Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy bút
Chủ đề:
mùa chay thánh
Tác giả:
Lạc Việt
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Good Friday – Thứ Sáu Tử Nạn
Easter Sunday – Chúa Nhật
Phục Sinh Vinh Quang
Bây
giờ, Sử gia Gioan (John) dùng nhãn quan thần học và triết
học để viết cuốn sử sau cùng về Mầu Nhiệm Ơn Cứu Độ: “Đức
Ki–tô là Ngôi Lời của Thiên Chúa Cha,
Ngôi Lời đã Nhập Thể Làm Người và ở giữa
chúng ta, Ngôi Lời đã chịu chết lấy máu
mình rửa sạch tội Phản Nghịch Bất Trung của Loài Người và ký
lại Giao Ước Mới mang lại quyền làm Con Thượng Đế cho Loài
Người”. Ông là
Tông Đồ duy nhất không Tử Đạo chuyên lo viết Thánh Sử và
chăm sóc Mẹ Maria.
Vậy, Ngôi Lời là gì?
– Lời là Chân Lý
– Lời là Sự Sống
– Lời trong thế
giới hiện đại là Lề Luật – Luật Pháp
– Lời là Information
của vũ trụ
– Lời là DNA, Là Software, Là Thiết Kế Sự Sống
của muôn loài.
Nhờ “Ngôi Lời” mà muôn vật được tạo
thành. “Ngôi Lời” là Đức Giê–su Ki–tô, Ngôi Thứ Hai đồng bản
tính với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Linh.
1. Thiên
Chúa tạo dựng Con Người và Yêu Thương Loài Người
Lịch
sử Ơn Cứu Độ của Đức Giê–su, Con Thiên Chúa Hằng Sống đã mở
đầu 2 thiên niên kỷ Tân Ước (0001–2025 AD), thực ra đã bắt
đầu rất lâu từ nhiều Thiên Niên Kỷ trong Cựu Ước (–3000 BC).
Kể từ khi hai Ông Bà Nguyên Tổ, Adam–Eva, Tổ Phụ Loài
Người đã bất trung bất tín với Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng
tạo dựng vũ trụ và muôn loài từ hư vô. Hai Ông Bà đã mất
nghĩa cùng Thiên Chúa kéo theo con cháu Loài Người mất quyền
làm Dưỡng Tử của Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng, Từ Bi, và Nhân
Hậu.
Thiên Chúa tuy vậy vẫn rất yêu thương Loài
Người. Vì Thiên Chúa đã dựng nên Loài Người mang hình ảnh
Ngài, một Loài kết nối giữa Thần Thiêng và Vũ Trụ Vật Chất.
Từ Tình Yêu đó, Ngài đã ra kế hoạch cứu vớt Loài Người để
Giao Hòa lại cùng Thiên Chúa và ban lại quyền Làm Con Thiên
Chúa cho Loài Người.
Để thực hiện ý định tràn đầy
tình Cha Con đó giữa Thiên Chúa và Loài Người, Ngài đã chọn
một dân riêng để tôi luyện họ, đó là dân Do Thái (Jewish,
Israel).
Khởi đầu từ Abraham khoảng –1996 BC. Ông
sinh sống tại vùng Iran Iraq ngày nay (thời Adam–Eva, Vườn
Địa Đàng tọa lạc tại vùng này). Ông là người tin tưởng tuyệt
đối vào Một Thiên Chúa Yahweh Toàn Năng, chính Người đã tạo
dựng nên Con Người, Vũ Trụ, và Muôn Loài. Abraham được coi
là Tổ Phụ của người Do Thái, Tổ Phụ của tất cả những ai Tin
Thờ Một Thiên Chúa Yahweh (Gia–vê).
2. Dân Do Thái và
Đất Hứa tại Trung Cận Đông
Dân Do Thái tiếp tục phát
triển, gia tăng dân số trên vùng đất Trung Cận Đông và luôn
phải chiến đấu để sinh tồn trên một vùng đất rất nhiều biến
động về văn hóa, tôn giáo, và quyền lực. Duy chỉ có một điều
luôn gắn kết với họ là niềm tin vào Thiên Chúa Yahweh của
họ.
Chúng ta biết Trung Cận Đông là vùng đất sa mạc
hay bán sa mac. Khoảng thế kỷ 16 trước Công Nguyên, Dân Do
Thái đã phải lưu lạc sang Ai Cập để tránh nạn đói. Họ là một
dân tộc rất thông minh, cần cù, và nhẫn nại, nên các vua
Pharaon đã tuyển chọn họ xây dựng các đền đài tráng lệ cho
cung điện hay các Nhà Mồ Kim Tự Tháp hùng vĩ.
Lâu
dần, các Pharaon đã biến dân Do Thái thành đám dân Nô Lệ. Áp
dụng kỷ luật sắt để bóc lột sức lao động. Giết các con trai
đầu lòng của các gia đình Do Thái để khủng bố tinh thần. Tuy
vậy, trong số trẻ bị giết, có một bé được mẹ bỏ vào một cái
thúng và cho trôi trên sông Nile, với hy vọng mong manh nó
được sống sót. Cơ duyên may, đứa trẻ lại được công chúa Ai
Cập vớt lên làm con nuôi và đặt tên là “Moses”, có nghĩa là
“Vớt Lên Từ Nước”.
Moses lớn lên và trở thành Hoàng
Tử trong Triều Pharaon Ai Cập và đứng đầu điều hành nhiều
công trình xây dựng vĩ đại. Tuy vậy, sau này mẹ ruột cũng
kín đáo nói cho Moses biết về tông tích Do Thái của mình. Có
một lần Ông thấy một người Do Thái bị một đốc công Ai Cập
đánh đập tàn nhẫn, Ông nổi nóng giết người đốc công đó và bỏ
trốn khỏi hoàng cung.
Trên bước đường lưu lạc về vùng
đất mà trước đây người Do Thái đã từng cư ngụ. Ông Moses
được Đức Yahweh hiện ra trong một ngọn lửa cháy trong bụi
gai.
Moses cất tiếng hỏi:
Thưa Ngài, Ngài là
Ai? who are you?
Có tiếng đáp lại:
I am who I
am (Ego sum qui sum)
Có nghĩa “Ta là Ta – Ta
Là Đấng Tự Hữu.”
3. Ông Moses giải phóng Dân Do Thái khỏi kiếp
nô lệ Ai Cập
Sau đó Ngài đã ban lệnh cho Ông Moses
mau trở lại Ai Cập, lãnh đạo đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập,
ra khỏi Kiếp Nô Lệ và đưa dân vào vùng Đất Hứa Ta sẽ chỉ
cho.
Moses vâng lệnh Thiên Chúa trở lại Đất Ai Cập,
nói thẳng với Pharaon về gốc tích Do Thái của mình và đề
nghị Pharaon cho dân Do Thái được Tự Do để về miền Đất Hứa
mà Thiên Chúa đã hứa ban cho. Tất nhiên Pharaon nào chịu, Do
Thái ra đi ai sẽ tiếp tục xây dựng các công trình đồ sộ như
từ trước tới nay.
Với chỉ một cây gậy trong tay như
một kẻ chăn chiên, Moses nhất định vâng lời Đức Yahweh tập
hợp Dân Do Thái để chuẩn bị lên đường... (cây gậy sau này
gọi là Vương Trượng, là biểu tượng trách vụ của các Giám
Mục, Giáo Hoàng, kể cả vua chúa ngoài đời).
Sau rất
nhiều phép lạ mà Moses thực hiện trước mặt Pharaon và các
quần thần, tuy vậy các Pháp Sư Ai Cập đều hóa giải được nên
Pharaon kiên quyết dùng quân đội để đàn áp và giải tán không
cho dân Do Thái ra đi.
Giải pháp sau cùng, Moses cảnh
báo Pharaon là nếu không cho dân Do Thái ra đi tự do, một
tai ương khủng khiếp sẽ xảy ra là các con đầu lòng của các
gia đình Ai Cập sẽ bị giết. Tai ương khủng khiếp này làm Vua
Pharaon và toàn dân Ai Cập kinh khiếp và Pharaon đã làm lơ
để dân Do Thái ra đi...
4. Phép lạ vĩ đại giúp Dân Do
Thái vượt qua Biển Đỏ
Riêng dân Do Thái thì được báo
động: mọi người phải sẵn sàng lên đường nội trong đêm nay,
lưng thắt đai, tay mang gậy. Mỗi một hay hai gia đình chung
nhau giết một chiên con, lấy máu chiên bôi lên cửa để Thiên
Sứ tránh xa không giết con đầu lòng. Ăn thịt chiên với bánh
không men và rau đắng. Ăn xong, tạ ơn Thiên Chúa và họ rầm
rập lên đường ngay trong đêm.
Vài ngày sau Pharaon
lại tiếc đám lao nô Do Thái nên đổi ý, bèn kéo toàn lực
lượng binh mã đuổi theo. Chẳng bao lâu đạo quân Ai Cập đã
đuổi kịp dân Do Thái. Thiên Chúa bèn cho đám lửa chận đoàn
quân Ai Cập giúp Dân Do Thái ô hợp tiến bước. Cuối cùng họ
đã thoát đến bờ Biển Đỏ và quân Ai Cập thì đang rầm rập đuổi
theo.
Nhưng làm sao qua biển đây? Môisen có vẻ thất
vọng nhưng cũng vẫn van nài Thiên Chúa cứu giúp, và Ông đã
giơ cây gậy lên, Biển Đỏ bỗng rẽ ra một lối đi cho dân Do
Thái chạy qua, nhưng đồng thời Đạo Quân Ai Cập cũng chạy bám
theo. Khi dân Do Thái đã thoát ra khỏi biển, Ông Moses hạ
cây gậy xuống và nước biển ập lại chôn vùi đạo binh thiện
chiến của Pharaon.
Bài Ca Xuất Hành
Vang
lên muôn lời ca
Ta ca ngợi Chúa
Vì uy danh Người cao
cả
Chiến mã với kỵ binh
Người đã quăng chìm dưới
biển...
nghe nhạc:
5. Bốn mươi năm
tôi luyện trong hoang mạc
Thoát khỏi sự cai trị của người Ai Cập, đường đi đến Đất
Hứa cũng mịt mờ sỏi đá hoang mạc. Vừa đi vừa chăn nuôi súc
vật, lang thang như vậy suốt 40 năm. Dân Do Thái thông minh
ưa nổi loạn, nhiều lần kêu ca cùng Moses và Thiên Chúa sao
bỏ rơi họ trong hoang mạc. Thiên Chúa đã lắng nghe và nuôi
họ bằng bánh Manna từ trời rơi xuống.
Khi Ông Moses
được Thiên Chúa gọi lên núi để ban cho Ông Bản Lề Luật, tức
là 10 giới răn, nó cũng là Giao Ước giữa Thượng Đế và Con
Người. Ngày nào các Ngươi giữ Lề Luật này, Giao Ước này, Dân
Tộc ngươi sẽ hùng mạnh và ta sẽ luôn bảo vệ các Ngươi.
Luật đầu tiên: Các Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên
Chúa các Ngươi hết lòng hết sức. Ngoài ra không được tôn thờ
một ngẫu tượng nào khác. (chữ tôn thờ ở đây là “adorer” giữa
thụ tạo và đấng sáng tạo. Người Việt cũng thường dùng chữ
tôn thờ nhưng có nghĩa là tôn kính “respectus”)
Ngay
khi Ông Moses xuống núi với 10 giới răn, thì thấy dân Do
Thái đã đúc một Con Bò bằng vàng rồi đang nhảy múa, sùm sụp
thờ lạy, barbecue [nướng thịt] ăn uống tưng bừng! Ông giận
tím mặt... (Sau này dân Do Thái lập Hòm Giao Ước và để trong
nơi cực trọng của Đền Thờ Jerusalem trong đó gồm có 2 bia đá
khắc 10 Giới Răn, Cây gậy của Moses, và bánh Manna từ Trời).
Các Quốc Phụ Hoa Kỳ đã am tường Lề Luật và Giao Ước này
nên khi lập quốc, bản Hiến Pháp Hoa Kỳ cũng thấm nhuần Giao
Ước giữa Thượng Đế và Người Dân Hoa Kỳ. Âm vang Giao Ước vẫn
tiếp tục vang vọng: Ngày nào Hoa Kỳ giữ Lề Luật Giao Ước này
Hoa Kỳ sẽ trở nên hùng cường. Ngày nào Hoa Kỳ rời xa Giao
Ước này, ngày đó Hoa Kỳ sẽ bị quân thù xâu xé...
Chúng ta có thể kiểm nghiệm xã hội Hoa Kỳ ra sao sau khi Hoa
Kỳ đã trải qua các triều đại gần đây vô thần và cực tả...
Tinh thần Cộng Hòa Pháp Trị bị chế giễu, Dân Chủ Mị Dân lên
ngôi... May thay, năm 2025 ngài Donald Trump đắc cử TT Hoa
Kỳ thứ 47, TT Trump quy tụ một nội các có một không hai
trong lịch sử đầy đủ trí huệ nhất quyết thực hiện cuộc cách
mạng xã hội tiến bộ trong công lý & sự thật... xóa bỏ tiến
trình vô thần hóa nhằm đưa Con Người & Vật Chất lên ngôi
Thượng Đế mà con người đã cố gắng xây dựng từ khoảng 6 thế
kỷ nay.
6.
Mô Hình Cộng Hòa Pháp Trị
Trong thời gian đằng đẵng tiến về Đất Hứa, dân Do Thái
đã tăng dân số nhanh, đoàn vật cũng sinh sôi nảy nở. Cuộc
sống sinh tồn có nhiều va chạm. Ông Moses làm quan án, làm
lãnh đạo, điên đầu giải quyết mọi chuyện. Ông bố vợ Moses
thấy vậy bèn hiến kế cho Moses: hãy đoàn ngũ hóa dân lại: cứ
5 gia đình thành một Tổ, họ chọn lấy Tổ Trưởng, 5 Tổ hợp lại
thành Xóm, họ chọn lấy Xóm Trưởng. 5 Xóm thành Làng, 5 Làng
thành Tộc, 5 Tộc thành Tỉnh, etc
[v.v.].
Như vậy Con sẽ có nhiều người cùng làm việc với Con, tùy
theo cấp độ, họ sẽ giải quyết phần lớn công việc... Còn Con
sẽ thảnh thơi hơn lo việc với Thiên Chúa.
Biến cố này
đã tạo ra một mô hình Cộng Hòa, chia sẻ quyền lực, lấy Dân
làm gốc là mô thức tiến bộ của Nhà Nước mới về Quản Trị Công
Quyền. Quản Trị Công Quyền nền Cộng Hòa có hình Tam Giác.
Trên là Đỉnh Đại Diện và Đáy là các Tổ của Dân. Mỗi Tầng có
quản trị riêng trong cái chung là Lề Luật là Hiến Pháp, là
10 giới răn nên ta cũng gọi nền Cộng Hòa này là Dân Chủ Đáy
Tầng (Grass Root Democracy), nghĩa đen lấy Dân làm gốc, do
Dân, cho Dân, và vì Dân. (Không phải Dân Chủ giả hiệu như
ngày nay: Sự tha hóa lên ngôi và gói ghém trong vỏ bọc
đường: DEI, Dân Chủ, Tiến Bộ, Thức Tỉnh, Nữ Quyền, Quyền
Giới Tính – Nghe rất hấp dẫn nhưng nội dung hoàn toàn ngược
lại)
Nền Cộng Hòa Dân Chủ Đáy Tầng này đã thể hiện
rất rõ nét trong nền Quản Trị Công Quyền của Hoa Kỳ và các
nước Dân Chủ thực sự pháp quyền trên thế giới.
Viết
đến đây, Lạc Việt chợt nghĩ tới Cộng Đồng Bách Việt trong
nền Văn Minh Lúa Nước tại bờ Nam Sông Dương Tử – Ngũ Lĩnh –
Sông Hồng cách đây trên dưới 5000 năm. Họ đã có Thôn, họ đã
có Làng, họ đã có Xã, họ đã có hàng Trăm Tộc tự quản, và họ
đã có Nước Văn Lang Vua Hùng mà gần 3000 năm xây dựng phát
triển trong hòa bình hầu như không có tranh danh đoạt lợi.
Lề Luật là kính trời, tôn thờ tiền nhân, kính trọng Anh
Hùng Liệt Nữ. Yêu Con Người, Yêu Đất, và Yêu Nước. Tôn trọng
quy luật Đất Trời, thuận theo Âm Dương Ngũ Hành. Thông qua
truyền khẩu ca dao tục ngữ. Lề Luật đã ăn sâu trong lòng dân
giúp thăng hoa mệnh Nước. Hiểu như thế trong lịch sử chúng
ta đã có nền Cộng Hòa Liên Bang Bách Việt ngay từ ngày lập
quốc –2879 BC đến thời Trưng Nữ Vương (+43 AD).
Ngày
ấy đến nay đã trải qua 4904 năm lịch sử. Chỉ có thể qua nền
Cộng Hòa Liên Bang Bách Việt chúng ta mới có thể giải thích
được tại sao Trưng Nữ Vương (từ năm 30 đến năm 43) có thể
điều động binh lực và truyền hịch đến khắp vùng đất bao la
của Bách Việt từ bờ Nam sông Dương Tử – Hồ Bắc Hồ Nam qua
vùng Ngũ Lĩnh sông Tương Quảng Đông Quảng Tây, và xuôi Nam
đến vùng Sông Hồng Vịnh Bắc Bộ cùng đứng lên Tổng Khởi Nghĩa
chống quân Đông Hán xâm lược và đã đại thắng, và đặt tên
nước là Lĩnh Nam. Nước Lĩnh Nam thời Trưng Đại Đế tương
đương với Nước Văn Lang của các Vua Hùng trước đó.
7. Lễ Vượt Qua – Pass Over
– Easter Sunday
Để nhớ đến biến cố trọng đại thoát kiếp nô lệ này, dân
Do Thái hằng năm làm Lễ Tưởng Niệm Lễ Vượt Qua – Pass Over
như lúc chuẩn bị Lên Đường để nhắc nhở con cháu dù ở đâu hay
thời đại nào luôn nhớ mình là Dân của Chúa, đã được Ngài yêu
thương giải thoát khỏi kiếp nô lệ Ai Cập, vượt Biển Đỏ, và
đưa vào miền Đất Hứa. (Hoa Kỳ và Canada kỷ niệm biến cố này
trong ngày Chủ Nhật Easter Sunday. Năm nay CN April 20,
2025)
Khi gần đến Đất Hứa, Ông Moses đã rất cao tuổi,
Ông đứng trên ngọn núi phía đông Biển Chết nay là xứ Jordan
nhìn Dân Do Thái tiến qua Biển Chết mà vào Đất Hứa (Biển
Chết rất nhỏ và nông cạn). Riêng Ông bị Thiên Chúa sửa phạt,
không được vào Đất Hứa vì khi tới Biển Đỏ, lúc đó quân thù
đuổi theo, ông đã tỏ ra thất vọng, thiếu tin tưởng vào quyền
năng của Đức Yahweh.
Dân Do Thái vào Đất Hứa là đất
Canaan và Judea sát bờ Địa Trung Hải. Phía Bắc có Biển Hồ
Galilea, nơi quê hương Chúa Giê–su và của đa số các môn đồ
làm nghề đánh cá. Biển Hồ Galilea có sông Jordan chuyển nước
xuống phía Nam vào Biển Chết, biển này có độ muối bão hòa
nên chẳng có sinh vật nào sống nổi, chưa kể mặt nước Biển
Chết thấp hơn mực nước đại dương đến hơn 250 mét do nước bị
bốc hơi suốt nhiều thiên niên kỷ. Ngay cả Sông Jordan là nơi
ông Gioan Tiền Hô làm phép rửa ngày xưa hùng vĩ bao nhiêu,
ngày nay cũng chỉ như một con suối. Phía Nam có thành thánh
Jerusalem là tâm điểm Tôn Giáo và Nhà Nước Israel, gần đó có
Bethlehem nơi Chúa Giê–su sinh ra trong thời điểm Kiểm Tra
Dân Số của đế quốc Roma thực hiện.
Đền Jerusalem 2nd
huy hoàng tráng lệ thời Chúa Giê–su 33AD đã được Vua Syrus
đế quốc Ba Tư xây dựng (–515 BC) sau khi Ông thắng đế quốc
Babylon và cho người Do Thái trở về quê hương sau 70 năm lưu
đày tại Babylon. 30 năm sau vào năm 63–70AD Đền Thờ
Jerusalem 2nd đã bị đế quốc Roma san bình địa khi đế quốc
Roma chinh phạt Dân Do Thái nổi loạn đòi Độc Lập. Đúng như
lời tiên tri của Đức Giê–su đã nói với các môn đồ khi các
ông khen “Đền Thờ thật
Tráng Lệ”:
“Rồi sẽ có ngày không
còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”.
Kể từ đây – năm 63–70AD, để trừ hậu họa, đế quốc Roma đã
lưu đày biệt xứ người Do Thái đi các vùng khác nhau trong
biên địa của đế quốc Roma. Thế kỷ thứ 6, Hồi Giáo được
Mohamet thiết lập dần dà thành nhà nước Hồi Giáo lớn mạnh và
cực đoan chiếm đoạt vùng Trung Cận Đông, xây dựng đền
Jerusalem có mái mạ vàng cho người Hồi Giáo hiện nay. Năm
1948 sau Đệ Nhị Thế Chiến, Do Thái tái lập Quốc Gia Israel
trên lãnh địa cũ của họ nhưng người Palestine đã cư ngụ ở
đây suốt 2000 năm nay. (Đó cũng là lý do xung đột luôn xảy
ra giữa người Israel và người Ả Rập suốt từ ngày Israel tái
lập quốc gia vào năm 1948 đến hôm nay – cuộc chiến đẫm máu
Giữa Israel và Hamas) Đền Jerusalem thiêng liêng của Người
Do Thái đã bị Hồi Giáo chiếm đoạt. Tuy vậy sau các cuộc
chiến “long trời lở đất” vào giữa thế kỷ 20. Do Thái đã
chiếm lại nhiều vùng đất của Tổ Tiên và 1/2 Thánh Địa
Jerusalem. Mãi đến cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 TT Donald
Trump mới thực thi việc công nhận Jerusalem là thủ đô của
Israel và ra lệnh dời Đại Sứ Quán Hoa Kỳ từ Tel Aviv về
Jerusalem. Lệnh này gây chấn động toàn cầu vì thế giới sợ
lệnh này sẽ kích hoạt thùng “Thuốc Nổ Trung Đông”. Nhưng
cuối cùng thế giới Ả Rập và Hồi Giáo vẫn im re... Chính phủ
Do Thái cho in đồng tiền vàng có hình Đại Đế Curus và TT
Donald Trump trong dịp này với niềm tin rằng TT Trump là vị
Đại Đế của thế kỷ 21 sẽ là tác nhân quan trọng xây dựng Đền
Jerusalem 3rd cho dân tộc Do Thái...
Thời Chúa
Giê–su, Do Thái bị cai trị bởi đế quốc Roma do quan
Phi–la–tô [làm]
Tổng Trấn cả vùng Judea, Canaan (cả Jordan, Judea, Syria
ngày nay). Dân Do Thái ngày đêm mong chờ đấng Cứu Thế như
các Ngôn Sứ (Tiên Tri) đã từng rao truyền và được ghi lại
trong Cựu Ước kể từ khi ra khỏi đất Ai Cập trong khoảng 1500
năm liên tục. Năm – 500 BC, Ngôn Sứ Isaia đã nói rất rõ về
Đấng Cứu Thế sẽ ra đời tại vùng Bethlehem.
8. Đức Giê–su chết ô nhục
trên Thập Tự thiết lập Giao Ước mới giữa Thượng Đế và Loài
Người
Rồi đúng như lời Ngôn Sứ chép, Con Trẻ Giê–su đã chào
đời tại hang cỏ chiên lừa vùng Bethlehem. Các nhà thông thái
phương Đông xem thấy sao lạ đến chào bái vị Vua mới sinh.
Tin này đến tai vua Herode, vị vua bản địa bù nhìn Do Thái
quyết âm mưu giết Hài Nhi Giê–su. Ông Bà Giu–se Maria nghe
lời Thiên Sứ bí mật đem con đi “Tỵ Nạn Chính Trị” tại Ai
Cập, nơi mà dân Do Thái làm nô lệ trước đây. Chúng ta thử
tưởng tượng gia đình hài nhi Giê–su gian truân đến cỡ nào.
600–800km đi đường bộ qua vùng sỏi đá bán sa mạc. Để trừ hậu
họa vị Vua mới, Herode cho quân binh dưới quyền giết sạch
các trẻ trai dưới 2 tuổi toàn vùng Bethlehem.
Sau khi Herode băng
hà, Thiên Sứ lại báo tin và 2 Ông Bà đem con trẻ Giê–su về
quê quán cũ là làng Nazareth gần Biển Hồ Galilea miền Bắc
nước Do Thái. Ngài theo Cha làm nghề thợ mộc, học hỏi Thánh
Kinh Cựu Ước. Năm 30 tuổi Ngài thu nạp các môn đồ và đi rao
giảng:
“Nước Trời đã gần kề, các Người hãy ăn năn sám
hối”.
Ngài làm nhiều phép lạ để củng cố niềm tin của
các môn đồ và quần chúng.
Trọng tâm, Ngài giảng về
Thiên Chúa Cha đầy lòng nhân từ và yêu thương Loài Người.
Nhiều lần Ngài tự xưng mình là “Con Người – The Man” và “Con
Thiên Chúa – The Son Of God”. Ngài bảo: chúng ta có cùng một
Cha trên Trời “Lạy Cha chúng con ở trên Trời...” nên chúng
ta là anh em cùng một Cha, vậy hãy yêu thương nhau như Cha
trên Trời đã yêu thương chúng ta... Đôi lần Ngài hé lộ với
các môn đệ mình là “Đấng Cứu Thế – Đức Ki–tô – Đấng Christ”,
Đấng mà các ngôn sứ đã nói trong Thánh Kinh.
Do có
quyền năng làm nhiều phép lạ: kẻ mù được thấy, kẻ điếc được
nghe, kẻ bại liệt đứng dậy đi lại, thậm chí Lazaro em trai
Martha và Maria đã chết 4 ngày đã được Ngài cho trỗi dậy
[sống lại]. Các Môn đồ và dân chúng theo Ngài rất đông và
đinh ninh rằng Ngài là vị cứu tinh Dân Tộc đã đến để đưa dân
Do Thái khỏi kiếp nô lệ đế quốc Roma.
Ngài nổi đình
nổi đám bao nhiêu thì quan quyền và giáo quyền Do Thái ghen
tức Ngài bấy nhiêu và quyết ra tay hạ gục ngài. Họ kháo
nhau: “Kìa xem, quần chúng theo tên Giê–su cả rồi.” Tuy vậy
quan quyền Do Thái không có quyền kết án ai tử hình. Quyền
kết án tử thuộc đế quốc Rô–ma thông qua quan Tổng Trấn
Phi–la–tô.
Họ tìm cách gài bẫy Ngài: “Ta có phải nộp
thuế cho Cesar không”. Câu trả lời thật khó vì “Yes” hay
“No” họ đều kết án Ngài được. Ngài thoát dễ dàng: Đưa ta xem
đồng tiền – Hình ai trên này. Hình Cesar. Ngài bảo: Của
Cesar trả cho Cesar, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa. Ngày
nay: Của Dân Trả Cho Dân. Cái đám vỗ ngực mình Vô Sản Chuyên
Chính thì trả cái “Chuyên Chính Vô Sản” cho họ... Nhưng đám
quan quyền VC ngày nay chẳng có thằng nào “vô sản” cả...
toàn tham nhũng và tham nhũng cả ngàn tỷ...
Cuối cùng
nhóm quan quyền và giáo quyền Do Thái toa rập nhau cáo gian
Ngài tự xưng làm vua và xúi dân Do Thái nổi loạn. Họ mượn
tay đế quốc Roma, kẻ thù của Dân Tộc Do Thái để hại Ngài.
Họ cáo gian và giao nộp Ngài cho quan Phi–la–tô. Quan
này có bà vợ nghe xầm xì về nhiều sự lạ Chúa Giê–su đã làm
nên ghé tai nói nhỏ: “Ông phải coi chừng đấy, Ông Giê–su có
nhiều quyền phép và chẳng có tội gì đâu. Bọn họ ghen tức ông
ta, nên mượn tay ông để giết người vô tội”.
Phi–la–tô
biết vậy nên nhiều lần tỏ ý muốn đánh đòn tượng trưng rồi
tha Ngài (có khi Phi–la–tô hy vọng Ngài làm vài phép lạ xem
sao...). Nhưng quan quyền & giáo quyền Do Thái hình thành
ngay “tòa án nhân dân – kiểu CCRĐ” cùng la lớn: “Tên Giê–su
tự xưng làm vua, nếu quan tha thì quan không phải là trung
thần của Cesar”. Nghe thế Phi–la–tô xây xẩm mặt mày: Tha
Giê–su thì mình... có thể chết đành kết án Chúa Giê–su tử
hình. Trước công đường ông rửa tay tuyên bố: “Ta vô tội về
máu Người này đổ ra...”.
Hôm đó là ngày Thứ Sáu năm
33AD, Ngài phải vác cây Thập Tự khá nặng leo dốc lên khu
pháp trường gọi là Núi Sọ Golgotha, ngoại thành Jerusalem.
Ngài bị đóng đinh trên cây Thập Tự, trên đỉnh có ghi bản án
bằng 3 thứ tiếng INRI (Jesus Nazareth Rex of Judea – Giê–su
Nazareth Vua Do Thái) (trong tiếng cổ La–Hy I và J là một)
cùng với hai người tử tội khác. (Theo nhiều film hiện đại họ
cho rằng hai tử tội này chính là kháng chiến quân Do Thái đã
nổi loạn chống đế quốc Roma, chứ chẳng phải tội cướp bình
thường).
Hình phạt đóng đinh tội nhân treo trên cây
thập tự là hình phạt rất tàn ác và nhục nhã nhất của đế quốc
Roma. Quan quyền thấy bản án ghi vậy bèn tâu Phi–la–tô: “Tên
Giê–su không phải là vua dân Do Thái mà hắn tự xưng là Vua
dân Do Thái”. Phi–la–tô sẵn bực mình quát lớn “What I wrote,
Written” – “Những gì Ta viết là đã viết”. Câu này lâu nay đã
trở thành phương châm kinh điển của cấp trên khi ra lệnh...
Chúa Giê–su chịu án Tử Hình trên cây Thập Tự vào ngày
Thứ Sáu, Ngài chết để làm lễ Giao Hòa giữa Loài Người và
Thiên Chúa. Máu Ngài đổ ra để hoàn tất một Giao Ước Mới, một
Tân Ước hoàn chỉnh thêm Cựu Ước từ thời Moses (một Tu Chính
Án), đó là: “Mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, sau
lại yêu Người như mình ta vậy! Amen”.
Để tưởng nhớ
biến cố Giao Ước Mới này, các nước Ki–tô Giáo (Christian)
dành riêng một ngày tưởng niệm gọi là: Good Friday – Thứ Sáu
Chịu Nạn. Hiện tại năm 2025 AD, Nhân Loại cũng đang trải qua
cuộc khổ nạn của chiến tranh trên khắp mặt địa cầu. Nhân
loại đã bị kết án Tù Chung Thân hay Tử Hình do lòng ghen
tương đầy oán khí của tập đoàn Ác Gian Ác Đảng, và được
tiếp tay bởi Thế Lực Ngầm XHCN Dân Chủ Mị Dân Vô Thần Lường
Gạt.
Nhân Loại bị kết án tử hình hoặc án tù tập thể
với quy mô toàn cầu nên có đủ thời gian suy ngẫm về một Giao
ước Mới: “Con Người sinh ra có quyền Tự Do – Bình Đẳng, và
có quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc cho chính mình trong Công Lý và
Sự Thật”. Giao Ước này phù hợp với Giao Ước của Yahweh.
Có lẽ từ cuối thiên niên kỷ thứ 2 sau Công Nguyên, Hoa
Kỳ do các Quốc Phụ Hoa Kỳ thiết lập, có bản Hiến Pháp là kết
tinh của hai Giao Ước cũ và mới. Từ đó Hoa Kỳ đã từ từ thay
thế vai trò của dân Do Thái. Và rồi Lời Thượng Đế phán với
Moses lại vang vọng rõ ràng hơn: “Ngày nào Hoa Kỳ rời xa
Giao Ước này, Hoa Kỳ sẽ bị Quân Thù xâu xé”... và hình như
Hoa Kỳ đang bị xâu xé thực từ Thù Trong tới Giặc Ngoài...
Bất ngờ năm 2025, TT Donald Trump xuất hiện như một vị Thiên
Sứ. Ngài vung lưỡi gươm Thần Khí tả xung hữu đột vào ma trận
Đầm Lầy của chủ nghĩa CS đội lốt XHCN Dân Chủ và đưa xã hội
Hoa Kỳ trở lại quỹ đạo “Nền Văn Minh Tư Bản Ki–tô Giáo –
Giao Ước giữa Thượng Đế và Người Dân Hoa Kỳ”.
Vào
chiều Thứ Sáu ngày 14 tháng Nisan năm 33AD, Chúa Giê–su chịu
án Tử Hình trên đồi Golgotha (Núi Sọ ngoại thành Jerusalem).
Dù Chúa Giê–su đã chết, nhưng 2 tên “Trộm” cũng bị đóng đinh
ở 2 bên chưa chết. Mà ngày hôm sau lại trùng ngày Sabbat nên
quan quyền Do Thái đề nghị lính Roma phải làm cho họ chết
nhanh hơn không để qua lúc “Mặt Trời Lặn” (vì sang ngày
Sabbat).
Lính Roma đánh dập ống quyển 2 tên trộm (dập
ống quyển thì không thể rướn lên để thở nên sẽ chết nhanh
hơn), Khi thấy Chúa Giê–su đã chết, một tên lính cầm cây
giáo nhọn đâm vào cạnh sườn thấu tim Ngài để chắc chắn rằng
Ngài đã chết. Sau khi hạ xác Đức Giê–su, Mẹ Ngài nhận xác
con và cùng vài môn đệ lo việc an táng.
9. Đức Giê–su tự mình sống
lại – Thiết lập Giáo Hội
Cũng may có một ông quyền thế trong hàng phẩm trật Do
Thái, Ông Joseph thành Armathe, thành viên “Tối Cao Pháp
Viện” Do Thái, đã tin theo Chúa Giê–su cách kín đáo đã tặng
cho Chúa Giê–su chính ngôi mộ mới tinh được đục trong đá của
mình để an táng Chúa với một tảng đá rất to để lấp kín cửa
vào mộ.
Vậy mà đám quan quyền Do Thái vẫn còn sợ hãi
nên “vào chầu” Phi–la–tô mà tâu rằng: “Chúng tôi biết tên
Giê–su và đồ đệ tên ấy có tài sách động quần chúng nên có
thể chúng cướp xác tên Giê–su mà phao đồn tin thất thiệt là
Tên Giê–su đã sống lại thì dân chúng lại càng hoang mang
hơn, làm mất ổn định xã hội”.
Quan tổng trấn
Phi–la–tô phán:
“Các Ông có người thì cứ cử người ra
canh giữ”.
Quan quyền Do Thái tâu lại:
“Nhưng
chúng tôi không có binh lính vũ trang như lính Roma”.
Quan Phi–la–tô đang sẵn bực mình nói như quát:
“Được rồi, ta sẽ lệnh một Trung Đội Võ Trang canh xác Giê–su
24/24”.
Chúa Giê–su được an táng trong mộ đá Từ chiều
Thứ Sáu, hết ngày Thứ Bảy Sabbat, đến sáng sớm ngày Thứ
Nhất của tuần lễ mới (tức Chúa Nhật ngày nay) Ngài đã từ cõi
Chết tự mình Sống Lại trước sự kinh hãi của Trung Đội Lính
Canh Roma. Rồi Ngài đã hiện ra với các tông đồ, ăn uống với
họ, tiếp tục giảng dạy họ trong suốt 40 ngày, hình thành
Giáo Hội Sơ Khai và đặt Phê–rô làm tông đồ trưởng (Giáo
Hoàng Tiên Khởi) trước khi về trời trước sự chứng kiến của
các Tông Đồ.
10. Những Lời Chứng của các Sử Gia (Thánh Sử)
Ngay sau khi Chúa Giê–su chịu chết, sống lại, thành lập
Giáo Hội, và lên trời, các Tông Đồ và Môn Đồ đã túa ra đi
giảng đạo. Để ghi lại các biến cố quan trọng vừa qua, Bốn Sử
Gia đã viết 4 cuốn sử mà người Ki–tô Giáo gọi là Thánh Sử về
“Lịch Sử Ơn Cứu Độ” tức Thánh Kinh Tân Ước.
Thánh Sử Matthew
[Mát–thêu]
gốc người Do Thái, Ông thuộc giới trí thức. Ông đã viết cuốn
sử này cho người Do Thái nên đã trưng dẫn rất nhiều điều
trong sách Cựu Ước để chứng minh cho Người Do Thái: Đức
Giê–su chính là Đấng Cứu Thế mà Dân Do Thái mong đợi. Sử
Matthew viết bằng tiếng Aram, ngay sau đó được dịch sang
tiếng Hy Lạp vì ngôn ngữ này phổ biến trên toàn đế quốc
Roma.
Thánh Sử Marco
[thánh Mark]
thuộc gia đình giầu có và trí thức. Có lẽ Bữa Tiệc Ly đã
được thực hiện tại nhà ông. Marco là môn đệ của thánh Phê–rô
cũng cùng theo thánh Phao–lô trên đường truyền giáo.
Sau này Marco đi truyền giáo tại Ai Cập thành lập Giáo Đoàn
Alexandria, làm giám mục và chịu tử đạo bằng cách chúng dùng
ngựa kéo lê Ngài trên đường cho đến chết. Nội dung cô đọng
minh chứng Đức Giê–su là Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Thánh Sử Luca
là một bác sĩ, là một nhà trí thức, Ông tìm hiểu cặn kẽ về
gia phả Đức Giê–su, là một thầy thuốc ông mô tả chi tiết về
các bệnh nhân mà Chúa Giê–su chữa lành. Ông viết cuốn sử vào
năm 50AD bằng tiếng Hy Lạp có lời văn trong sáng nhất và là
cuốn Tin Mừng Cho Người Nghèo. Luca theo thánh Phao–lô đi
truyền đạo và sau cùng chịu Tử Đạo bằng việc bị treo cổ trên
cây Ô–liu.
Thánh Sử Gioan
là môn đệ trẻ nhất trong nhóm 12 tông đồ. Ông là người duy
nhất trong nhóm 12 đứng dưới chân Thập Tự nhận di ngôn của
Chúa Giê–su là hãy thay Chúa chăm sóc Maria mẹ người. Ông có
thời gian suy niệm về những điều mẹ Maria từ lâu đã “giữ kín
trong lòng”. Ông lại cũng có thời gian để đọc 3 cuốn sử được
viết trước đó.
Bây giờ, Ông dùng nhãn quan thần học
và triết học để viết cuốn sử sau cùng về Mầu Nhiệm Ơn Cứu
Độ: Đức Ki–tô là Ngôi Lời của Thiên Chúa Cha, Ngôi Lời đã
Nhập Thể Làm Người và ở giữa chúng ta, Ngôi Lời đã chịu chết
lấy máu mình rửa sạch tội Phản Nghịch Bất Trung của Loài
Người và ký lại Giao Ước Mới mang lại quyền “Làm Con Thượng
Đế” cho Loài Người. Ông là Tông Đồ duy nhất không Tử Đạo
chuyên lo viết Thánh Sử và chăm sóc Mẹ Maria (mặc dù nhiều
lần bi tra tấn dã man, ngay cả một lần Ông bị bỏ vào vạc dầu
sôi, nhưng Ông vẫn thoát chết).
Vậy “Ngôi
Lời” là
gì?
– Lời là
Chân Lý
– Lời là Sự Sống
– Lời trong thế giới hiện đại
là Lề Luật – Luật Pháp
– Lời là Information của vũ trụ
– Lời là DNA – Là Software – Là Thiết Kế Sự Sống của muôn
loài.
Nhờ “Ngôi
Lời” mà
muôn vật được tạo thành. “Ngôi
Lời” là
Đức Giê–su Ki–tô, Ngôi Thứ Hai đồng bản tính với Thiên Chúa
Cha và Chúa Thánh Linh).
11. Chúa đã sống lại thật
Alleluia và Đạo Yêu Thương được lan truyền Toàn Cầu
Sau này “Ngư Phủ” Phê–rô cùng với “Tiến sĩ luật” Phao–lô
ra đi truyền đạo tại ngay trung tâm Đế Quốc Roma (Rome,
nước Ý hiện nay). Phê–rô & Phao–lô tử đạo tại đây mở đầu
300 năm đế quốc Rô–ma bách hại Đạo.
Thế kỷ thứ 3, tức
300 năm sau, Hoàng Đế Constantine bãi bỏ việc cấm đạo Ki–tô
Giáo qua đạo luật “Tự Do Tôn Giáo” có hiệu lực tức thời trên
toàn Đế Quốc Roma.
Phi–la–tô sau này liên kết các sự
kiện về Đức Giê–su đã tin Ngài là Đấng Cứu Thế – Con Thiên
Chúa Hằng Sống và có lẽ đã là trụ cột của một Giáo Đoàn
Ki–tô Hữu lấy tên Ông tại Hy Lạp.
Cũng từ khi đạo
luật “Tự Do Tôn Giáo” có hiệu lực thì ngay từ trung tâm Đế
Quốc Rô–ma các “Hạt Giống Tin Mừng” đã nảy mầm và được gieo
trồng trên tất cả các biên cương của Đế Quốc Rô–ma hình
thành nền “Văn Minh Ki–tô Giáo” mà ngày nay đang được thực
hiện tại tất cả các nước văn minh phương Tây trong suốt gần
20 thế kỷ.
Với quyền năng của Con Thiên Chúa, Ngài đã
chiến thắng cái chết và hứa sẽ đem tất cả những ai giữ lề
luật Ngài tức Giao Ước Mới, Ngài sẽ không để kẻ đó chết đời
đời mà sẽ cho sống lại cả hồn lẫn xác trong ngày sau hết.
Như Dân Do Thái xưa đã Vượt Qua Pass Over Biển Đỏ thoát
kiếp nô lệ Ai Cập mà vào Đất Hứa như thế nào thì Đức Giê–su
cũng đã Vượt Qua Pass Over Thần Chết như vậy. Nếu Đức Giê–su
chỉ chịu chết mà không sống lại thì quả thực niềm tin của
Loài Người vào Đấng Cứu Thế hoàn toàn trở nên vô ích.
Từ việc Vượt Qua Thần Chết của Ngài, nhân loại được mở
lại kỷ nguyên: Loài Người là một thụ tạo tuyệt vời của
Thượng Đế, làm Con Thượng Đế, làm cầu nối gắn kết giữa Thiên
Thượng và Vũ Trụ, gắn kết hoàn hảo giữa Tinh Thần và Vật
Chất. Trong Giao Ước Mới, Nhân Loại đã nhận thức thêm, cần
cương quyết theo đuổi con đường Thiện Lương, xa lánh ma quỷ
là bọn Ác Gian Ác Đảng, Thiên Tả Mị Dân, Vô Thần Lường Gạt,
để rồi một ngày rất gần Nhân Loại được sống lại như trong
ngày Easter Sunday – Pass Over Day.
Chúa đã sống lại
rồi Alleluia Alleluia.
Nhân Loại được Cứu Rỗi khỏi
các Loại Trùng Độc và sẽ Sống Lại thật Alleluia Alleluia...
God Bless America, God Bless Canada, God Bless Việt Nam,
God Bless Ukraine, God Bless The World...
Lạc Việt
Good Friday April 18 & Easter
Sunday April 20, 2025
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Năm Tuần Thánh, April 17, 2025
tkd . Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH