Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
Chiến Trường xưa
Tác giả:
KB Phạm Hữu Phước
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
1.
Nhập cuộc – Gio Linh – Trung Lương:
– Thời gian trôi đi nhanh quá. Thế hệ
của tôi giờ này tuổi cũng đã lớn. Nhiều lúc ngồi một mình bên ly
cà phê nóng, mông lung nhớ về dĩ vãng của một quãng đời binh
nghiệp đã cùng các bạn chia sẻ với biết bao buồn vui lẫn lộn kể
cả xương máu nữa. Nhớ một lần bên nồi cháo gà chỉ có một mình
mình ăn nơi vị trí đóng quân trong căn cứ, hỏi tại sao thì các
anh em trong xe cho biết là “ăn gà xa bạn”. Lần khác tại mặt trận
trong lúc tôi đang bắn cây đại liên 30 thì người lính tiếp đạn
đưa cho tôi điếu thuốc và nói thiếu úy hút đi, ngọt lắm đó, mà lạ
thật có thêm mùi thuốc súng thì điếu thuốc lại ngọt như tẩm
đường.
Một hôm
cùng các bạn đi uống cà phê tại Quảng Trị, tụi nó đố tôi nếu biết
tên và trường học của cô em thu tiền trong quán thì tụi nó chi
cho chầu này. Tôi đến nói nhỏ vừa đủ nghe với cô em rằng bạn anh
đố như vậy đó em giúp anh nhé, thế là tôi thắng cuộc. Một hôm có
dịp theo xe hậu cứ của chi đoàn ra Huế, tôi lang thang tìm kiếm
trường học của cô em xinh xắn ấy, gặp mấy em gái học cấp 2, tôi
hỏi thăm thì cô bé ấy gọi mấy em khác đến rồi nói to: “A! Chủ ni
nỏi tiếng Sài gòn, hi... hi...” giọng em gái Huế nghe thật dễ
thương. Và còn nhiều chuyện nữa, nhưng thỉnh thoảng tôi mới nhớ
lại.
Tại tượng
đài chiến sĩ Việt Mỹ ở thành phố Westminster thuộc Tiểu Bang
California nước Mỹ, tôi ngạc nhiên và mừng rỡ khi gặp lại Phạm
Văn Khen, Nguyễn Đình Tuyên, Nguyễn Thiện Tường, Phạm Quý Thể,
Tuấn Đỗ là bạn cùng khóa 20 Sĩ Quan Căn Bản Thiết Giáp (SQCB/TG).
Chúng tôi cùng ôn lại những ngày còn trong quân trường TG sau hơn
40 năm xa cách và hỏi thăm những anh em khác trên các vùng chiến
thuật đã từ lâu không gặp mặt.
Để các bạn cùng khóa, dù đang ở Việt
Nam hay khắp nơi trên thế giới cũng biết tin nhau, nhớ đến nhau,
nên tôi viết lại những đoản hồi ký này để cùng tưởng niệm những
anh em đã hy sinh cho Tổ Quốc VNCH, như Lãm, Thạch, Kong Chi màu,
Vĩnh Cổn, Xuân, Châu Vuốt, Đúng, Giầu, Hảo. Nhiều anh em khác như
Võ Văn Kiệt bị cưa chân, Châu Phước Cơ thì bị bắn gãy xương vai,
Đỗ Đình Du trúng B40 liệt tay phải, Trịnh Á bị thương trận Hạ Lào
phải giải ngũ, Tôn Thất Nguyện, Phan Đình Ngân bị thương rồi
thuyên chuyển về Thiết Đoàn 7 Ky Binh, v.v.
Thời gian gần nửa thế kỷ rồi nên trí
nhớ của tôi đã không còn sắc bén nữa, nhớ tới đâu tôi viết ra tới
đó. Hơn nữa vào thời gian đó cấp bậc của tôi trong đơn vị cũng
thấp, chỉ thi hành theo lệnh cấp trên, vì thế sự hiểu biết về
những cuộc hành quân lớn cũng có giới hạn, cho nên tôi chỉ viết
ngắn gọn những trận chiến trong phạm vị tôi tham dự. Mong quí bạn
niệm tình bỏ qua những thiếu sót của tôi khi đọc bài viết này.
Tôi tốt nghiệp khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị
Thủ Đức cuối năm 1967 với cấp bậc chuẩn úy và được chọn về binh
chủng Thiết Giáp với 55 anh em cùng khóa. Khi trình diện và làm
xong thủ tục nhập khóa học, chúng tôi được hướng dẫn đến phòng
ngủ. Còn đang chưa biết làm gì thì chúng tôi được lệnh tập họp để
nghe hướng dẫn nội quy của trường mà các khóa sinh phải chấp
hành. Đứng trên nền cao trước phòng ngủ, Thiếu úy Hà Mai Khuê với
áo quần ủi hồ thẳng nếp và đứng bên cạnh hàng quân để theo dõi là
Trung úy Hồ Đình Thuận, Sĩ Quan đỡ đầu khóa 20 SQCB/TG của chúng
tôi. Cả hai đều là huấn luyện viên ban chiến thuật của Thiếu tá
Nguyễn Văn Đồng. Sau gần một giờ nói về nội quy như: không được
mang cấp bậc, không được vắng mặt bất hợp pháp, giờ giấc và nhiều
điều khác, đến phong cách của người lính KB là lịch sự, hào hoa,
anh dũng, v.v. Sau khi điểm danh xong
tôi mới biết có thêm 5 khóa sinh của trường Võ Bị Đà Lạt là Châu
Phước Cơ, Nguyễn Thành Chức, Trương Văn Minh, Trần Thâm, Trần
Châu Giang. Và, có thêm 3 Sĩ Quan của các đơn vị khác là Trung úy
Bích bên BĐQ, Thiếu úy Ngọc bên Bộ Binh (BB) và Thiếu úy Khuyên
bên ĐPQ. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi nhau, làm quen, hầu giúp đỡ
nhau cùng học tập.
Sau một tuần lễ lo ổn định mọi thứ thì
đến Tết Mậu Thân 1968. Tôi được đi phép trước Tết và phải trở lại
trường ngày mùng hai Tết. Nhưng Việt Cộng (VC) vi phạm thỏa thuận
hưu chiến, chúng mở cuộc tổng tấn công nhiều nơi trong thành phố
Sài Gòn nên phải đến mùng 6 Tết tôi mới theo xe của trường BB Thủ
Đức đón SVSQ về lại trường. Lúc đó tôi mới hay biết Trung tá
Nguyễn Tuấn, Chỉ Huy Trưởng trường TG, đã bị VC sát hại cả gia
đình tại nhà ở BCH TG, chỉ còn một người con trai là Nguyễn Từ
Huấn bị thương và sống sót (hiện anh Nguyễn Từ Huấn là Phó Đề Đốc
Hải Quân Hoa Kỳ), và bạn cùng khóa với tôi là Lãm đã hy sinh khi
đi giải tỏa đợt 1 tại Bộ Tổng Tham Mưu Sài Gòn cùng với Chi Đoàn
diễn tập. Trong kỳ đi giải tỏa VC lần thứ hai vào tháng 5/1968
tại Cầu Tre, khóa 20 SQCB/TG chúng tôi lại mất thêm một sĩ quan
khóa sinh nữa là Thạch. Đó là chuyện buồn vào những ngày Tết của
khóa 20 SQCBTG chúng tôi.
Vì phải tham gia trận chiến Tết Mậu
Thân nên đến tháng 6/1968 chúng tôi mới mãn khóa học. Với tình
hình cuộc chiến lúc bấy giờ, binh chủng TG thành lập thêm Thiết
Đoàn 11 KB để trấn giữ vùng hỏa tuyến, nên khóa tôi về Thiết Đoàn
11, Thiết Đoàn 7, Thiết Đoàn 4 hơn 30 người. Các anh em miền
Trung thì hớn hở, còn anh em miền Nam như tôi thì không được vui
lắm vì phải xa nhà, xa gia đình mà cũng xa cả người yêu (bây giờ
là má bầy trẻ của các con tôi) vì nghĩ rằng cả năm trời tôi mới
có thể được về phép thăm gia đình.
Về Thiết Đoàn 11 có 10 anh em SQ Thủ
Đức và 1 Võ Bị Đà Lạt là Châu Phước Cơ. BCH ThĐ 11KB tân lập ở
ngay tại trường TG nên chúng tôi chỉ đi vài bước là tới. Trình
diện xong tôi mới biết Thiếu tá Bùi Thế Dung là Thiết Đoàn
Trưởng, Thiếu tá Nguyễn Văn Tá là Thiết Đoàn Phó, Đại úy Ngô Đức
Lâm là trưởng ban 3, Đại úy Trần Hữu Thành trưởng ban 4 (Danh
hiệu là Hổ Cáp), Thiếu úy Nguyễn Văn Răng là CĐT Chi Đoàn Chỉ huy
Công vụ. Chúng tôi gồm 8 người về Chi Đoàn 1/11 TK, 3 người về
BCH Thiết Đoàn là Lê Thành Đạt làm phụ tá Ban 1, Trịnh Á và Châu
Phước Cơ làm phụ tá Ban 3, còn tám đứa chúng tôi trình diện Trung
úy Nguyễn Lương Bích, Chi Đoàn Trưởng 1/11 TK và Thiếu úy Mai
Xuân Tương là Chi Đoàn Phó để nhận lệnh. Chi Đoàn được thành lập
theo bảng cấp số mới nên 2 SQ vào một chi đội. Chúng tôi được
phép chọn cho mình một danh xưng. Tôi chọn “Nguyệt Cầu” là danh
xưng của tôi từ đó. Còn chọn ai là chi đội trưởng thì tùy ý. Đỗ
Đình Du là chi đội trưởng và tôi là chi đội phó về chi đội yểm
trợ. Chi đội tôi có 5 xe M113 gồm 2 xe gắn đại bác 106ly không
giật và 3 xe súng cối 81ly được lắp đặt chắc chắn trên các đà gỗ
to. Bên hông xe được sơn hình ca rô màu đỏ, còn các chi đội khác
thì màu trắng, xanh, vàng. Tập họp chi đội lại nói chuyện và giới
thiệu hai chúng tôi là chi đội trưởng và chi đội phó sẽ chiến đấu
cùng anh em sau khi mãn khóa huấn luyện. Bấy giờ tôi mới biết anh
em binh sĩ đều là người miền Trung, giọng nói lúc đầu hơi khó
nghe nhưng sau rồi tôi cũng nghe và hiểu được. Nhờ thành lập và
huấn luyện tại Trường TG nên tôi được gần nhà thêm hai tháng nữa.
Xong khóa huấn luyện, Chi Đoàn xuống
tầu Hải Quân ra miền Trung. Sau ba ngày lênh đênh trên biển, say
sóng tơi tả, chúng tôi cặp bến Đà Nẵng. Trên đường di chuyển về
hậu cứ Thiết Đoàn 4 tại Phước Tường, lòng tôi thấy rộn ràng theo
nhịp sống nhộn nhịp của dân chúng miền Trung, không khác chi Sài
Gòn là mấy.
Sau khi đưa xe vào vị trí xong, Trung úy Bích, Chi Đoàn Trưởng
trình diện Chi Đoàn cho Trung tá Phan Hòa Hiệp, Thiết Đoàn Trưởng
(ThĐT) Thiết Đoàn 4, Thiếu tá Nguyễn Văn Của, Thiết Đoàn Phó
(ThĐP), Thiếu tá Nguyễn Hữu Lý, Trưởng Ban 3. Sau lời chúc mừng,
động viên, Trung tá Phan Hòa Hiệp cho biết Chi Đoàn sẽ ở lại đây
một tuần, tối đi phòng thủ phi trường chờ tầu lớn của Hải Quân
chở đến Cửa Việt rồi xuống tầu đáy bằng há mồm, từng hai chiếc
M113 một, từ Cửa Việt đến Đông Hà. Được ở một tuần, tôi có dịp đi
chơi nhiều nơi, thưởng thức hương vị đặc sản các món ăn miền
Trung cho biết nhưng tôi thích nhất vẫn là món bê thui chợ Cồn.
Một tuần lễ qua nhanh, Chi Đoàn lần
lượt xuống tầu ra Đông Hà rồi bố trí phòng thủ trong phi trường
chờ lệnh. BCH Thiết Đoàn cũng đóng tạm trong vòng đai phi trường.
Trong thời gian dưỡng quân này chúng tôi đi ra chợ mua vài thứ
cần dùng cá nhân và xem người ta bán buôn ra sao. Trời mùa hè
nắng chói chang, không khí oi bức, chúng tôi mua mỗi đứa một cục
nước đá bào xịt si rô xanh đỏ vừa đi vừa mút. Đi đến dãy bán quần
áo thì nghe mấy cô cười khúc khích nói một tràng mà chẳng có đứa
nào hiểu chi hết, chỉ biết cười đáp lại mà thôi. Về đến xe tôi
lặp lại thì mới biết mấy cô đó nói là: “mấy anh có đõi thì về nhà
em nẩu cơm cho mẫy anh ăn hỉ”. Thật là “quê một cục”, thì ra ở
đây không ai vừa đi vừa ăn ngoài đường như trong miền Nam của
tôi.
Vài ngày
sau thì Chi Đoàn được lệnh di chuyển theo quốc lộ 1 (QL1) đến căn
cứ C1 cách thị xã Đông Hà khoảng 20 cây số về hướng Bắc nằm bên
trái QL1 chừng 200 mét để hoán đổi cho CĐ 2/7 của Đại úy Nguyễn
Hóa trở về Quảng Trị. Chi Đoàn vào bố trí phòng thủ chung quanh
hàng rào, cạnh các hầm hố cá nhân của lính bộ binh. Tôi đi một
vòng xem xét các vị trí chiến đấu của chi đội và làm quen với các
anh em bộ binh nên tôi mới biết họ thuộc đại đội phòng thủ Trung
Đoàn 2, Sư Đoàn 1 BB của Trung tá Vũ Văn Giai (sau này là Chuẩn
tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB) trấn giữ vùng Hỏa Tuyến. Còn khu nhà
dọc theo QL1 là Quán Ngang. Đến nơi đây mới thấy có mùi vị của
chiến tranh. Tiếng súng đại bác của Mỹ bắn đi liên tục nghe điếc
tai, nhức óc. Đi đến gần người lính Mỹ tôi hỏi mới biết ở đây có
nhiều loại súng như 203ly nòng ngắn, 175ly nòng dài của quân đội
Mỹ, 155 và 105ly của quân đội VNCH và cũng ít khi bị VC pháo
kích. Trên các nòng súng 175ly của pháo binh Mỹ tôi thấy có sơn
những chữ bằng tiếng Mỹ “sweat – blood – tear” mà tôi tạm dịch là
“mồ hôi – máu – nước mắt” thật là thâm thúy. Thấy tôi đến hỏi
thăm, mấy người lính Mỹ thích lắm, xúm lại hỏi lung tung vì ít
khi được nói chuyện với lính VNCH. Nói chuyện với họ một lúc tôi
cám ơn và chúc họ may mắn rồi quay về đơn vị.
Đã xế chiều mà trời vẫn còn nóng, gió
Lào thổi từng cơn như quạt lửa vào mặt, thỉnh thoảng có những con
gió lốc mạnh làm bụi đất đỏ bay mịt mù. Cơm nước xong tôi đến mấy
chi đội khác rủ tụi nó sáng mai ra chợ uống cà phê, ngồi tán gẫu
một lúc rồi về. Sáng sớm, như đã hẹn, chúng tôi ra chợ lang thang
xem người ta mua bán cho vui, lời qua tiếng lại rất lạ tai, có
tiếng tôi hiểu có tiếng không. Đa số là những người lớn tuổi,
những bà mẹ quê còm cõi, những đứa trẻ áo quần, mặt mày lem luốc
không mấy sạch sẽ chơi giỡn cười đùa thật vô tư, nhìn thấy thương
làm sao ấy! Chợ làng quê nghèo vì chiến tranh tàn phá nên rau
cải, thịt cá cũng ít ỏi không bằng một góc chợ chồm hổm ở miền
Nam. Chợ nhóm buổi sáng dọc theo QL1 phía bên phải chừng vài
tiếng là tan. Nhà cửa cũng rất tạm bợ, sơ sài, phần nhiều là mái
tranh vách đất, cũng có được mấy căn nhà lợp tôn, vách ván bằng
thùng gỗ pháo binh. Dù nhà tôn hay nhà tranh, nhà nào cũng có hầm
trú ẩn chất bằng bao cát. Vài quán giải khát bán luôn cả thức ăn,
thấy cũng vắng khách, chắc đa số khách là lính trong căn cứ, khi
có khách chủ quán mới mở radio nghe cho vui.
Chúng tôi gọi cà phê đá thì cô chủ quán
cho biết nước đá không còn phải đợi mở đường xong xe hàng từ Đông
Hà lên mới có. Chúng tôi hỏi thăm mới biết dân chúng ở đây toàn
là những người bỏ nhà cửa, ruộng vườn từ khi VC vượt vĩ tuyến 17
lấn chiếm 2 quận Trung Lương, Gio Linh. Vì thương cha mẹ già
không chịu xa quê nên có nhiều gia đình phải nấn ná ở lại đây để
phụng dưỡng. Vì thế có thể nói Quán Ngang là khu định cư của
những người dân Gio Linh và Trung Lương vậy. Ngồi uống cà phê
chơi một lát thì toán công binh của Mỹ rà mìn từ Đông Hà tới, sau
đó xe cộ mới lưu thông. Xe khách chở người và hàng hóa chất đầy
cả trên mui xe. Xe chạy tới đây là trạm cuối vì Gio Linh, Trung
Lương còn đâu nữa mà chạy tiếp tục. Ngày trước, khi còn trong
quân trường SQTB Thủ Đức, chiều chiều lên Câu Lạc Bộ SVSQ uống
nước, nghe ca sĩ Hoàng Oanh hát bài “Thương Vùng Hỏa Tuyến” của
nhạc sĩ Anh Bằng tôi không cảm thấy xúc động gì mấy, bây giờ tại
đây nghe tận tai, chúng kiến tận mắt cuộc sống của người dân mới
thấy lòng nhói đau.
VC tấn công Vùng Hỏa Tuyến:
Nghỉ ngơi được vài ngày thì Chi Đoàn
chuẩn bị hành quân cùng bộ binh chiếm lại những vùng bị địch xâm
lấn. Đến chiều Trung úy Bích phân phát phóng đồ hành quân, hướng
dẫn sắp xếp đội hình, thứ tự di chuyển, v.v. Chi đội 1 của Chuẩn
úy Tôn Thất Nguyện đi đầu, theo sau sẽ là chi đội 2. Đây là lần
đầu tiên Chi Đoàn ra quân tại vùng Hỏa Tuyến nên mọi người đều
hồi hộp. Đúng 4 giờ sáng Chi Đoàn di chuyển đến điểm A, bố trí
trên bãi cát bên phải QL1 cùng bộ binh tùng thiết chờ giờ xuất
phát thì địch chào đón bằng một tràng pháo kích. Chi Đoàn bung
rộng ra tránh đạn, khi vừa ngưng pháo tôi quay xe lại thì cán
phải mìn chống chiến xa, khói đen mịt mù phủ kín cả xe, hai xạ
thủ đại liên 30 khụy xuống, tôi kéo cả hai lên nắp cửa vuông rồi
mở thắt lưng cho họ dễ thở. Khói tan, tôi khoát tay cho biết là
không sao để Chi Đoàn yên tâm. Thấy tôi vẫn bình thản nên xa đội
mới hoàn hồn. Rồi Chi Đoàn vượt tuyến xuất phát, còn xe tôi ở
lại. Xe chỉ bị đứt xích, hư bánh lăn mà thôi. Chúng tôi gỡ xích
ra từng đoạn ngắn bỏ vào xe rồi chờ xe Thiết Đoàn ra kéo. Đây là
buổi thực hành đầu tiên sau khi học tại Trường TG Thủ Đức. Sau
này tôi còn nhiều lần thực hành khác ngay tại mặt trận, dưới đạn
pháo của địch, chẳng hạn như kéo xe lọt xuống hố bom, bị mìn, bị
trật xích, bị mắc lầy, v.v.
Trong khi chờ đợi toán sửa chữa tới,
tôi đứng trên xe quan sát quang cảnh vùng này. Bên phải QL1 thì
đất pha cát chạy dài về hướng Đông ra tới biển. Bên trái đất đỏ,
đồi thấp thoai thoải tới chân núi phía Tây. Cả hai bên cây cối
lưa thưa, có những cụm tre xanh rì, đó là dấu tích làng mạc trước
đây. Trên bản đồ đây là quận Gio Linh mà bây giờ là bãi đất hoang
chỉ còn lại căn nhà lầu hai tầng tróc nóc, tường loang lổ vết
đạn. Đứng trên xe tôi theo dõi Chi Đoàn chiếm mục tiêu, chẳng
thấy được gì chỉ nghe tiếng nổ của các loại đạn đại liên cùng
pháo binh, có lẽ của cả hai bên. Đến trưa Thiếu úy Nguyễn Văn
Răng cùng toán sửa chữa của Thiết Đoàn đến kéo xe về căn cứ. Gần
tối Chi Đoàn mới trở về với nhiều chiến lợi phẩm, nhưng Chi Đoàn
lại mất một Trung sĩ trưởng xa và hơn 1/3 binh sĩ bị thương nhẹ.
Tất cả nét mệt mỏi hiện rõ trên gương mặt lấm lem bụi đất và khói
thuốc súng. Sáng hôm sau Chi Đoàn nghỉ ngơi, nhận tiếp tế thực
phẩm, xăng nhớt, đạn dược để chuẩn bị cho cuộc hành quân kế tiếp.
Là chi đội yểm trợ nên lúc nào cũng
phải đi hai bên xe Chi Đoàn Trưởng và xe sửa chữa. Cách 100 mét
phía trước, chi đội 1, 2, 3 vừa bắn vừa tiến cũng là áp đảo địch
quân và cũng là để tránh pháo địch. Bộ binh không theo kịp nên
hầu như chỉ có thiết giáp thanh toán chiến trường mà thôi. Trong
những lần hành quân kế tiếp, để di chuyển tránh pháo cho nhanh,
Chi Đoàn không thả bộ binh xuống, chỉ khi nào cần lục soát hay
phá hầm hố mới thả bộ binh xuống mà thôi. Đôi khi có xe lọt xuống
hố bom không kéo lên được, xe tôi phải phụ xe sửa chữa kéo xe lên
để mau thoát khỏi pháo của VC. Tiền sát VC điều chỉnh pháo của
chúng vào chỗ chúng ta đang gặp trở ngại rất chính xác. Ngược lại
tiền sát viên của ta phản pháo nhanh và chính xác không kém. Ta
cũng như VC hầu như đã quá thuộc lòng mọi vị trí trong vùng địa
đầu này, chỉ cần gọi là pháo binh ta bắn đúng mục tiêu ngay. Rất
may mắn cho Chi Đoàn là trong suốt những tháng năm hành quân chưa
có xe nào bị trúng pháo binh của VC. Cứ như thế, một ngày đánh
VC, một hai ngày nghỉ để nhận tiếp tế. Tôi cảm thấy mệt mỏi sau
những lần kéo xe ngoài mặt trận, chưa lấy lại sức vì thiếu ngủ do
đại bác pháo binh Mỹ bắn suốt đêm, nhất là khi những nòng súng
hướng về phía mình, mệt mỏi quá rồi cũng ngủ thiếp đi được một
lúc, nhưng thỉnh thoảng phải giật mình tỉnh giấc. Nhận thấy chi
đội yểm trợ không cần thiết ở vùng này nên chi đội yểm trợ cũng
trở thành chi đội xung kích. Hành quân liên tục trong vòng một
tháng, quân số xa đội của tôi chỉ còn 4 người. Thiếu người tiếp
tế đạn, tôi nhờ bộ binh tùng thiết thay thế.
Hành quân phối hợp với các Tiểu Đoàn BB
của Trung Đoàn 2 BB thường thì trong ngày. Còn với TQLC Mỹ phía
trong núi thì có khi đến cả tuần lễ. Những lúc dừng quân, các bạn
lính Mỹ hay đem hình gia đình, vợ con của họ ra khoe, đem thư ra
đọc, đem bánh của vợ gửi vừa nhận được ra mời tôi cùng ăn cho
vui, và có lẽ để quên đi sự mệt nhọc với mọi hiểm nguy cho sinh
mạng mình và nỗi nhớ nhà, nhớ vợ con, mà không biết họ có quên
được không? Tôi thì nào có khác gì, cũng như họ vậy thôi vì mình
là con người mà! Trong vòng một tháng, áp lực địch xung quanh căn
cứ Cồn Thiên, A1 đã giảm. Địch rút về cố thủ quận Trung Lương gần
khu phi quân sự. Nhìn khắp vùng thì thấy rất yên bình nhưng đó là
biển lửa ngầm, toàn là hầm hố chiến lũy của VC được ngụy trang
rất kín đáo.
Trung úy Phạm Ngọc Hải thay Trung úy Nguyễn Lương Bích thuyên
chuyển đi đơn vị khác. Thiếu úy Tương vẫn ở hậu cứ lo việc tiếp
tế cho Chi Đoàn. Hành quân vẫn tiếp diễn dài dài, nay vùng đồng
bằng, mai vùng đồi núi, bữa nọ trên những cồn cát dọc theo biển.
Một lần sau cuộc hành quân, trên đường về, một xe trong chi đội
của Võ Văn Kiệt bị mìn. Kiệt đang điều động kéo thì bị VC pháo,
một mảnh đạn ghim vào đùi đứt động mạch chủ nên phải cưa chân.
Tám thằng về đơn vị nay còn 7. Một lần khác, Chi Đoàn tiến chiếm
mục tiêu trên vùng đồi cát gần biển, một đứa cùng khóa mà tôi
không nhớ tên bị VC pháo làm cát văng vào mặt đui luôn cả hai con
mắt. Tám thằng nay còn 6. Đỗ Đình Du qua chi đội khác, tôi lên
làm chi đội trưởng chi đội 4.
Mùa mưa ở vùng địa đầu giới tuyến thì
đồng ruộng quận Trung Lương ngập nước như vùng Đồng Tháp Mười
trong miền Nam, mực nước tuy không cao lắm nhưng cũng đến 1/3 xe.
Trên các vùng đất cao VC thiết lập nhiều công sự phòng thủ kiến
cố, gây nhiều khó khăn cho quân ta. Thanh toán xong đơn vị này
thì đơn vị khác của VC đến thay thế vì ta không đủ quân để giữ
nên cứ phải đánh đuổi VC hoài. Có lần một chiếc M113 bị trúng mìn
VC dưới ruộng nước văng cả giàn xích vào trong xe làm chết tài xế
và xạ thủ đại liên 30. Đến mùa khô nhìn thấy những quả mìn nổi
lên giữa những lằn xích xe mà phát ớn lạnh.
Được tin tình báo VC đưa quân về chiếm
thôn Phú Hậu, Chi Đoàn được lệnh hành quân cấp tốc đánh đuổi và
giải vây. Đánh đến chiều thì chiếm lại thôn Phú Hậu. Hơn 60 xác
VC được xếp thành hàng cùng vũ khí. Chi đội tôi thu được một
thượng liên, một súng cối 61ly. Trung tá Vũ Văn Giai, Trung Đoàn
Trưởng Trung Đoàn 2 đến thị sát ngay tại chiến trường. Đây là lần
đầu tiên tôi nhận được huy chương Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao
vàng.
Mùa này
có những ngày mưa dai dẳng không dứt, mong được nghỉ ngơi mà đôi
khi vẫn phải đi hành quân truy kích địch. Mùa mưa cũng mặc kệ, dù
cho có ướt như chuột lột cũng không thể choàng poncho vì quá
vướng, khó xoay xở trong lúc đụng trận.
Có nhiều lúc tôi thấy cái chết đến thật
dễ dàng mà cũng có khi thật khó. Trong một lần hành quân dưới cơn
mưa tầm tã, trước đầu xe một tên VC đang bò cách chừng 30 mét,
tôi bắn gần nửa thùng đạn đại liên 30 mà vẫn không trúng, đạn xỉa
xung quanh người hắn cho tới khi hắn lăn xuống giao thông hào rồi
bị bắt, đúng là số hắn chưa chết. Lần khác, một tên VC dưới hầm
vụt đứng lên dơ hai tay đầu hàng, tôi hô to đừng bắn mà không
kịp, một viên đạn đã trúng ngực làm hắn ngã xuống, đúng là hắn
tới số chết. Trong một cuộc hành quân vùng đồi núi, đang dàn hàng
ngang chuẩn bị tấn công, người xạ thủ đại liên 50 chỉ cho tôi và
nói VC kìa, tôi liền hô bắn nó, nhưng chưa kịp bóp cò thì người
xa thủ đại liên 50 này đã bị VC bắn trúng một viên vào đầu; nếu
người xa thủ đại liên 50 này đừng chỉ cho tôi mà cứ bắn trước thì
có lẽ đã không chết. Tiếc thương thay cho người lính trẻ của tôi!
Phải chăng con người sống hay chết đều do “Trời định”? Rồi Chi
Đoàn ồ ạt tấn công, trước hỏa lực áp đảo của quân ta VC buông
súng đầu hàng, hầm hố bị phá hủy, mục tiêu đã thanh toán xong.
Sau khi lục soát, Chi Đoàn phát giác một hầm chôn vũ khí, tịch
thu 2 cây đại bác 75ly không giật, 2 súng cối 82ly cùng nhiều
súng cá nhân khác.
Trung úy Hải đi học khóa Trung cấp TG,
Trung úy Mai Xuân Tương lên thay, Mai Tư Cường về hậu cứ lo tiếp
vận cho Chi Đoàn. Để rửa hận, VC cho đặc công cắt hàng rào phòng
thủ bò vào căn cứ C1 nhưng không may VC đụng trái sáng bật cháy,
Trung úy Tương điều động bắn dọc theo hàng rào phòng thủ tiêu
diệt gần trọn toán đặc công VC, chỉ còn một tên sống sót bị quân
ta bắt sống. Tháng 10/1968 Thiết Đoàn 7 KB đưa Chi Đoàn 3/7 sang
cải danh thành Chi Đoàn 3/11 thiết kỵ. Vậy là khóa tôi có thêm 5
thằng về Thiết Đoàn 11 gồm Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Đình Tuyên,
Nguyễn Văn Hồng, Trần Văn Quảng và Nguyễn Văn Tuyến.
Trung úy Tương qua làm Chi Đoàn Trưởng
3/11 thiết kỵ, Trung úy Nguyễn Thanh Ngãi từ Thiết Đoàn 4 ra thay
làm Chi Đoàn Trưởng 1/11 thiết kỵ. Chi Đoàn vẫn tiếp tục hành
quân truy kích VC ở phía Đông và Tây QL1. Những cuộc hành quân
càn quét vùng đồi núi phía Tây dễ chịu hơn vùng đồng bằng Gio
Linh, Trung Lương. Cứ một xe bị mìn dưới ruộng phải cần đến 4 xe
mới kéo nổi, lại còn phải điều động giải quyết thật nhanh để
tránh pháo kích của VC. Có nhiều lúc Chi Đoàn về đến căn cứ thì
đã gần nửa đêm. Nhờ có thêm Chi Đoàn 3/11 của Trung úy Tương mà
Chi Đoàn của tôi mới có thời gian để dưỡng quân. Chỉ khi nào phối
hợp hành quân lớn với các Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 2 BB thì CĐ
1/11 và CD 3/11 thiết kỵ mới cùng tham gia, chúng tôi mới có dịp
gặp lại vui mừng thăm hỏi nhau rối rít.
Trong cuộc hành quân Lam Sơn 250 vào
tháng 11/1968, xe của Đỗ Đình Du trúng B40 của VC không cháy
nhưng bị thương liệt tay phải. Tám thằng còn 5. Châu Phước Cơ (Võ
Bị Đà Lạt) ở BCH Thiết Đoàn ra làm Chi Đoàn Phó CĐ 3/11 thiết kỵ
cho Trung úy Tương bị trúng đạn gẫy xương vai. Khóa tôi lại thêm
2 thằng nữa giải ngũ. Rồi đến Phan Đình Ngân và Tôn Thất Nguyện
bị thương, sau khi xuất viện được thuyên chuyển về Thiết Đoàn 7
KB, Mai Tư Cường cũng trở về lại giáo chức, Trần Văn Xuân chết
đột ngột tại khách sạn khi đi phép. Đến cuối năm 1968, tám anh em
về thành lập chi đoàn 1/11 thiết kỵ đã ra đi, chỉ còn lại một
mình tôi. Tôi đã thầm nghĩ không biết chừng nào đến lượt mình
đây? Và, tôi tự trả lời “Mặc kệ tới đâu thì tới, lo nghĩ chi cho
mệt.”
Những
đàn em mới được bổ sung thì còn yếu, chưa đủ kinh nghiệm chiến
đấu với VC cũng như di chuyển ban đêm bằng địa bàn nên khi có
lệnh hành quân thì lúc nào Trung úy Ngãi cũng nhìn tôi, tôi hiểu
ý ông là muốn tôi tiếp tục đi đầu. Mìn chống chiến xa vùng Hỏa
Tuyến này đầy dẫy khắp nơi nên khi di chuyển xe nào cũng phải
chạy theo đường xích xe đi trước. Tôi đã bị mìn rồi nên có lẽ tôi
được “miễn nhiễm với mìn VC chăng?”. Dẫn Chi Đoàn đi lúc nào cũng
an toàn nên tất cả anh em trong đơn vị đều nghĩ là tôi “Có Bùa hộ
mạng”. Tôi chỉ cười mà nghĩ thầm “Hay không bằng Hên”.
Chi Đoàn 3/11 lại có sự thay đổi. Trung
úy Trần Văn Phước từ trường TG ra thay Trung úy Mai Xuân Tương về
lại BCH Thiết Đoàn. Hai Chi Đoàn thay nhau hành quân và phòng thủ
các căn cứ Cồn Thiên, A1, C1. Đầu năm 1969 Chi Đoàn 1/11 được
lệnh ra phòng thủ căn cứ A1 ở phía Bắc gần vùng phi quân sự. Tại
đây đứng trên nóc hầm có thể nhìn thấy được cầu Hiền Lương bắc
qua sông Bến Hải mờ mờ những khi trời trong, nắng đẹp. Tên cầu
thì hiền lương, mà Trung Lương thì hung dữ. Vì sao? Tôi chợt nhớ
lại lời ca trong bài hát “Thương Vùng Hỏa Tuyến” của nhạc sĩ Anh
Bằng: “Trung Lương ơi! Đây vùng phi chiến nay thành khu chiến từ
khi giặc tràn về...” mà thương cho những người dân tại vùng địa
đầu giới tuyến này phải chịu nhiều khổ đau mất mát.
Gần hết mùa Đông rồi mà trời vẫn còn
lạnh. Gió Bắc thổi hiu hiu làm lạnh buốt cả trong lòng, phải
chăng thiếu vắng một cái gì đó? Ờ, mà cũng sắp hết năm con Khỉ
rồi nhỉ. Có lẽ sang năm mình sẽ được về phép thăm nhà? Tôi cùng
anh em chi đội chuẩn bị đón cái Tết đầu tiên xa gia đình, phải
làm sao cho xôm tụ, phải có nồi thịt heo kho trứng, có bánh mứt,
có thêm bánh tét, bánh chưng nữa chứ... nhưng thôi với ánh nắng
đầu xuân cũng đủ làm ấm lòng người chiến sĩ tiền đồn rồi.
Chào mừng năm mới cũng qua mau, tôi lại
tiếp tục đùa giỡn với súng đạn với tử thần. Trong một trận chiến
đấu ác liệt với VC gần khu Phi Quân Sự, Chi Đoàn nghiêng mình
chào vĩnh biệt Chuẩn úy Nguyễn Văn Chiến, khóa đàn em, đã anh
dũng hy sinh trong chiến trận.
Hồn thiêng sông núi còn đây
Tay nâng cờ thắm phủ thây anh hùng.
Nhớ lại những lúc nhàn rỗi, Nguyễn Văn
Chiến thường cho tôi xem ảnh và đọc thư của người yêu, cô nữ sinh
duyên dáng trường Marie Curie, mà lòng bồi hồi thương cảm. Cũng
đã lâu không về phép nên tôi được đại diện Thiết Đoàn đi về Tây
Ninh thăm viếng và gửi lời chia buồn đến gia đình người bạn chi
đội phó của tôi.
2. Hạ Lào 1971 – Quảng Trị 1972:
Tháng 6/1969, Thiết Đoàn thành lập thêm
Chi Đoàn 1/11 chiến xa M41 do Đại úy Lê Đình Thức làm Chi Đoàn
Trưởng thì tôi được lệnh thuyên chuyển qua làm chi đội trưởng
1/1/11 CX. Chi Đoàn 1/11 thiết kỵ đổi danh thành Chi Đoàn 2/11
thiết kỵ từ đó.
Rời Chi Đoàn 2/11 thiết kỵ mà tôi đã
từng gắn bó với anh em binh sĩ từ ngày thành lập, đã từng trải
qua bao nhiêu gian khổ, sống chết có nhau ngoài chiến trường mà
lòng tôi bồi hồi xúc động khi phải đi đơn vị khác. Trong bữa cơm
chia tay cùng anh em trong chi đội, ai ai cũng rơm rớm nước mắt,
bịn rịn không nói lên lời. Rồi từ lúc chia tay đó, mỗi Chi Đoàn
một nơi, chúng tôi không còn có dịp gặp lại nhau một lần nào nữa.
Qua Chi Đoàn 1/11 CX, chi đội tôi được
biệt phái đi nhiều nơi, như giữ Thành Nội Huế, đêm giữ cửa An
Hòa, ngày thì ở cửa Thượng Tứ vừa làm bạn với những khẩu đại bác
thời xưa, vừa được nhìn ngắm các cô học sinh tha thướt trong bộ
áo dài trắng, thẹn thùng, e lệ kéo nón xuống che mặt khi thấy tôi
nhìn. Chỉ cần có những giây phút như thế cũng đủ cho mình thấy
vui vui. Ở Huế tôi được ăn đủ các món như bánh khoái ở cửa Thượng
Tứ, bún bò Mụ Rớt ở Gia Hội, bánh bèo ở Vỹ Dạ, chè ở bến Cồn,
v.v. Những ngày thư thả ấy cũng qua khi chi đội 1/11 CX có lệnh
tăng phái cho TQLC Mỹ đi hành quân phía Tây Huế, “thung lũng
AShau”. Nhờ vậy mà tôi biết Lăng Minh Mạng nằm giữa đồi thông cây
cao gốc to hơn một người ôm. Chi đội tôi đi qua cầu phao phà
Tuần, vòng theo núi qua căn cứ Birmingham, qua căn cứ Bastogne
của quân đội Mỹ. Những người lính Mỹ trong cắn cứ mừng vui vẫy
tay chào đón, đưa hai ngón tay hình chữ V chúc cho chúng tôi
chiến thắng, chi đội chúng tôi cũng hân hoan vẫy tay chào đáp
lại.
Tiếp tục
đi vòng theo đường núi đến vùng núi cao, cây cối rậm rạp, qua dãy
đồi núi này là tới thung lũng Ashau. Địa danh Ashau đã khắc sâu
vào tâm khảm những chiến sĩ anh dũng Sư Đoàn I Bộ Binh vì nơi đây
đã diễn ra nhiều trận chỉến ác liệt giữa liên quân Việt–Mỹ với
quân Bắc Việt. Tại đây có con suối nước trong vắt, mát lạnh rộng
khoảng 5 mét, nước chảy ào ào vòng theo chân núi, có chỗ nước sâu
hơn 1 mét, cá trắm cỏ nhiều vô số, chúng tôi đứng trên bờ đá lởm
chởm quan sát thấy cá hoảng loạn từng bầy tìm chỗ trốn. Anh em
binh sĩ phía trên ném lựu đạn, phía dưới dùng mùng hứng. Nhiều cá
quá phải làm khô, một số nấu cháo, lần đầu tiên tôi mới nhìn thấy
nồi cháo mà cá nhiều hơn gạo, ai thấy cũng thèm. Tôi mời cố vấn
Mỹ cùng ăn nhưng họ từ chối vì sợ mắc xương cá, cuối cùng nể tình
tôi lắm ông ta mới ăn một chén. Trong suốt cuộc hành quân chi đội
chỉ bố trí án ngữ trong rừng, nay vị trí này, mai nơi khác đề
phòng, sẵn sàng chiến đấu khi chiến xa VC xuất hiện.
Đại úy Lê Đình Thức có nhiệm vụ khác
nên bàn giao Chi Đoàn lại cho Đại úy Nguyễn Ngọc Thuận. Thời gian
này Chi Đoàn có nhiệm vụ yểm trợ cho ĐPQ đi bình định các thôn
làng sinh sống dọc theo ven biển. Không có cuộc hành quân nào
thoải mái bằng cuộc hành quân này, như một cuộc đi cắm trại. Khi
nóng nực thì Đại úy Thuận cùng tôi và hai Cố Vấn Mỹ xuống biển
đùa giỡn với những con sóng cao, đôi khi Trung sĩ William Kaizer
theo xem tôi bẫy con nhông bằng thòng lọng (loại tắc kè sống
trong hang trên đồi cát) về cùng Đại úy Thuận lai rai. Kết thúc
cuộc hành quân bình định Chi Đoàn trở về hậu cứ tại trại Tích
Tường (gần nhà thờ La Vang).
Đại úy Phan Văn Thức thay Đại úy Nguyễn
Ngọc Thuận về lại BCH Thiết Đoàn. Chi Đoàn lại tiếp tục hành quân
lục soát vùng đồi núi phía Tây quận Hải Lăng đi về hướng Bắc cho
đến La Vang kéo dài đến cả tháng, rồi lại tiếp tục qua các thôn
làng dọc theo biển cho đến cuối năm 1970.
Thừa lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu vào ngày 8 tháng 2 năm 1971, ta mở cuộc hành quân Lam Sơn
719 qua Lào để phá hủy các kho tiếp liệu của VC. Thiết đoàn 11KB
và Tiểu đoàn 8 Dù dẫn đầu đi theo QL9 qua Lao Bảo (biên giới
VNCH–Lào) tiến đến Tchépone. Tôi thay Trung úy Giỏ (Võ Bị Đà Lạt)
Chi Đoàn Phó ở lại hậu cứ qua phụ trách phân đội chỉ huy cùng Đại
úy Phan Văn Thức Chi Đoàn Truởng 1/11 CX, đi với Đại Đội Dù tùng
thiết của Đại úy Côn. Đến ngã tư đường mòn HCM và QL9 chi đội
1/11 CX của Thiếu úy Đáng được lệnh theo đường mòn HCM đi lên
hướng Bắc tăng phái cho Lữ Đoàn III Dù. Đoàn quân tiếp tục tiến
qua khỏi đường mòn HCM cách Tchépone 11 cây số thì VC chận đánh.
Thiếu úy Tô Dõng Hùng chi đội trưởng 2/1/11 CX bị thương, tôi qua
thay thế. Thiết Đoàn tạm dừng, đóng quân trong rừng bên phải QL9.
VC bắt đầu pháo kích dữ dội bằng hỏa tiễn 122ly và đại bác 130ly
vào vị trí đóng quân của Thiết Đoàn. Một xe súng cối M113 bị
trúng đạn pháo của VC nổ tung không còn xác xe lẫn xác người, chỉ
để lại một hố sâu như hố bom. Rồi đặc công VC bò vào định tấn
công BCH Thiết Đoàn và TĐ8 Dù thì bị phát giác, với hỏa lực của
TG và Dù toán đặc công chỉ còn sống 3 tên bị ta bắt làm tù binh.
Sau khi đồi 31 thất thủ, Đại úy Nguyễn
Văn Đương, pháo đội trưởng pháo binh Dù tử trận, Đại tá Nguyễn
Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng LĐ III Dù bị bắt, Chi Đoàn được lệnh đi
giải tỏa đồi 30 và đưa được chi đội 1/1//11 CX của Thiếu úy Đáng
phòng thủ căn cứ pháo binh Dù ở đồi 30 về an toàn. Xe của tôi bị
gẫy thanh uốn vặn nên tôi phải trở về chỗ tiếp vận và sửa chữa
của Thiết Đoàn để thay thế. Sửa chữa xong, chưa kịp trở về Chi
Đoàn để hành quân tiếp thì có lệnh lui quân. Tôi rút lui cùng
toán sửa chữa nên di chuyển ở đoàn quân phía trước Chi Đoàn. Con
đường QL9 rút lui về Lao Bảo thì nhỏ hẹp, một bên là núi, một bên
là rừng. Đoàn xe phải di chuyển theo một hàng dọc. Thứ tự di
chuyển thì Chi Đoàn 1/11 CX đi sau cùng. Quân ta rút theo chiến
thuật cuốn chiếu, ta rút đến đâu thì đơn vị án ngữ trên núi mới
rời vị trí nhập vào đoàn quân rồi rút đi tiếp. Đến trưa thì VC
bắt đầu pháo vào đoàn xe của Chi Đoàn rồi bộ binh VC đuổi theo
truy kích. Các anh em Dù ở phía sau ngăn chặn chống trả quyết
liệt và Đại úy Côn Đại Đội Trưởng Dù đã hy sinh.
Các xe phía sau hỗn loạn dồn cục lên
chật cứng. Quan sát thấy cảnh hỗn loạn đó tôi liền quay pháo tháp
ra phía sau và cho xe của tôi nép qua một bên đường để cho Chi
Đoàn 1/11 CX vượt qua còn tôi ở lại tiếp tục ngăn chặn VC truy
kích. Đoàn xe phía trước di chuyển rất chậm vì mắc kẹt con suối
cắt ngang QL9 rất sâu nên Lữ Đoàn buộc phải cho một xe M113 xuống
nằm ngang dưới khe suối để làm cầu cho đoàn xe vượt qua vì không
có thời giờ để bắc cầu mặc dù mỗi xe M113 đều có mang theo những
thanh nhôm công binh. Ở phía sau VC đuổi theo chạy ngờ ngờ trên
đường lộ thấy xe tôi chúng tấp sang hai bên lộ, núp trong rừng
tre tầm vông cách xe tôi không quá 20 mét. Tôi sử dụng đạn nổ đại
bác bắn xuống đường và hai bên rừng tre phía VC núp, còn đại liên
50 thì tôi bắn cầm chừng. Đoàn xe nhích từng chút một, tôi di
chuyển thì VC lại đuổi theo.
Thấy tôi xoay xở có một mình nên Binh
nhất (B1) Bùi Rọ trở lại leo lên xe tiếp tôi bắn cây súng M79
phía bên hông trái, còn tôi bắn cây đại liên 50 và súng M16 bên
hông phải. Thấy dùng đạn nổ không hiệu quả mấy vì rừng tre quá
dày nên tôi đổi sang bắn đạn chài mỗi khi VC ào ra xung phong.
Mải lo bắn phía trước và hông phải nên khi quay sang hông trái
thì không thấy B1 Bùi Rọ đâu nữa, tôi đành phải chiến đấu một
mình. Sau nhiều đợt xung phong không có hiệu quả, có lẽ bị tổn
thất quá nặng vì đạn chài nên không thấy chúng đuổi theo nữa. Đến
gần tối xa đội tôi mới về đến điểm tập trung của Lữ Đoàn trong
một cánh rừng cạnh QL9. Tôi mệt rã rượi, bước xuống xe thì mới
phát giác B1 Bùi Rọ đã nằm chết trên dè xe, còn chỗ tôi đứng thì
tiềm vọng kính bị bể nát, vết đạn làm trầy xước xung quanh pháo
tháp. Cả Chi đoàn đều ngậm ngùi thương tiếc một chiến hữu đã hy
sinh và cùng nguyện cầu cho hương hồn B1 Bùi Rọ sớm về an vui nơi
miền cực lạc.
Nghỉ một ngày, hôm sau chi đội tôi cùng một Trung đội Dù tiếp tục
mở đường về Lao Bảo. Đến khe suối chắn ngang đường thì bị các
chốt của VC từ trên núi bắn xuống. Chúng tôi không nhìn thấy VC
và cũng không biết chúng núp ở đâu nhưng vẫn phải bắn trả lại về
phía đó. Một lát sau tôi thấy nhói ở cánh tay trái, nhìn xuống
thấy có máu, biết mình đã bị thương, có thể do một mảnh đạn B40,
nhưng không sao vì tay vẫn còn cử động bình thường. Tôi báo cáo
về Chi Đoàn cho biết không thể qua suối được thì có lệnh rút lui
để máy bay đến dội bom.
Biết không thể theo QL9 về Lao Bảo được
và để tránh tổn thất Đại tá Nguyễn Trọng Luật Tư Lệnh Lữ Đoàn 1
KB quyết định bỏ lại một CX M41, cho nổ máy để nghi binh, đánh
lừa VC là quân ta vẫn còn ở tại chỗ, rồi mở một con đường mới đi
xuyên rừng về hướng Nam trong đêm đến sáng thì tới bờ sông
Tchépone. Mùa này nước sông Tchépone rất thấp, hai bờ sông dựng
đứng cần phải ủi cho thấp xuống thì thiết giáp mới qua được. Vì
bị thương và được tải thương bằng trực thăng trước nên tôi không
biết lúc nào ta mới có xe ủi đất để ủi hai bên bờ sông Tchépone
cho đoàn quân vượt qua sông (Sau này trong lần họp mặt của Hội Ái
Hữu TG Nam California tôi mới biết mọi việc xin xe ủi đất là do
KB Ngụy Gia ở Lữ đoàn phụ trách về không yểm lo liệu).
KB PHẠM HỮU PHƯỚC
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Đêm Thánh với muôn muôn vàn vì tinh tú... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Batkhuat Nguyen chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, December 3, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang