhóc tì bấm nhau rút lui
có trật tự, vì lỡ chú biết được, tưởng mấy đứa đi rình thì no
đòn! Không ngờ nhỏ Hải miệng bép xép, bật mí cho thím Thuận nghe,
bả lật đật chạy đến nhà bà Tám Dư “ráp bo” y chang. Cuối cùng,
như tất cả những ông anh, bà chị đi trước, chú Lân cũng phải cưới
cô Thu, áo mặc không qua khỏi đầu. Cô Bích thất tình, ốm nhom, ốm
nhách. Nhưng vì yêu chú Lân cô vẫn ở lại trường Tân An. 2 người
cứ lén lút qua lại với nhau, bị thím Lân đánh ghen mấy trận. Cô
xấu hổ phải xin đổi đi tỉnh khác. (Chuyện này Mai không thấy tận
mắt, chỉ nghe con Hải kể lại. Vì lên lớp nhì, Mai theo má và chị
Lan qua bên làng Phong Mỹ, cách Tân An 7 cây số).
Trường tiểu học Phong Mỹ có 4 lớp: năm,
tư, ba, nhị. Lớp Mai có tới 40 học sinh. Dạy lớp Mai là thầy Hiệu
trưởng Lương. Vừa tốt nghiệp Sư phạm là bị đổi xuống cái làng quê
xa lơ xa lắc này. Hôm thầy và bà mẹ từ Sài Gòn dọn xuống, hầu như
cả chợ Phong Mỹ túa ra xem, vì lần đầu họ mới thấy một người Bắc
chính cống! Bà cụ trạc 50 (thời đó dưới quê, 50 đã là lão lắm
rồi!), tóc vấn khăn nhung đen, răng nhuộm đen, người tầm thước.
Thầy Lương ốm, cao, trắng trẻo, đúng câu bạch diện thư sinh. Mẹ
con thầy mướn căn nhà sát chợ, ngay trước cửa trường. Mọi người
không giấu được sự kinh ngạc khi nghe thầy gọi mẹ bằng u. Sau này
Mai nghe kể, bà cụ goá chồng sớm. Hai mẹ con dắt díu nhau vào Nam
năm 54. Bà buôn tảo bán tần nuôi con ăn học cho khi thành tài.
Một mẹ một con nên bà thương và săn sóc thầy một cách quá đáng.
Đôi khi làm thầy mắc cỡ đỏ cả mặt, gắt lên:
– U, u, u đừng làm thế!
Má mướn nhà tại chợ cho chị Lan mở tiệm
may và cũng là người duy nhứt đã từng sống trên Sài Gòn nên dễ
thân với bà cụ. Có chuyện vui buồn gì cũng kể cho nhau nghe.
Như thường lệ, Mai là đứa nhỏ tuổi nhứt
lớp. Bên con trai có anh Dương và anh Sang tới 17 tuổi. Bên gái
có chị Lệ Hoa và chị Kim Sa cũng 17. Còn sàng sàng 13–14. Học trò
làng Phong Mỹ có phần văn minh hơn bên Tân An, vì phần lớn ở tại
chợ. Tuy vậy vẫn không bỏ được thói quen đi chân đất. Mấy ngày
đầu còn mang guốc, sau Mai phải lén má bỏ guốc ở nhà. Như vậy mới
có vẻ hòa hợp... dân tộc!
Chỉ khổ mùa mưa, lũ trùn bò lổm ngổm.
Mỗi bước đi phải nhìn trước nhìn sau. Cả tháng đầu nghe thầy
giảng bài, lũ học trò ngẩn tò te, vì thầy nói tiếng Bắc. Những
tiếng nhé, nhỉ, chưa có đứa nào đã được nghe qua trong đời! Nhưng
từ từ cũng quen. Thầy rất hiền, tận tâm, vui vẻ và thỉnh thoảng
lại vác cây guitar vô lớp gảy từng tưng cho lũ học trò nghe, nên
ai cũng mến thầy.
Qua năm lớp nhì không có gì đáng ghi
nhớ. Họa chăng thỉnh thoảng Mai thấy trong hộc bàn có 1 tấm tranh
vẽ. Khi thì vẽ 1 đóa hoa, lúc chỉ là 1 chiếc lá vàng. Tranh nhỏ
thôi, nhưng rất đẹp. Không bao giờ có chữ ký, nhưng Mai biết tỏng
là của thằng Bằng, vì trong lớp chỉ có nó vẽ đẹp nhứt. Đôi khi vô
tình con nhỏ còn bắt gặp cu cậu nhìn lén mình nữa chớ. Những lần
bị bắt quả tang, cu ta đỏ mặt lên như con gái!
Thỉnh thoảng cuối tuần, Mai, Kim, Hằng
với chị Lệ Hoa đạp xe vào chơi nhà Kim Sa, ở tuốt trong ngọn (con
rạch Phong Mỹ, bắt đầu từ sông Cửu long, chạy sâu vào tuốt trong
Đồng Tháp Mười. Chỗ giáp sông gọi là vàm, cuối rạch gọi là ngọn.
Dân chúng cất nhà dọc hai bên bờ rạch và dùng xuồng nhỏ để di
chuyển. Dân quê giặt quần áo, rửa thức ăn, tắm gội, uống nước
cũng chỉ với con rạch này. Nên má kể có năm, bịnh đậu mùa hoành
hành, dân chúng hai bên bờ chết như rạ).
Nhiều lần tụi Mai đụng đầu với thầy
Lương ở nhà Kim Sa. Thầy có vẻ hơi lúng túng, nhưng cô nàng chẳng
những rất tự nhiên mà có phần hơi... kênh kênh! Cũng từ đó Mai để
ý thấy thầy Lương gọi cả lớp bằng trò, trừ Kim Sa thầy gọi bằng
em ngọt sớt! Lũ nhóc cà nanh, nói hành nói tỏi, không ngờ tới tai
thầy. Một hôm thầy la tụi Mai một trận giữa lớp. Tụi con trai
được trớn, giờ ra chơi bu lại mắng thêm, nói bọn con gái nhiều
chuyện. Thằng Luyện còn dám xỉ vô trán Mai nữa chớ! Cả đám tức
mình khóc hu hu... Nghĩ lại tại bọn Mai thấp cổ bé miệng, chớ một
lần đang chơi nhà nhỏ Kim, cách nhà thầy Lương có 1 căn (mẹ thầy
về Sài Gòn thăm bà con). Chính mắt tụi Mai thấy Kim Sa vô nhà
thầy. Mấy phút sau cả đám tới gõ cửa. Thầy ra mở, nhưng không
đóng cửa lại mà mở toang, cho cánh cửa dựa sát vách. Tụi Mai làm
bộ hỏi bài, nhưng cặp mắt đảo chung quanh. Không thấy bóng dáng
“Mụ Dạ Xoa”, (từ hôm bị thầy rầy “oan”, tụi Mai tức mình bèn đặt
biệt danh này cho Kim Sa để trả thù!), mấy nhóc đành chào thầy.
Ra ngoài, nhỏ Hằng thì thầm:
– Tao nghe rõ ràng có tiếng thở phía
sau cánh cửa.
Chắc chắn là Mụ Dạ Xoa núp ở đó. Tức quá chời!...
Thời gian trôi nhanh, Mai lên lớp nhứt.
Thầy Lương càng ngày càng “lậm” và cuối cùng chuyện này cũng tới
tai bà cụ. Mẹ thầy không thích Kim Sa, bà nói con bé có cặp mắt
lẳng lơ quá (đó là lời cụ tâm sự với má Mai). Nhứt là bà đang
ngắm nghé chị Bạch (chị thằng Đức học cùng lớp Mai). Chị đẹp dịu
dàng, tánh tình thùy mị, đảm đang, cả chợ ai cũng mến. Bà nhờ má
Mai đứng ra làm mối. Thầy Lương cũng bằng lòng. Hai bên định ngày
làm đám hỏi. Thứ bảy, học trò chỉ học buổi sáng. Sau khi tan học,
mẹ con thầy sẽ cùng với má của Mai đem lễ vật tới nhà chị Bạch.
Bên nhà gái chuẩn bị tiệc tùng từ hôm trước. Không ngờ, học trò
vào lớp được khoảng nửa giờ, bên Hội Đồng Xã cho người qua mời
thầy Lương đến trụ sở có việc. Thầy tỉnh queo trong khi đám học
trò ngơ ngác nhìn nhau. Thầy dặn không trò nào được rời khỏi lớp
trong lúc thầy vắng mặt. Nhưng nhứt quỉ nhì ma thứ ba là học trò
mà! Thầy vừa qua tới trụ sở Xã thì thằng Triết (lí lắc nhứt lớp),
cũng đã nhảy qua cửa sổ, chạy theo núp phía sau để dọ thám. Độ 15
phút sau, nó hớt hải chạy về báo một tin động trời: Gia đình chị
Kim Sa thưa thầy Lương về tội... dụ dỗ gái tơ và khủng khiếp hơn
nữa là cô nàng đang mang bầu! Lúc đó bộ tam sên Kim – Mai – Hằng
vênh mặt lên:
– Thấy chưa? Năm ngoái đứa nào nói tụi tao nhiều chyện?
Phía con trai nín khe... Ngồi trong lớp
mà đứa nào cũng như ngồi trên đống lửa. Cuối cùng chịu hết nổi,
cả đám rủ nhau qua trụ sở. Lúc đầu còn sợ sợ, núp núp, lén lén.
Lát sau thấy hấp dẫn quá, quên cả sợ, đám học trò chen chúc nhau
xem. Thầy Lương và bà mẹ đứng trước mặt Ban Hội Đồng (trong đó
ngài phó Chủ Tịch là bác của “nạn nhân”. Điệu này thầy thua là
cái chắc)!
Kim
Sa ngồi cúi gằm mặt, bên cạnh là bà dì. Gia đình họ bắt thầy
Lương phải nhận cái bầu và làm đám cưới ngay. Mẹ thầy đâu chịu
đầu hàng dễ dàng, bà nhất định không công nhận Kim Sa và đặt một
câu hỏi to tướng về tác giả cái bầu nọ!?
Trước mặt đám học trò, thầy Lương mắc
cỡ đỏ mặt tía tai, quên tuốt luốt công lao dưỡng dục của bà mẹ,
lớn tiếng quát:
– U im đi. U biết gì mà nói!
Không ngờ ông quí tử có thể đối xử với
mình một cách phũ phàng như vậy, bà cụ oà lên khóc, kể lể tùm
lum. Những tiếng “ối giời ôi...” cụ vừa khóc vừa rên lên khiến
mọi người cũng cảm thấy não lòng! Thầy Lương xin phép dẫn mẹ về
rồi sẽ trở lại. Thầy lôi tay, cụ nhất định trì lại, sau cùng vì
yếu sức hơn, bà đành theo con ra về. Hôm sau, những lễ vật thay
vì được đem đến nhà chị Bạch, lại phải trực chỉ hướng nhà Kim Sa!
Sau này, tụi Mai mới biết chính thầy
Lương “khả kính” có dự phần trong cái “âm mưu” đi kiện này. Thầy
dư biết nói suông không đời nào bà cụ chịu cho thầy cưới Kim Sa,
nên mới đồng ý dựng vở tuồng này. Tuy xấu hổ một chút, nhưng kết
quả 100%! Chỉ tội nghiệp chị Bạch vỡ mộng làm bà Hiệu trưởng và
gia đình chị bữa đó chờ đàng trai dài cả cổ cũng chẳng thấy đâu!
Vậy mới biết khi đã vướng vào lưới tình thì sẵn sàng tung hê hết.
Cả danh dự lẫn tình mẫu tử đều phải cuốn gói đi ra chỗ khác chơi!
Bà cụ chỉ còn nước cắn răng khóc thầm.
Lên trung học Mai theo má lên Sài Gòn ở
luôn, nên biệt tin cả đám bạn cũ. Nhưng từ khi bỏ nước ra đi, rất
thường, trong mơ Mai thấy mình sống lại y hệt cái thời thơ ấu đó.
Cũng những mái trường làng rợp bóng cây
xanh. Cũng dòng sông hiền hòa, mà hầu như ngày nào bọn Mai cũng
nhảy xuống tắm, đến khi mặt mũi tái xanh vì lạnh mới chịu lên.
Cây sung già thân thể sần sùi tại bến đó. Núp dưới bóng mát đó,
chị Hạnh tươi cười mời những khách bộ hành qua lại mua những chùm
mía ghim ngọt ngào, những chén bánh lọt chan nước dừa mát rượi và
nhứt là tiếng hót của chú chim Vành Khuyên màu xanh, mỏ vàng,
nhảy tung tăng trong lồng, cặp mắt đen nhánh lúng liếng nhìn qua
nhìn lại...
Sáng hôm sau dậy trễ, Mai ra bếp đã thấy Tiến đang ngồi nhâm nhi
ly cà phê phin bốc khói thơm lừng, vừa đọc báo. Thấy vợ ra, Tiến
buông tờ báo xuống hỏi:
– Làm gì mà đêm qua cứ lăn lộn hoài vậy
nhỏ?
Mai bưng
ly cà phê của chồng uống một hớp:
– Nghe bài Trường Làng Tôi, em nhớ tới
những mái trường xưa dưới quê lúc còn nhỏ. Nhớ muốn chết luôn!
Tiến giả bộ hốt hoảng:
– Ấy ấy, nhớ thì cứ nhớ nhưng đừng
chết. Bỏ tui cu ky một mình tội lắm à nha!
Mai xì một tiếng:
– Người ta nói vậy thôi, chớ bộ ngu sao
chết! Còn anh nữa, sao không bao giờ em thấy anh nói nhớ về miền
Bắc?
Tiến lấy
giọng bi thảm:
– Ối giời, bà xã yêu quí, bộ bà tưởng
ông chồng bà có trái tim bằng sắt hay sao chứ? Nhiều khi tui nhớ
da nhớ diết cái xứ Hưng Yên. Nhất là vào mùa hè, mỗi khi bà mua
nhãn về ăn, là lòng tui đứt ra từng đoạn (?!) vì nhớ tới mấy cây
nhãn ngon không thể tả trong vườn nhà bà ngoại ngày xưa...
Mai ngắt lời, dài giọng:
– Thơ mộng dữ hôn! Nhớ gì không nhớ,
chỉ nhớ mấy cây nhãn!
Tiến cười hà hà:
– Cưng ơi, cổ nhân có phán rằng: có
thực mới vực được đạo. Chà, nói đến đây anh lại cảm thấy đói
bụng. Thôi đi hâm nồi bún riêu đi cưng.
Mai vừa mở tủ lạnh vừa nói:
– Thưa ông tướng có ngay. Trong khi chờ
đợi, gọi dùm mấy nhóc tì dậy ăn luôn.
Tiến đứng lên cái rụp:
– Xin tuân lệnh bà nội tướng!
Tiểu Thu
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Đêm Thánh với muôn muôn vàn vì tinh tú... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, December 6, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang