Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tham
luận
Chủ đề:
Thượng Đế
Tác giả:
LM Phao–lô Trần
Xuân Tâm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Cách đây một hai tháng,
em trai tôi “forward” cho tôi một bài viết trên “facebook” về vấn
đề Thượng Đế. Tác giả bài viết là Hồ Trung Tú
[1]. Bài viết dễ
cho người đọc có cảm tưởng tác giả là một Phật tử, nhưng tôi xin
phép gọi tác giả là Phật tử trong ngoặc kép, lý do chỉ vì do
thông tin tôi biết quá hạn hẹp, nên tôi vẫn chưa chắc tác giả có
phải là một Phật tử hay không. Lý do đơn giản chỉ có vậy thôi,
nên nếu tác giả thật sự là một Phật tử chắc sẽ không hiểu lầm tôi
có ngụ ý gì khác.
Bận rộn bổn phận nên tôi ít có thời
gian đọc các bài viết trên “internet”, dầu vậy đối với những gì
tôi đã từng đọc thì tôi chưa hề thấy Phật tử nào viết về vấn đề
Thượng Đế nghiêm túc và có hiểu biết hơn tác giả Hồ Trung Tú: so
với những tác giả Phật tử trong Nhóm Giao Điểm, điển hình là Trần
Chung Ngọc, thì quả là khác biệt nhiều lắm. Đó là một lý do đáng
để cho tôi, một Ki–tô hữu Công Giáo, nếu có điều kiện nên trả lời
cho bài viết của tác giả. Nhưng còn có một lý do khác còn quan
trọng hơn đó là như thánh tông đồ Phê–rô viết cho các Ki–tô hữu
vào thế kỷ thứ nhất: “Anh em hãy luôn sẵn sàng để đáp ứng mọi kẻ
đòi hỏi nơi anh em lý lẽ về điều anh em cậy trông và tin tưởng”
[2]. Bài viết của tác giả Hồ Trung Tú là một dịp tốt để cho người
Ki–tô hữu suy nghĩ nhiều hơn, sâu hơn về những gì họ đang tin, để
thấy được, thấy rõ ràng hơn những lý lẽ của đức Tin Ki–tô giáo.
Nên mặc dầu những gì viết dưới đây đúng là “trả lời cho bài viết
của một ‘Phật tử’”, thì tôi viết chính yếu vẫn là vì lợi ích đức
Tin Ki–tô giáo của tôi, của em trai tôi, cũng như của các Ki–tô
hữu khác, nhất là những Ki–tô hữu có cơ hội đọc bài viết trên
“facebook” của tác giả.
I. Thượng Đế và sự hiện hữu của
Ngài là đối tượng của lãnh vực nào: thần học/Kinh Thánh, triết
học, hay khoa học?
Tác giả Hồ Trung Tú xem quan niệm về
Thượng Đế
[3] của các thần học gia, “dựa trên đức tin” hay Kinh
Thánh, giống như một thứ “rượu cũ”. Trong lúc đó, nếu tôi không
hiểu lầm, thì theo tác giả, quan niệm về Thượng Đế của các triết
gia và khoa học gia lại là một thứ “rượu mới”, bởi vì “dựa trên
lý trí” và luôn xét đến những biến cố lịch sử và nhất là những
phát triển hay khám phá của khoa học, họ luôn đặt lại vấn đề
Thượng Đế cách mới mẻ, cho dù có đi đến chỗ hoài nghi hay phủ
nhận Ngài: “Đến thế kỷ 20, năm 1913 mấy chục triệu người chết vì
dịch cúm và tai ương của các hai cuộc chiến tranh, cùng với sự
phát triển của khoa học, và gần đây là các cuộc động đất vào gần
ngày Giáng sinh, đã khiến niềm tin về một Thượng Đế nhân từ bị
sút giảm”. Bài viết của tác giả cho đến gần cuối như muốn chứng
tỏ rằng các nỗ lực về phía các thần học gia bảo vệ cho “rượu cũ”
không phải là những nỗ lực vô vọng, không hẳn thất bại, cho dù có
lúc họ cũng phải dùng đến những lý luận mới, giải thích mới giống
như dùng “bình mới” cho “rượu cũ”. Trong phần này, tôi sẽ chỉ ra
những điểm mơ hồ, lẫn lộn, hay sai lầm trong cách tác giả đối lập
Thượng Đế của thần học với Thượng Đế của triết học, trong những
hiểu biết của tác giả về tương quan giữa Kinh Thánh và khoa học,
giữa triết học và khoa học, và sau cùng trong cách đánh giá của
tác giả về tính cần thiết của khẳng định “Có Thượng Đế”.
1. Thượng Đế của thần học/Kinh
Thánh và Thượng Đế của triết học là hai Đấng hay là cùng một
Đấng?
Về mặt lịch sử, sự phân biệt giữa
Thượng Đế của thần học/Kinh Thánh và Thượng Đế của triết học như
hai Đấng khác nhau tuy cũ mà không cũ lắm. Nó bắt đầu với sự xuất
hiện và bành trướng của chủ nghĩa duy lý (rationalisme) trong
triết học Âu Châu vào thế kỷ XVII với những triết gia như
Descartes, Leibniz, v.v. và những phản ứng chống lại chủ nghĩa đó
nơi một số tư tưởng gia như Pascal, Rousseau, v.v. Chính Pascal
là tác giả của câu nói nổi tiếng:
“‘Dieu d’Abraham, d’Isaac, et de Jacob’
non des philosophes et des savants (‘Thượng Đế của Abraham,
Isaac, và Giacob’ chứ không phải Thượng Đế của các nhà triết học
và các nhà thông thái)”.
Nhưng trước thế kỷ XVII không có sự
phân biệt như thế trong lịch sử tư tưởng Ki–tô giáo, hay nếu có
cũng không đáng kể chút nào. Quả thật Ki–tô giáo hằng bao thế kỷ
trước đó đã có vô số nhân vật đồng thời vừa là thần học gia vừa
là triết gia như những Justin, Augustin, Boèce, Anselme, Albert,
Thomas d’Aquin, Duns Scot, v.v. Ngày hôm nay sự phân biệt đó cũng
chỉ quan trọng trong một mức độ giới hạn, trong một vài trường
phái trí thức vẫn còn đối lập giữa đức tin và lý trí, Kinh Thánh
và khoa học, v.v. Ở ngoài thiểu số các trường phái này, những trí
thức tin vào Thượng Đế không thấy có sự phân biệt giữa hai Thượng
Đế, lại càng không thấy có sự chia rẽ hay đối lập, nên đối với họ
cái mà tác giả Hồ Trung Tú gọi là nhu cầu “thống nhất các trường”
chỉ là giả tạo, không có thật.
Còn về mặt nội dung, sự phân biệt giữa
hai Thượng Đế như thế có lý hay vô lý tùy theo sự hiểu biết của
người ta về đức Tin và lý trí, về Kinh Thánh và khoa học. Một sự
hiểu biết bị ảnh hưởng bởi một trong hai cực: một bên là chủ
nghĩa duy tín (fidéisme) và bên kia là chủ nghĩa duy lý
(rationalisme) và chủ nghĩa duy khoa học (scientisme), tất khó
tránh thấy nơi sự phân biệt này có hai Thượng Đế khác nhau, thậm
chí đối lập nhau thật sự. Đạo Công Giáo phân biệt những gì con
người có thể biết về Thượng Đế theo khả năng tự nhiên vốn có của
trí năng hay lý trí (tức tri thức triết học về Thượng Đế) và
những gì con người biết về Ngài nhờ vào mặc khải của Ngài được
lưu truyền trong Kinh Thánh và được tiếp nhận bằng đức Tin (bao
gồm tri thức thần học về Thượng Đế). Đa phần những gì Thượng Đế
mặc khải đều vượt quá khả năng hiểu biết và khám phá của trí năng
con người. Đạo Công Giáo xem đây là hai loại tri thức phân biệt
nhưng cùng có chung một đối tượng là Thượng Đế, bàn về cùng một
Thượng Đế chứ không phải về hai Thượng Đế phân biệt nhau. Phần
nào cũng giống như tri thức vật lý và tri thức hóa học về nguyên
tố hydrogen chẳng hạn, tuy phân biệt với nhau nhưng nghiên cứu về
cùng một nguyên tố, không phải về hai nguyên tố khác nhau, bàn về
cùng một thực tại nhưng được hiểu dưới những khía cạnh phân biệt
nhau. Tri thức về cùng một thực tại, nếu đều đúng, thì tuy phân
biệt với nhau nhưng không thể thật sự đối lập nhau, loại trừ
nhau. Cho nên không những chỉ có một Thượng Đế là đối tượng chung
cho cả triết học và thần học mà hai loại tri thức này tuy phân
biệt nhau nhưng không thể đối lập, loại trừ nhau.
2. Phải chăng Kinh Thánh cũng
dạy khoa học?
Cần minh định ở đây vài điểm liên quan
đến Kinh Thánh thường dễ hiểu lầm ngay cả đối với nhiều Ki–tô
hữu, huống hồ là một “Phật tử” như tác giả Hồ Trung Tú:
(1) Những gì trong Kinh Thánh mà giáo
lý của đạo Công Giáo nhất quán khẳng định từ bao đời là những sự
thật mặc khải về Thượng Đế thì trước sau vẫn vậy, không bao giờ
thay đổi, chẳng hạn như Thượng Đế tạo dựng mọi sự từ hư vô, từ
không có gì nhưng nhờ quyền năng của Ngài mà có cái này, cái kia.
Đạo Công Giáo cũng đã sớm thấy rõ những sự thật về Thượng Đế như
thế độc lập, không phụ thuộc vào sự phát triển của tri thức khoa
học mà đối tượng là vũ trụ vật chất, cho nên những khám phá mới
về tiến hóa không như tác giả nghĩ thực sự “đã giúp Vatican tin
tưởng hơn vào một bàn tay của Thượng Đế rất thật”. Cho dù loài
người có thực sự tiến hóa từ loài khỉ vượn thì không những vẫn
cần phải giả thiết có Đấng Tạo Hóa nói chung, căn nguyên của
những gì hiện hữu, của trời đất và mọi sự trong đó, mà còn cần
phải giả thiết sự can thiệp đặc biệt của Ngài ở cái khâu tiến hóa
này, cần phải giả thiết việc Ngài trực tiếp tạo dựng linh hồn là
thực tại vô chất thể nên không thể phát sinh từ một bản thể vật
chất được (dù là thân xác sống của khỉ vượn). Khỉ vượn, dù là
động vật bậc cao nhất, vẫn là loài không có linh hồn, cho nên nếu
không có sự can thiệp trỗi vượt của Thượng Đế trực tiếp tạo dựng
linh hồn, thì không thể nào có con người tiến hóa từ chúng được.
Nói cách khác những sự thật như thế về vai trò của Thượng Đế
không bị ảnh hưởng bởi thuyết tiến hóa bao lâu nó vẫn còn là một
lý thuyết khoa học, chưa bị triết lý hóa bởi lập trường duy vật.
(2) Mâu thuẫn giữa Kinh Thánh và khoa
học chỉ là do hiểu lầm và do đó không phải là mâu thuẫn thật sự.
Hiểu lầm có thể và thật sự đã từng đến từ phía nhà thần học khi
ông không xác định được đâu là những lãnh vực tri thức được bao
gồm trong nội dung mặc khải của Kinh Thánh. Có những thời mà một
số hay nhiều thần học gia tin rằng hễ bất cứ điều gì được nói đến
trong Kinh Thánh thì cũng đều là những sự thật mặc khải đến từ
Thượng Đế và được lưu truyền trong đó, nhưng thật ra Kinh Thánh
cũng chứa đựng nhiều điều không thuộc lãnh vực của những gì
Thượng Đế muốn mặc khải: chẳng hạn như lịch trình tạo dựng trong
bảy ngày, nhất là ngày hiểu theo thời gian vật lý hiện nay là 24
giờ.
(3)
Thượng Đế tạo dựng vũ trụ và quy định cách thức vận hành của nó –
đó là một sự thật mặc khải được lưu truyền trong Kinh Thánh. Dĩ
nhiên vì Thượng Đế mặc khải cho con người qua ngôn ngữ của con
người, cho nên một sự thật mặc khải như vừa nói khó tránh khỏi
được lồng vào, được diễn tả và chuyển đạt dưới vỏ bọc là kiến
thức con người thượng cổ về sự hình thành và vận hành của vũ trụ,
một kiến thức đương nhiên giới hạn và sai lầm về mặt khoa học.
Còn sự hình thành vũ trụ đích xác diễn ra như thế nào, đâu là các
quy luật mà theo đó vũ trụ vận hành, nội dung các quy luật đó là
gì, v.v. thì không thuộc về những gì Thượng Đế muốn mặc khải mà
là đối tượng Ngài để cho trí năng con người tìm hiểu, nghiên cứu,
khám phá, với đủ thứ giới hạn vào điều kiện phát triển của khoa
học thời mình. Tóm lại các câu trả lời cho những câu hỏi loại đó
phải tìm nơi khoa học của con người chứ không phải trong Kinh
Thánh của Ki–tô giáo.
(4) Riêng trong vụ Galileo Galilei, lỗi
cũng không phải chỉ do nhà thần học hiểu lầm về phạm vi hay lãnh
vực được mặc khải trong Kinh Thánh, mà còn do điều kiện hạn chế
khách quan về khoa học vào thời đó: quan niệm của Galileo theo hệ
thống của Copernicus về sự xoay vần của trái đất quanh mặt trời
vừa ngược lại với kiến thức thịnh hành của khoa học vào thời ông,
vừa không được ông chứng minh cách thích hợp (nên nhiều khoa học
gia lúc đó vẫn xem nó chỉ là một lý thuyết mới).
(5) Tất cả những gì bị lầm tưởng cho
rằng thuộc về mặc khải của Thượng Đế được lưu truyền trong Kinh
Thánh thật ra chưa bao giờ là giáo lý chính thức của đạo Công
Giáo cả, nghĩa là chưa bao giờ trở thành những gì được xác định
là thuộc về đức Tin bởi thẩm quyền giáo huấn cao nhất trong đạo
Công Giáo, tức thẩm quyền nại đến sự bất khả ngộ mà Thượng Đế ban
trong một số trường hợp. Cho nên không có chuyện “Sáng Thế Ký đã
được giảng lại theo một cách mới” nếu tác giả hiểu huấn quyền tối
cao trong đạo Công Giáo trước đây khẳng định như là những sự thật
mặc khải một số điều được gặp thấy trong sách đầu tiên này của
Kinh Thánh, nhưng hiện nay lại thay đổi chúng vì thấy chúng không
phù hợp với những khám phá của khoa học. Cũng không nên lẫn lộn
quan niệm của nhà thần học với giáo lý chính thức của đạo Công
Giáo: một quan niệm nào đó của các thần học gia Công Giáo, cho dù
là của đa số, tự chúng vẫn không có giá trị ràng buộc về mặt đức
Tin cho tới khi thẩm quyền cao nhất trong đạo Công Giáo tuyên bố
nội dung của quan niệm đó phản ánh một sự thật được Thượng Đế mặc
khải hay một sự thật trực tiếp liên quan đến mặc khải.
3. Thượng Đế của khoa học gia hay
Thượng Đế của triết gia?
Tác giả Hồ Trung Tú khi thì nói đến
Thượng Đế của triết gia, khi thì nói đến Thượng Đế của khoa học
gia như thể người sau bàn về Ngài cũng giống như người trước.
Khoa học dù là khoa học trừu tượng (đa số các loại toán học) hay
khoa học thực nghiệm (vật lý, hóa học, sinh vật học, v.v.) không
bàn đến vấn đề Thượng Đế có hay không, Ngài tạo dựng và điều
khiển vũ trụ như thế nào. Thượng Đế không phải là đối tượng của
tri thức khoa học. Chấm hết. Không ai cấm, mà trái lại còn là
chuyện tự nhiên, nếu một khoa học gia từ chỗ thán phục những quy
luật của vũ trụ đi đến chỗ kết luận có Thượng Đế như là tác giả
của những quy luật đó. Nhưng một kết luận như thế ở ngoài phạm vi
khoa học. Nó là một kết luận của lý trí nhưng là một lý trí đã
hoạt động ở ngoài những nguyên lý trực thuộc lãnh vực của khoa
học. Nó là một khẳng định thuộc lãnh vực triết học, là lãnh vực
mà trong đó lý trí hoạt động theo những nguyên lý ở ngoài và ở
trên tri thức khoa học và được nó giả thiết. Một khoa học gia có
quyền nói về vấn đề hiện hữu của Thượng Đế, nhưng để khẳng định
hay phủ định sự hiện hữu của Ngài mà ông chỉ nhân danh một mình
khoa học thôi, thì không những đó là chuyện “đại ngôn” mà còn là
chuyện “ếch ngồi đáy giếng”. Một chút so sánh tuy không thực sự
tương xứng đó là trường hợp một người nghiên cứu hội họa, khi
nghiên cứu một bức tranh, tự nhiên thắc mắc muốn tìm hiểu thêm về
tác giả, gần thì tại sao tác giả vẽ như thế này mà không như thế
kia, xa thì đời sống của tác giả như thế nào, v.v. Để có được
những câu trả lời cho những câu hỏi này thì người đó nhiều lúc
phải đi ra ngoài kiến thức hội họa vốn có của mình.
4. Phải chăng “bàn tay của Thượng Đế”
chỉ “còn tác dụng” bao lâu mà con người vẫn chưa biết được tại
sao vũ trụ vật chất phải thế này mà không thế kia?
Nếu tôi hiểu đúng thì mệnh đề “bàn tay
của Thượng Đế vẫn còn tác dụng” theo tác giả Hồ Trung Tú có nghĩa
là sự hiện hữu của Thượng Đế vẫn còn có ý nghĩa, vẫn còn được cần
đến. Nếu vậy thì theo tác giả, sự hiện hữu của Ngài còn cần đến
bao lâu mà “con người còn chưa biết quy luật được hình thành như
thế nào, tại sao vật chất có thuộc tính này mà không có thuộc
tính khác”. Nhưng có đúng như vậy không? Bạn có một cái đồng hồ
nào đó. Rồi giả như bạn biết được rõ ràng tại sao cái đồng hồ đó
phải được chế tạo như thế này mà không như thế kia, phải hoạt
động theo cách này mà không phải cách kia, v.v. phải chăng nếu
biết được như vậy thì bạn không còn phải cần có sự hiện hữu của
người thợ chế tạo ra cái đồng hồ đó trước lúc nó được chế tạo ra?
Nhưng nếu lúc trước phải cần có người thợ thì mới có cái đồng hồ,
thì tại sao lúc này lại không cần người đó có nữa? Rồi vì biết
hết mọi thứ về cái đồng hồ mà lúc này bạn không cần người thợ
nữa, nhưng phải chăng vì bạn không cần mà người đó thật sự không
còn có nữa?
Dù
sao so sánh sự hiện hữu của Thượng Đế với sự hiện hữu của người
thợ chế tạo ra đồng hồ vẫn là một so sánh tồi, chỉ có những người
theo chủ nghĩa tự nhiên thần giáo (deisme) mới dùng để chứng minh
sự hiện hữu của Thượng Đế. Suy cho cùng kỳ lý, thì câu hỏi cần
phải đặt ra vượt quá câu hỏi tại sao vũ trụ vật chất phải có
thuộc tính này mà không có thuộc tính kia, tại sao các quy luật
vận hành của nó phải thế này mà không thế khác được. Câu hỏi tột
cùng chính là câu hỏi: Tại sao lại có cái gì đó thay vì không có
gì cả, bất luận cái có đó là cái gì và bất luận nó có như thế
nào? Suy luận triết học về câu hỏi này tất yếu đưa đến kết luận
rằng phải có Thượng Đế mà sự hiện hữu của Ngài là tất yếu nội tại
(necessité intrinsique), bản tính của Ngài không gì khác hơn là
hiện hữu. Khi ông Mô–sê hỏi tên Thượng Đế là gì thì Ngài đã trả
lời rằng: “Ta là Đấng TA LÀ (YHWH)”
[4]. Sự hiện hữu của mọi sự
khác chỉ là bất tất
(contingens–contingentia/contingent–contingence), không tất yếu
cách nội tại, nên tất yếu lệ thuộc vào Thượng Đế như là nguyên
nhân đệ nhất và trỗi vượt của sự hiện hữu nơi chúng. Sự lệ thuộc
của thụ tạo vào Đấng Tạo Hóa xét về hiện hữu là sự lệ thuộc tất
yếu và mang tính siêu hình học, vượt quá mọi thứ thời gian tính,
vì thời gian là phạm trù chỉ áp dụng cho sự lệ thuộc vào các
nguyên nhân đệ nhị thuộc thế giới thụ tạo, nhất là các nguyên
nhân đệ nhị thuộc thế giới biến dịch, đi từ năng thể đến hiện
thể. Vì thế chuyện trước và sau khi một thụ tạo xuất hiện không
còn là vấn đề đối với sự lệ thuộc siêu hình hay hữu thể học này –
nó không giống như sự lệ thuộc của cái đồng hồ vào người thợ làm
ra nó: nó cần người thợ lúc nó chưa có, nhưng khi đã có rồi thì
nó có thể tiếp tục có mà không cần người thợ có còn hay không. Sự
lệ thuộc tất yếu về mặt siêu hình này cũng không bị ảnh hưởng gì
chuyện thời gian của một thụ tạo hữu hạn hay vô hạn – phần nào
cũng giống như một cây bút, cho dù bao giờ cũng viết chữ: không
có lúc bắt đầu viết, cũng không có lúc kết thúc viết, thì cũng
không tự mình mà có được lại càng không tự mình viết ra những
dòng chữ có ý nghĩa được.
II. Can thiệp của Thượng Đế đối với sự
ác
Cho rằng
quan niệm về Thượng Đế của các nhà thần học không dễ sụp đổ, tác
giả Hồ Trung Tú muốn chứng tỏ “rượu cũ” này vẫn không hẳn mất mùi
vị ngay cả khi được nếm với mật đắng là kinh nghiệm về sự ác
trong lịch sử. Tác giả nói đến hai ví dụ trong lịch sử nhưng khai
triển và giải thích ví dụ thứ hai là chính: ví dụ thứ nhất là
“các cuộc tàn sát người Kitô giáo” và ví dụ thứ hai là nhân vật
lịch sử Hitler mà ác tính ngay cả “Nero hay Tần Thủy Hoàng chỉ là
chuyện đùa của trẻ con như vặt cánh con chuồn chuồn nếu đặt bên
cạnh Hitler”. Nhưng trong những gì tác giả nói về hai ví dụ này
và nhất là về sự can thiệp của Thượng Đế đối với những sự ác như
thế, thật ra có một số điểm đáng được đặt thành vấn đề. Giải
thích của tác giả về sự can thiệp của Thượng Đế xem ra đúng như
tác giả nói “nhuốm màu thuyết định mệnh bình dân”, chứ không thực
sự phản ảnh cái nhìn của thần học Ki–tô giáo chính thống về sự
can thiệp đó. Phần thứ hai của bài viết này bàn đến một số điểm
đáng đặt thành vấn đề như vừa nói.
1. Bách hại và phát triển trong lịch sử
Ki–tô giáo
Tác
giả nhận xét rằng mặc dầu các Ki–tô hữu bị bách hại nhiều trong
lịch sử,”nhưng kỳ lạ một điều rằng cứ mỗi lần như vậy thì đạo
Chúa lại phát triển một cách bùng nổ và sự tử vì đạo của các con
dân Chúa như được củng cố thêm”. Nói vậy thôi, chứ đối với tác
giả điều đó chẳng có gì kỳ lạ bởi vì “vẫn còn nhiều cơ sở về tâm
lý tập thể để giải thích” nó. Tác giả không thể không đồng ý rằng
Ki–tô giáo không phải chỉ chịu bách hại dưới thời Nero hay dưới
thời nhiều hoàng đế La Mã sau ông này. Suốt hai ngàn năm lịch sử
của tôn giáo này, có thể nói không có lúc nào mà nó không bị bách
hại, không ở chỗ này thì cũng ở chỗ kia, có khi không phải chỉ
giới hạn vào một quốc gia mà còn cả một lục địa hay lớn hơn nữa:
xa xưa thì đế quốc La Mã (dù không nhất thiết phải đồng đều về
thời gian hay mức độ đàn áp xét khắp lãnh thổ của đế quốc) gần
đây thì Khối Cộng Sản Warsaw rộng lớn
[5]. Bách hại không phải
chỉ bằng bạo lực tàn sát mà còn bằng đủ thứ thủ đoạn thâm hiểm kể
cả về mặt giáo dục và dư luận xã hội. Dù không phủ nhận các
nguyên nhân tâm lý và xã hội, nhưng nếu kết luận như tác giả rằng
chỉ cần những nguyên nhân ấy là đủ để giải thích cả một lịch sử
phát triển của Ki–tô thì quả là quá đơn giản và khá cẩu thả về
phương diện tri thức. Nếu áp dụng vào Phật Giáo, có lẽ tác giả sẽ
không đồng ý cho rằng dựa vào “các cơ sở về tâm lý tập thể” là đủ
để giải thích sự tồn tại và phát triển của tôn giáo này. Về mặt
sự kiện có thể nói không ngoa rằng không có tôn giáo nào trong
lịch sử nhân loại từng bị bách hại tới mức như Ki–tô giáo, vậy
làm sao mà các nguyên nhân tâm lý và xã hội đủ để giải thích sự
tồn tại và phát triển của Ki–tô giáo, trong khi chúng không đủ để
làm vậy ngay cả đối với các tôn giáo khác ít bị bách hại hơn
nhiều so với Ki–tô giáo chẳng hạn như Phật Giáo?
2. Tính ác của Hitler và sự can thiệp
của Thượng Đế
Từ sự kiện Hitler tác giả xem ra muốn chứng minh có sự can thiệp
nào đó của Thượng Đế bằng cách lý luận như sau: Nếu sự xuất hiện
của Hitler chỉ có ích cho nhân loại khi và chỉ khi y xuất hiện
vào đúng thời điểm như y đã thật sự xuất hiện (chứ không phải
trước đó hay sau đó), thì “ hình như quả thật có một bàn tay nào
đó của Chúa vẫn đang can thiệp trong đời sống của con người hiện
đại hôm nay”. Mà theo tác giả cái “nếu” vừa nói thực sự đúng: bởi
vì nếu Hitler xuất hiện sớm quá, nghĩa là vào lúc mà nhân loại
chưa biết gì về sức mạnh của năng lượng nguyên tử, thì nhân loại
vẫn chưa có điều kiện để “học một bài học về tính ác trong chính
bản thân mình trước khi làm chủ một năng lượng không hề có trong
tự nhiên”. Còn nếu y xuất hiện sau khi sức mạnh của năng lượng
nguyên tử được vận dụng thành công, tức bom nguyên tử được chế
tạo rồi, thì đương nhiên với “tính ác” của y, y chắc chắn sẽ sử
dụng, vậy thì lúc đó đại đa số nhân loại bị tiêu diệt cả rồi đâu
còn “kịp học” bài học đang nói.
Theo logique trong lập luận của tác
giả, cái giả thiết Hitler đã xuất hiện “vào đúng cái thời điểm...
mà không có hắn không được” chỉ đúng với điều kiện là hai giả
thiết khác sau đây đều đúng: 1. Hitler là kẻ ác nhất: “chưa có
tiền lệ” nào như thế “trong lịch sử toàn nhân loại”; 2. Có kinh
nghiệm lịch sử về sự tàn ác vô tiền khoáng hậu đó của Hitler thì
nhân loại mới học được bài học về tính ác trong chính bản thân
mình khi nghĩ đến điều gì sẽ xảy ra nếu một năng lượng ghê gớm
như năng lượng nguyên tử rơi vào sự điều khiển của một con người
có tính ác như Hitler. Thế nhưng không cái nào trong hai giả
thiết này tất yếu đúng cả. Giả thiết thứ hai thì đã khá rõ: không
như tác giả nghĩ, không có gì chắc chắn là nhân loại đã học được
bài học về cái giá phải trả cho tính ác của mình. Dù đã học được,
chắc gì bao giờ cũng ghi nhớ. Dù sao cho đến hôm nay xác xuất về
khả năng xảy ra của chiến tranh hạt nhân cả mấy thập niên sau
chiến tranh lạnh vẫn còn rất cao. Và dĩ nhiên sức tàn phá của vũ
khí hạt nhân vượt xa vũ khí nguyên tử thời Hitler. Còn về giả
thiết thứ nhất, làm sao biết chắc được những bạo chúa như Tần
Thủy Hoàng, Nero (giết mẹ, giết vợ, giết thầy) không ác hơn
Hitler? Phải chăng vì những kẻ đó không giết người nhiều hơn
Hitler? Chắc gì, vì nếu Tần Thủy Hoàng hay Nero cũng như Hitler
có phi cơ chiến đấu, có xe tăng, có pháo tầm xa, v.v. thì sẽ thế
nào? Nếu chưa chắc là so với Hitler “tiền vô cổ nhân”, thì lại
càng không chắc là “hậu bất lai giả”. Dầu sao vẫn có những sử gia
cho rằng những tay trùm cộng sản cùng thời như Staline, Mao Trạch
Đông cũng ác không kém gì Hitler, hay biết đâu lại còn ác hơn:
giết nhiều người hơn (Mao giết, trực tiếp và gián tiếp, trên dưới
70 triệu dân Trung Quốc) và giết vì một lý do điên cuồng, còn vô
lý hơn cả Hitler. Hitler giết người, nhất là người Do Thái, nhân
danh chủ nghĩa chủng tộc và dân tộc cực đoan, muốn cho dân Đức
trở thành những người Aryan thuần túy và thượng đẳng. Nhưng
Staline và Mao giết vô số đồng bào, cùng chủng tộc của mình. Lý
thuyết cộng sản khinh thường các thực tại như dân tộc, đồng bào,
chỉ thượng tôn độc đảng cộng sản, cho nên những cá nhân, những
tập thể, những cộng đồng nào không thuận theo đảng, thì phải bị
coi là kẻ thù, cho dù đó là đồng bào, máu mủ, ruột thịt của mình.
Lý thuyết cộng sản tuyệt đối hóa, thần thánh hóa đảng chẳng lẽ
lại không “quái gở” “kỳ cục” bằng lý thuyết về chủng tộc thượng
đẳng của Hitler sao?
Cho dù cứ cho như đúng cái giả thiết
của tác giả là sự xuất hiện của Hitler vào đúng thời điểm như y
đã xuất hiện thì mới hữu ích cho nhân loại, thì vẫn không làm sao
chứng minh được điều đó là do sự can thiệp của Thượng Đế. Vấn đề
nằm ở cách hiểu của tác giả về sự can thiệp của Thượng Đế trong
trường hợp của Hitler. Nếu Thượng Đế như tác giả nghĩ can thiệp
bằng cách làm cho tính ác của Hitler xuất hiện và hoạt động vào
đúng thời điểm mà Ngài muốn thì mới có ích cho nhân loại, thì quả
đó là sự can thiệp yếu ớt, nửa vời, kiểu chữa cháy. Đã làm, tại
sao Ngài không làm cho đến nơi đến chốn: chẳng hạn can thiệp làm
sao để một tính ác như kiểu Hitler chẳng bao giờ xảy ra, hay thậm
chí chẳng có tính ác nào xảy ra cả? Làm được vậy chẳng lẽ không
tốt hơn cho nhân loại hay sao? Tại sao Thượng Đế lại không tạo
nên con người mà trong bản thân sẽ không bao giờ có tính ác, vì
nếu làm vậy, Ngài đâu có cần đi nước cờ nào phải trả giá, huống
hồ là “nước cờ thấm đẫm nước mắt” như trong trường hợp đang nói?
May là chẳng có mấy thần học gia nào giải thích sự can thiệp của
Thượng Đế theo kiểu của tác giả, bằng không chỉ làm cho “rượu cũ”
của họ càng khó nếm hơn, nếu không phải là không thể nếm được,
hay nói cách khác chỉ làm cho người khác càng dễ dàng phủ nhận
Thượng Đế, chứ không phải như tác giả nói làm cho họ “khó để bảo
Chúa không có mặt đâu đó và vẫn can thiệp vào đời sống con người
bằng cái cách mà thường là con người không thể hiểu nổi (?)”
3. Sự can thiệp của Thượng Đế theo
“rượu cũ” thật sự
Nếu có nói đến sự can thiệp của Thượng
Đế đối với sự ác của con người, thì một thần học gia Ki–tô giáo
thường phải minh định tối thiểu như sau:
(1) Vì Thượng Đế là Đấng Toàn Thiện, vô
cùng hoàn hảo, nên Ngài không thể là tác giả của tính ác nơi
Hitler hay nơi bất kỳ con người nào khác. Ngài cũng không chịu
trách nhiệm nào về sự xuất hiện của nó. Tính ác nơi con người là
sự hư hỏng của nhân tính, và sự hư hỏng này phải là hậu quả cách
nào đó đến từ chính chọn lựa tự do của con người. Rồi cho dù
trong bản thân có tính ác, con người về nguyên tắc vẫn có tự do
hành động theo nó hay không, vẫn có tự do chọn làm chủ nó và dần
dần thay thế nó bằng tính thiện hay không. Ngay cả luật nhân quả
chặt chẽ về nghiệp (karma) của Phật Giáo cũng không loại trừ tự
do của con người. Dù một người đang bị tính ác lôi kéo mãnh liệt,
nhà Phật vẫn khuyên y “hồi đầu là ngạn” vì hiểu ngầm rằng y vẫn
còn tự do theo nó hay không. Cho nên cũng chính con người, chứ
không phải Thượng Đế, là kẻ chịu trách nhiệm về sự tồn tại và
hoành hành của tính ác trong lịch sử. Nếu Thượng Đế đã quyết định
tạo dựng con người với khả năng chọn lựa tự do, thì để không tự
mâu thuẫn với chính quyết định của Ngài, Thượng Đế phải để cho
con người thực hiện khả năng đó, kể cả khi chọn điều ác, tức chọn
điều ngược lại với sự tốt lành của Ngài. Nếu Thượng Đế trong mọi
trường hợp bao giờ cũng ngăn cản con người thực hiện khả năng
chọn lựa tự do, thì theo lý Ngài đã không tạo dựng nó với khả
năng đó làm gì.
(2) Nhưng đồng thời lý trí con người
cũng khó có thể chấp nhận một vị Thượng Đế vô cùng tốt lành mà
lại bỏ mặc những người tốt hay vô tội, để cho kẻ ác, nhất là kẻ
ác như Hitler, muốn làm gì thì làm. Cũng vì những người tốt nên
xem ra là điều hợp lý đó là Thượng Đế phải can thiệp cách nào đó
để cho dù những chọn lựa sự ác đã thật sự xảy ra, thì cũng có
không ít trường hợp mà hậu quả của những chọn lựa đó trên những
người tốt, nếu không bị ngăn cản hoàn toàn cũng bị hạn chế phần
nào (bằng không thì hậu quả trong thực tế chắc sẽ còn tai hại
hơn). Nhưng cách nào là cách nào? Đứng trong một thời điểm giới
hạn của lịch sử đương nhiên không thể biết được bằng cách nào mà
Thượng Đế can thiệp để bảo vệ và phát triển sự thiện trong một
biến cố, một sự kiện. Nhưng ngay cả sau một thời gian dài của
lịch sử, nhìn lui lại một biến cố, một sự kiện, dù bức tranh có
phần rõ hơn, thì trí năng hữu hạn của con người vẫn không thể
biết chắc, lại càng không thể biết hết về cách thức mà Thượng Đế
can thiệp đối với biến cố, sự kiện đó (nói chi đến trong tương
quan với các sự kiện, các biến cố khác).
4. Vấn đề sự ác vừa là một vấn đề của
trí năng con người vừa là một huyền nhiệm vượt quá nó
Những minh định tối thiểu vừa nói trên
của một nhà thần học Ki–tô giáo điển hình chỉ là phác họa sơ sài
và đương nhiên thiếu sót
[6], lý do một phần là vì bài viết này
của tôi không phải là chỗ để bàn luận cách thích đáng về vấn đề
sự ác hay sự dữ theo thần học Ki–tô giáo. Nhưng cho dù có điều
kiện để bàn luận cách thích đáng, thì đối với vấn đề vô cùng nhức
nhối này, một vấn đề hành hạ con người từ khi con người lần đầu
tiên vượt lên trên tri thức thường nghiệm, vẫn không có lý luận
triết học hay tôn giáo nào thực sự thỏa đáng, hoàn toàn thỏa mãn
lòng người, nhất là lúc một người thật sự đang chịu đau khổ do sự
ác gây nên. Dầu vậy không phải vì thế mà nên vứt bỏ mọi suy tư
nghiêm túc của triết học và tôn giáo về vấn đề này. Đúng là lúc
đang trọng thương vì bị tên bắn, thì như nhà Phật thường dạy,
điều cần kíp nhất là làm sao chữa lành vết thương, chứ không phải
là tìm hiểu mũi tên từ đâu tới, do ai bắn, bắn lầm hay cố ý, v.v.
Nhưng chắc chắn vẫn có lúc cần tìm trả lời cho những câu hỏi như
thế, có khi lại rất cần (chẳng hạn có phải đó là mũi tên của một
kẻ thù giấu mặt nhưng rất có thể thường ở gần nạn nhân, v.v.).
Câu hỏi mang tính thiết thân: “Làm sao thoát khỏi được sự ác và
đau khổ do nó gây ra?” và câu hỏi mang tính suy lý: “Bản tính,
căn nguyên, ý nghĩa của sự ác là gì” thật ra không thể tách rời
nhau mà phụ thuộc nhau. Hai câu hỏi này là hai mặt của cùng một
vấn đề: vấn đề sự ác vừa là vấn đề về bản tính, căn nguyên, và ý
nghĩa của nó, đồng thời cũng là vấn đề giải thoát khỏi nó. Chính
vì thế mà hiểu sai về bản tính và căn nguyên của sự ác có thể cản
trở con người tìm gặp sự giải thoát đích thật, thậm chí khiến con
người dễ dàng bị mê hoặc, bị giam hãm trong những thứ giải thoát
giả dối hay ảo tưởng, chẳng hạn như thiên đường xã hội cộng sản
mà thuyết Marxiste–Leniniste đã vẽ ra và hứa hẹn với tầng lớp vô
sản. Cho nên con người vẫn cần những suy tư nghiêm túc của triết
học và tôn giáo về vấn đề sự ác cho dù những suy tư đó vẫn không
thể đủ. Tại sao không thể đủ? Không thể đủ bởi vì trí năng con
người không bao giờ hiểu thấu về bản tính, căn nguyên, và ý nghĩa
của sự ác. Nhưng không chỉ có thế. Cho dù trí năng có hiểu thấu,
thì chuyện giải thoát khỏi sự ác vẫn vượt quá khả năng của con
người. Con người không những đau những cái đau là hậu quả của sự
ác mà còn đau vì cảm nhận sự bất lực của mình trước quyền lực của
sự ác. Do đó nếu cả triết học và tôn giáo đều có thể đặt vấn đề
về bản tính và căn nguyên của sự ác, thì sự cứu độ, sự giải thoát
khỏi sự ác, nếu có, chỉ có thể tìm ở nơi một mình tôn giáo, ở nơi
niềm tin tôn giáo, một lãnh vực không những thiết yếu phân biệt
với triết học mà còn giả định những thực tại ở ngoài hay đúng hơn
vượt quá giới hạn của bản tính con người.
5. Câu trả lời của Ki–tô giáo
Kết luận vừa nói trên cho thấy lý do
người ta nên tìm nơi Ki–tô giáo câu trả lời cho vấn đề cứu thoát
khỏi sự ác, nghĩa là khỏi tội lỗi và hậu quả của nó, nhiều hơn là
cho vấn đề bản tính và căn nguyên của sự ác. Mặc khải của Thượng
Đế được lưu truyền trong Kinh Thánh của Ki–tô giáo đương nhiên
phủ định Thượng Đế chịu bất kỳ trách nhiệm nào đối với sự ác
(theo nghĩa là tội lỗi và những hậu quả trực tiếp của nó). Ngài
không muốn sự ác bằng bất cứ cách nào. Sự ác xuất hiện hoàn toàn
là do chọn lựa tự do của thụ tạo có trí năng, nhất là chọn lựa
sai trái đầu tiên của nguyên tổ loài người. Nhưng trung tâm của
mặc khải Ki–tô giáo vẫn là về sự giải thoát hay cứu độ của Thượng
Đế. Nhờ được Thượng Đế mặc khải mà Ki–tô giáo tuyên xưng rằng
không phải sự ác mà chính Thượng Đế mới có câu trả lời sau cùng.
Thượng Đế đã không cho phép sự ác xuất hiện, nếu Ngài không làm
phát sinh điều tốt lành từ chính sự ác đó
[7]. Thượng Đế của
Ki–tô giáo là một Đấng quá yêu thương con người, kể cả khi y trở
thành kẻ gian ác Ngài cũng không muốn y phải chết nhưng muốn y ăn
năn sám hối mà được sống
[8]. Ngài yêu thương con người đến mức
cho Con Một Ngài là Đức Giê–su Ki–tô trở thành người và gánh chịu
mọi tội lỗi và những hậu quả của nó (bao gồm sự chết) để nhờ đó
mà giải thoát con người khỏi sự ác. Như vậy từ sự dữ luân lý lớn
nhất, là cái chết của Con Một Ngài, Ngài đã rút ra những điều tốt
lành vĩ đại nhất, đó là việc tôn vinh Con Một Ngài và sự cứu độ
con người
[9]. Mặc dầu nhìn từ phía con người sự ác vẫn còn hiện
hữu và hoành hành, nếu không phải là ngày càng hung tợn hơn,
nhưng xét theo cái nhìn của Thượng Đế được tiếp nhận trong đức
Tin thì sự ác đã bị đánh bại trong căn bản rồi, chỉ chờ ngày khai
tử. Ngày khai tử đó chính là Ngày Cánh Chung, tức kết cục của
lịch sử nhân loại, là ngày mà chiến thắng của Thượng Đế đối với
sự ác mới được mặc khải rõ ràng cho mọi mắt phàm và mới được áp
dụng cách chung cục và toàn vẹn cho những tâm hồn thích hợp để
lãnh nhận nó. Trước ngày đó và bao lâu còn ở trên trần thế này
thì sự giải thoát toàn vẹn hay chiến thắng đang nói không phải là
đối tượng để thấy mà là đối tượng để tin, đối tượng của lòng
trông cậy, chờ đợi trong hy vọng chắc chắn. Dầu vậy, chiến thắng
đó cũng đang được cảm nghiệm phần nào bởi những tâm hồn biết đón
nhận nó bằng một đức Tin thích đáng. Như được minh chứng trong
đời sống các vị thánh của Ki–tô giáo, đức Tin càng được thanh
luyện, càng tinh ròng, càng hoàn hảo thì người tin càng cảm
nghiệm nhiều hơn, sâu hơn chiến thắng của Thượng Đế đối với sự
ác, cho dù người đó đang chịu đau khổ do sự ác gây ra. Dù xem ra
nghịch thường nhưng đúng thật là ai tin Thượng Đế cách hoàn hảo
thì càng chịu đau khổ lại càng cảm nghiệm hơn chiến thắng này của
Ngài, bởi vì Ngài đã chiến thắng sự ác bằng cách chịu đau khổ vì
nó, nhưng trong tình yêu thương tha thứ đối với con người.
III. Tri thức của con người về sự hiện
hữu của Thượng Đế và vấn đề trí năng con người ở trong hay ở
ngoài thế giới vật chất
Mãi cho đến gần cuối bài viết của tác
giả Hồ Trung Tú, người đọc dễ nghĩ rằng tác giả đang muốn chứng
tỏ rằng các nỗ lực về phía các thần học gia bảo vệ cho sự hiện
hữu và vai trò cần thiết của Thượng Đế không phải là làm chuyện
vô lý mà thực sự có ý nghĩa và cần thiết. Nhưng vậy mà không phải
vậy. Ở cuối bài viết tác giả mới đưa ra lập luận của chính mình
và tương đối hóa, nếu không phải là vô hiệu hóa, tất cả mọi nỗ
lực của con người muốn bàn về Thượng Đế. Lập luận của chính tác
giả tựu trung cho rằng nếu Thượng Đế có thì Ngài thuộc thế giới
tinh thần, phi vật chất, nhưng con người thuộc thế giới vật chất,
thuộc một hệ thống vũ trụ khác với hệ thống vũ trụ của Thượng Đế,
nên trí năng của con người không có khả năng để bàn về Ngài, dù
theo hướng khẳng định hay phủ định Ngài. Những công sức trước đó
của tác giả có vẻ nghiêm túc biện minh cho “rượu cũ” của các thần
học gia thật ra chỉ là một thứ đòn bẩy giúp làm trội hẳn lập luận
của chính tác giả nhằm tương đối hóa, vô hiệu hóa cả “rượu cũ”
lẫn “rượu mới”. Hai phía “rượu cũ” và “rượu mới” tranh luận qua
lại với nhau về vấn đề Thượng Đế, dầu phía “rượu cũ” lý luận có
vẻ hợp lý hơn, nhưng rốt cuộc tác giả vẫn trội hơn cả hai phía vì
tác giả chỉ ra được yếu điểm chung căn bản trong tư duy của cả
hai phía, một yếu điểm cả hai đều mắc phải mà không biết; nếu
biết được thì cả hai phía sẽ thấy rằng mọi lý luận dù bênh hay
chống Thượng Đế của mỗi phía thật ra không có giá trị gì. Trong
phần thứ ba của bài viết này tôi bàn đến những mâu thuẫn và sai
lầm hàm chứa trong lập luận nói trên của tác giả.
1. Phải chăng vấn đề hiện hữu của
Thượng Đế là chỗ bế tắc của trí năng con người?
Tác giả Hồ Trung Tú xem vấn đề hiện hữu
Thượng Đế là chỗ trí năng con người chịu bó tay, bởi vì theo lập
luận đã nói của tác giả, vấn đề đó lệ thuộc vào vấn đề khác mà
trí năng không có khả năng trả lời (có hay không), tức vấn đề
hiện hữu của một hệ thống nào khác ngoài vũ trụ vật chất: “Có hay
không một vũ trụ khác nữa, một vũ trụ phi vật chất của các thần
linh? Thượng Đế nếu có, là phi vật chất”. Có thể diễn giải thêm
về suy luận của tác giả như sau: Nếu có Thượng Đế có trong vũ trụ
vật chất thì trí năng con người có thể chứng minh được sự hiện
hữu của Ngài cũng giống như bao nhiêu hữu thể vật chất khác.
Nhưng vì trí năng không thể chứng minh được Ngài có trong vũ trụ
này, nên nếu Ngài có, thì Ngài phải thuộc về một vũ trụ khác,
“một vũ trụ phi vật chất của các thần linh” chẳng hạn. Nhưng cũng
theo tác giả, đây chính là chỗ bế tắc của trí năng con người, vì
chính trí năng đó thuộc về hệ thống vật chất của vũ trụ này, nên
nó không có khả năng thích hợp hay tương xứng
[10] để khám phá và
chứng minh sự hiện hữu của một hệ thống vũ trụ khác, một vũ trụ
phi vật chất chẳng hạn, và do đó nó cũng không có khả năng khám
phá hay chứng minh sự hiện hữu của một thực tại thuộc về cái vũ
trụ đó.
Nhưng
lập luận nói trên của tác giả không đứng vững vì những lý lẽ sau
đây:
Thứ nhất,
như sẽ nói dưới đây
[11] trí năng con người theo yếu tính là một
khả năng thuần túy tinh thần, một khả năng vô chất thể, nên xét
trong chính nó, nó không bị giới hạn vào hệ thống vũ trụ vật
chất: nó có khả năng biết được cách nào đó sự hiện hữu của những
gì không phải là vật chất.
Thứ hai, một trong những nguyên lý tất
yếu làm nền tảng cho hoạt động của trí năng con người (principia
per se nota) đó là nguyên lý nhân quả. Theo nguyên lý này trí
năng vẫn có thể chứng minh rằng Thượng Đế có thật, mặc dầu vẫn
không biết thích đáng Ngài là gì và cho dầu sự vô tri này – nếu
giả như tác giả đúng – là do Ngài không ở trong cùng một hệ thống
vật chất của vũ trụ này như trí năng con người. Thật vậy, nếu có
cái gì đó thuộc về vũ trụ vật chất này mà trí năng con người biết
được cách thích hợp, nhưng đồng thời không cái nào khác thuộc về
vũ trụ này mà trí năng biết được lại có thể giải thích thỏa đáng
hoặc sự hiện hữu, hoặc yếu tính, hoặc một thuộc tính nào đó của
cái đang nói, thì trí năng có lý mà kết luận sự hiện hữu, yếu
tính, hoặc thuộc tính vừa nói phải là hiệu quả của một nguyên
nhân nào khác, và không gì cấm trí năng xem nguyên nhân đó là
Thượng Đế cho đến khi chứng minh được điều ngược lại. Dù trí năng
vẫn chưa biết thích đáng Thượng Đế thực sự là gì, nhưng ít nữa nó
biết được: (1) Ngài có thật, bằng không hiệu quả đang nói đã
không thể có được; (2) Ngài không phải là cái nào trong tất cả
những gì thuộc về vũ trụ vật chất này mà trí năng biết được, bằng
không Ngài đã không phải là nguyên nhân của hiệu quả đang nói (vì
những gì thuộc vũ trụ này mà trí năng biết được đều không thể là
nguyên nhân của hiệu quả đang nói). Nếu phủ nhận nguyên lý nhân
quả như triết gia duy nghiệm David Hume đã làm, thì không chỉ
trong thực tế những thí nghiệm, khám phá khoa học rất khó xảy ra,
mà nhất là ngay cả tri thức con người nói chung và tri thức khoa
học nói riêng cũng bị phủ nhận luôn, vì lúc đó tri thức con người
chỉ thuần túy mang tính cách thường nghiệm, cá thể, và rời rạc
(nghĩa là nếu tri thức đó có đúng thì cũng chỉ đúng cho từng
trường hợp một). Dĩ nhiên một tri thức con người như thế sẽ không
cao hơn tri thức của thú vật bao nhiêu.
Thứ ba, vấn đề Thượng Đế có hay không
thật ra không lệ thuộc vào vấn đề có hay không một hệ thống vũ
trụ khác với vũ trụ vật chất này. Vì như đã nói trên
[12], để trả
lời câu hỏi tột cùng của triết học “Tại sao lại có cái gì thay vì
không có gì cả, bất luận nó là cái gì và bất luận nó có như thế
nào?”, trí năng con người đòi hỏi phải có sự hiện hữu của Thượng
Đế xét như là một thực tại mà yếu tính hay bản tính là hiện hữu,
là thực tại hiện hữu cách tất yếu do tự bản thân (hiện hữu tất
yếu tự tại). Cho nên hễ có bất cứ cái gì, dù nó là vật chất hay
vô chất thể, dù nó chỉ là một cá thể riêng biệt hay cả một tập
hợp, một hệ thống, nhưng nếu cái đó có không phải cách tất yếu
nội tại, thì nó buộc phải giả thiết sự hiện hữu của Thượng Đế để
giải thích sự hiện hữu bất tất của nó.
2. Mâu thuẫn về tương quan giữa vũ trụ
vật chất và thế giới của sự giác ngộ, giữa khả năng của con người
và công cụ của nhà Phật
Như vừa nói trên, theo tác giả “con
người dù tưởng tượng hoặc thông minh thế nào chăng nữa cũng vẫn
thuộc hệ thống vũ trụ [vật chất] này” và do đó “chưa có đủ công
cụ cần thiết để có thể tìm hiểu về Thượng Đế có thật hay không”,
vì nếu Ngài có Ngài ắt phải thuộc một hệ thống vũ trụ khác với
thế giới của con người. Nếu lập luận này của tác giả đúng, thì
phải đánh giá thế nào về cái “ví dụ khá hay” mà tác giả đưa ra ở
đoạn cuối “về một vũ trụ khác, thế giới quan khác là sự giác ngộ
của đạo Phật”? Cái ví dụ đó hay dở thế nào chưa biết, nhưng theo
lập luận đang nói tác giả phải kết luận rằng có hay không có “một
vũ trụ khác, thế giới quan khác là sự giác ngộ của đạo Phật” con
người vẫn không thể biết được. Thật vậy, làm sao mà con người
biết được nó trong khi con người thuộc về một hệ thống vũ trụ
khác với nó. Ngay cả lập luận chữa chạy gỡ gạc rằng “sự giác ngộ
của nhà Phật là không dựa trên nhận thức (bằng con đường lìa tri
kiến)” cũng không cứu được tác giả khỏi tự mâu thuẫn. Thật vậy:
bỏ qua vấn đề phải chăng sự giác ngộ của nhà Phật không thật sự
dựa trên nhận thức, và nhận thức phải hiểu theo nghĩa nào, chỉ
cần tác giả thừa nhận trong con người có khả năng giác ngộ, có
khả năng đạt đến cái thế giới giác ngộ là cái vũ trụ khác với vũ
trụ vật chất, thì bất luận cái khả năng đó là gì (là nhận thức,
là con đường “lìa tri kiến”, hay là bất cứ cái gì), sự kiện trong
con người có khả năng đó cũng đủ chứng tỏ rằng con người không
hẳn, không hoàn toàn thuộc về hệ thống vũ trụ vật chất này. Nói
cách khác, tác giả lại tự mâu thuẫn với tiền đề của lập luận đang
nói: con người chỉ thuộc về vũ trụ vật chất nên không có khả năng
đạt đến một vũ trụ nào khác với nó. Chấp nhận tiền đề này thì
thực tại tính của sự giác ngộ không tránh khỏi bị hoài nghi, bị
đặt thành vấn đề, còn trái lại khẳng định thực tại tính này thì
lại phải phủ nhận cái tiền đề đang nói.
Theo tác giả “một hệ thống khác ngoài
hệ thống vật chất của vũ trụ này có hay không, không biết, thế
nhưng với công cụ mà Phật giáo đem lại chúng ta đã có thể hình
dung về một tâm thế của con người khi có thể sánh ngang với
Thượng Đế”, nhưng đúng lý mà nói thì trước khi kết luận về giá
trị của “công cụ mà Phật giáo đem lại”, tác giả cần cho biết: vậy
cái công cụ đó, cái khả năng giác ngộ của nhà Phật thuộc hay
không thuộc về hệ thống vật chất của vũ trụ này? Theo tác giả
“vấn đề là chiếc thang nào, công cụ nào?”, ý tác giả chắc muốn
nói vấn đề là chiếc thang, công cụ thuộc về hệ thống nào, thuộc
về thế giới vật chất này hay thuộc về hệ thống khác với nó và nhờ
đó có khả năng thích hợp để biết những gì thuộc thế giới khác đó?
Tác giả đã không trả lời vấn đề then chốt đó là khả năng giác ngộ
của nhà Phật là công cụ nào, chiếc thang nào, thuộc về hệ thống
vũ trụ vật chất này hay thuộc một thế giới khác. Mà làm sao trả
lời được nếu tác giả vẫn suy tư trong logique đang nói của mình.
Thật vậy, nếu đã không biết có hay không có một hệ thống khác
ngoài hệ thống vật chất của vũ trụ này thì làm sao biết được công
cụ của nhà Phật thuộc về hệ thống nào khác hơn là vũ trụ vật chất
này. Có lẽ có lý mà trả lời rằng công cụ của nhà Phật cũng thuộc
về “hệ thống vật chất của vũ trụ này”, nhưng nếu vậy thì công cụ
này cũng chẳng có ích lợi gì, bởi vì lại là “lấy thước đo bầu
trời”. Thật vậy, làm sao một công cụ thuộc về thế giới vật chất
có thể giúp con người sánh ngang với Thượng Đế là Đấng mà theo
tác giả thuộc về một thế giới khác, thuộc về “vũ trụ phi vật chất
của các thần linh”?
3. Trí năng con người “ở trong” mà
không ở trong hệ thống vũ trụ vật chất
Tác giả Hồ Trung Tú nhận xét: “Lý
thuyết toán Hệ thống khẳng định, bản thân một hệ thống không thể
tự phát hiện ra mâu thuẫn”. Nhưng đó là mâu thuẫn gì? Nếu đó là
mâu thuẫn nội tại thì mâu thuẫn đó không thể phát hiện được lý do
bởi vì nó không có. Mỗi hệ thống toán học có logique riêng của
nó, theo đó thì không thể có mâu thuẫn giữa các định lý thuộc
cùng một hệ thống, không thể có mâu thuẫn giữa các định đề, các
tiền đề mà hệ thống giả thiết, và các định lý suy diễn từ chúng.
Bản thân của một hệ thống toán học không thể có mâu thuẫn nội
tại, bằng không thì nó không thể là một hệ thống toán học. Không
có mâu thuẫn nội tại, nhưng có thể có mâu thuẫn giữa hai hệ thống
toán học, và đúng là suy tư trong khuôn khổ của một hệ thống
không thể nào phát hiện mâu thuẫn đó. Nhưng không có gì cấm trí
năng con người suy tư ngoài khuôn khổ một hệ thống toán học, bỏ
khuôn khổ của hệ thống này để suy tư theo khuôn khổ của hệ thống
kia. Trí năng của nhà toán học nghĩ ra hệ thống này, hệ thống
kia, đương nhiên có khả năng vượt lên trên các hệ thống mà mình
lập ra. Lại càng không có gì cấm trí năng của triết gia suy tư ở
trên mọi khuôn khổ của khoa học, kể cả toán học, để khám phá ra
những nguyên lý nền tảng nhất của mọi suy tư khoa học. Nói sơ
lược như trên là để thấy dùng logique của toán học để đánh giá
suy tư triết học, chưa nói đến niềm tin tôn giáo, không những là
đi trật đường rail mà còn đang lấy cái thấp để đo lường cái cao
hơn trong lãnh vực tri thức khả niệm.
Rồi chưa kể đâu là sự tương xứng khi so
sánh một hệ thống toán học (hay bất kỳ hệ thống toán học nào) với
hệ thống vũ trụ vật chất này? Chắc chắn có những tương xứng,
nhưng bất tương xứng lại càng nhiều hơn. Càng vô lý hơn khi cho
rằng trí năng con người suy tư khi đang ở trong vũ trụ vật chất
này cũng giống như trí năng của nhà toán học khi chọn suy tư
trong khuôn khổ của một hệ thống toán. Chữ “trong” trong hai
trường hợp đồng nghĩa thì ít, nhưng dị nghĩa thì nhiều. Khi chọn
suy tư trong khuôn khổ của một hệ thống toán nhà toán học đã giới
hạn suy luận của mình theo logique của hệ thống đó, nhưng từ sự
kiện con người đang ở trong vũ trụ vật chất không có thể kết luận
rằng suy tư của trí năng con người cũng giống như một hoạt động
vật chất trong cái vũ trụ đó, nghĩa là cũng lệ thuộc và bị giới
hạn trong hệ thống các định luật vật chất mà theo đó cái vũ trụ
đó tồn tại và vận hành. Chỉ có thể kết luận như vậy khi tiên
thiên (a priori) chấp nhận lập trường duy vật mà cho rằng trí
năng của con người cũng chỉ là một thực tại vật chất.
Mặc dù ở đây không phải là chỗ dùng lý
luận triết học để chứng minh trí năng con người theo yếu tính là
khả năng thuần túy tinh thần, là khả năng vô chất thể
[13], nhưng
không thể không khẳng định rằng con người vừa “thuộc về hệ thống
vũ trụ này” vừa không thuộc về nó. Có gì đó trong con người vượt
lên trên vũ trụ vật chất: cái đó là trí năng hay khả năng tri
thức khả niệm. Bên cạnh có thân xác, một thực tại vật chất, con
người còn có gì đó mà theo bản tính không bị giới hạn vào bất kỳ
định luật nào của thế giới vật chất: cái đó là linh hồn hay một
thứ bản thể mà tri năng là khả năng của nó. Nếu con người chỉ
thuần túy là một hữu thể vật chất, chỉ thuần túy là một động vật
dù là động vật cao nhất, thì không đợi đến vấn đề Thượng Đế có
hay không, mà ngay cả tri thức khoa học có hay không đã là một
vấn đề. Trong thế giới động vật chỉ có mỗi một mình con người là
có tri thức khoa học, có khả năng làm khoa học. Chính vì con
người còn là gì khác hơn là một động vật cho nên có thể “lấy
thước đo bầu trời”. Để “đo bầu trời”, con người không phải đi tìm
ở đâu khác “chiếc thang nào”, “công cụ nào”, “thước đo” nào. Con
người đã có sẵn trong mình cái trí năng, cái khả năng mà Thượng
Đế đã ban khi tạo dựng con người. Nhà khoa học chỉ ở trên trái
đất mà vẫn tính được những khoảng cách trong “bầu trời”, những
khoảng cách phải đo bằng hàng trăm, hàng ngàn năm theo vận tốc
ánh sáng, mặc dù con người không có cái thước đo nào dài quá
khoảng cách ánh sáng đi trong một giây. Chuyện con người có thể
“lấy thước đo bầu trời” không chỉ có thật theo nghĩa đen mà còn
theo cả nghĩa bóng!!!
4. Vật chất không đối nghịch, loại trừ
tinh thần nhưng tất yếu cần đến tinh thần
[14]
Tác giả có lý khi đặt câu hỏi: “Liệu
con người đã có một ý niệm nào về một vũ trụ phi vật chất chưa?”
Mọi tri thức tự nhiên của con người, kể cả tri thức khả niệm
(connaissance intellectuelle), đều khởi sự từ tri thức giác
quan/khả giác (connaissance sensible) và phần nào lệ thuộc vào
nó. Thế mà đối tượng thích hợp của tri thức giác quan là các thực
tại vật chất khả giác, cho nên phải rất cẩn thận, bằng không khi
suy tưởng về các thực tại tinh thần, vô chất thể, người ta sẽ dễ
dàng sa vào cạm bẫy tưởng tượng chúng theo các phạm trù thực ra
chỉ áp dụng cho các thực tại vật chất khả giác. Chính vì hiểu
tinh thần theo kiểu vật chất mà người ta mới xem tinh thần là
thực tại đối nghịch, loại trừ vật chất. Nói cách khác, chính vì
vô tình đã đặt tinh thần trên cùng một bình diện với vật chất, vô
tình đã xếp cái trước trong cùng một lãnh vực với cái sau, thì
người ta mới thấy hai thực tại đó thật sự đối nghịch, loại trừ
nhau. Nhiều quan niệm triết học thuộc lập trường nhất nguyên
(monisme), duy vật (matérialisme) lẫn duy tâm (idéalisme), hoặc
lập trường nhị nguyên (dualisme) đã không tránh được cạm bẫy này
– đúng là hai quan niệm đối nghịch nhau có thể là hai mặt của
cùng một sai lầm. Xem ra tác giả cũng không tránh được cạm bẫy
nói trên khi cho rằng rằng tinh thần không có trong vật chất, cho
nên nếu con người đang ở trong vũ trụ vật chất, thì không chỉ
trong con người không thể có gì là tinh thần, là vô chất thể
[15], mà con người còn không thể có cách nào tiếp cận được với vũ
trụ hay thế giới tinh thần. Nhưng chắc gì một cái không thể ở
trong một hệ thống vật chất thì cái đó là tinh thần? Trái lại có
lý mà nghĩ rằng cái đó cũng có thể là một thực tại vật chất khác,
một hệ thống vật chất khác, vì một thực tại vật chất ở một nơi
bằng cách chiếm chỗ nơi đó, nên một thực tại vật chất thứ hai
không thể có cùng một nơi với cái thứ nhất trừ phi trong cái
không gian đó vẫn còn có chỗ chưa bị chiếm và cái thứ hai có khả
năng vào trong đó được. Đáng lẽ tác giả phải hiểu rằng chính vì
tinh thần và vật chất thuộc hai bình diện, hai lãnh vực khác nhau
(xét về mặt siêu hình học, chứ không phải về mặt vật lý học), nên
một thực tại tinh thần có thể ở trong một thực tại vật chất mà
không giống như cái sau ở trong không gian hay ở trong một cái
vật chất khác?
Chính thật ra không thể có thực tại khả
giác nào là vật chất thuần túy vì vật chất thuần túy hay chất thể
đệ nhất (materia prima) không thể hiện hữu một mình được (nó chỉ
thực sự hiện hữu như là thành phần của một cái khác). Không những
thế, vật chất thuần túy thì bất khả tri, không thể là đối tượng
của tri thức (kể cả tri thức giác quan). Cho nên theo triết học
Công Giáo, bất cứ cái gì khả giác, dù thường gọi là những cái
thuộc thế giới vật chất, đều tất yếu có yếu tố khả tri và do đó
mang tính tinh thần ít nhiều trong nó rồi, nghĩa là được xác định
bởi các mô thức (forma/forme) nào đó rồi. Để chỉ về mô thức của
một thực tại khả giác, triết học Hy Lạp không chỉ dùng danh từ
“morphê” mà đặc biệt còn dùng danh từ “eidos” (idea, idée), tức
là dùng chung một danh từ cho cả mô thức của một thực tại khả
giác bên ngoài và ý tưởng trong trí năng con người về thực tại
đó, mà ý tưởng là một yếu tố tinh thần, một yếu tố vô chất thể.
Thật ra, mọi thực tại khả giác đều có mức lượng (bao gồm chiều
hướng, trương độ, v.v.), một mô thức tùy thể mang tính tinh thần
thấp nhất, nhưng thích hợp và tất yếu gắn liền với mỗi bản thể
vật chất. Nhờ mô thức lượng (quantitas/quantité) mà mỗi bản thể
vật chất là một toàn thể được phân chia thành những thành phần
phân biệt, vừa được sắp xếp theo những trật tự hay vị trí nhất
định đối với nhau xét theo bên trong bản thể đó, vừa lan ra,
chiếm chỗ trong tương quan với không gian bên ngoài bản thể đó.
Tinh thần ở trong mỗi thực tại khả giác và cụ thể không chỉ như
là những tùy thể (đi theo, đi liền với một bản thể, cách tất yếu
hay không) như mức lượng và phẩm tính (qualitas/qualité), mà còn
là thành phần căn bản cấu thành chính yếu tính hay bản thể của
nó. Mỗi thực tại khả giác và cụ thể tất yếu phải là sự hiệp nhất
từ hai nguyên lý căn bản: nguyên lý mang tính tinh thần là mô
thức bản thể (forma substantialis/forme substantielle) và nguyên
lý mang tính vật chất là chất thể (materia, matière) mà nền tảng
sau cùng là chất thể đệ nhất. Nguyên lý trước kết hiệp với nguyên
lý sau để xác định cái thực tại hình thành từ sự hiệp nhất đó là
cái gì, là hữu thể thuộc loại nào, phân biệt với những loại hữu
thể khác, và cũng nhờ vậy mà xác định cái sau, làm cho nó trở nên
thân thể (corpus/corps) hay một toàn thể vật chất của cái thực
tại cụ thể và khả giác đang nói (trong trường hợp những loại thực
tại khả giác có sự sống thì nguyên lý sau còn được gọi là xác).
Nguyên lý chất thể kết hiệp với nguyên lý mô thức để giới hạn cái
thực tại hình thành từ sự hiệp nhất của chúng thành một cá thể
phân biệt với các cá thể khác trong cùng một loại hữu thể như nó,
và cũng vì vậy mà giới hạn cái trước, cá thể hóa nó thành mô thức
bản thể của một thực tại khả giác và cụ thể (trong trường hợp
những loại thực tại khả giác có sự sống thì nguyên lý trước
thường được gọi là hồn). Trong lúc vật chất thuần túy không thể
hiện hữu một mình được và tất yếu cần đến tinh thần, thì tinh
thần thuần túy lại được, và đó là các tinh thần mà sự hoàn hảo
của nó không cần nó phải kết hợp với bất kỳ chất thể nào, đó là
các tinh thần theo bản tính không có xác. Các tinh thần đó là các
mô thức bản thể lập hữu (esse per se et in se) như những thực tại
toàn vẹn (nên mỗi loại chỉ được thể hiện nơi một thực tại cụ thể
duy nhất). Các thiên sứ hay thiên thần của Ki–tô giáo (bao gồm cả
các thiên sứ phản loạn tức lũ quỷ) là các tinh thần thuần túy như
thế. Hồn con người là tinh thần thuần túy nhưng không toàn vẹn,
nên bản tính kém hơn các thiên sứ. Linh hồn là một mô thức bản
thể lập hữu nhưng không phải như một thực tại toàn vẹn, mà như
một nguyên lý thành phần của bản thể người hay nhân tính. Tuy
thuần túy vô chất trong chính nó, nhưng linh hồn theo bản tính
vẫn cần phải mô hiệp với một chất thể tương xứng để hình thành
nên con người cụ thể.
5. Tinh thần hiện hữu trong vật chất
theo cách siêu việt
Để thực sự hiện hữu cũng như để khả
tri, mọi thực tại cụ thể và khả giác của thế giới vật chất tất
yếu cần có các yếu tố tinh thần trong nó. Những gì vừa nói trên,
không những cho thấy rõ như thế, mà còn ám chỉ rằng tinh thần ở
trong vật chất không phải như vật chất ở trong vật chất nhưng
theo một cách siêu việt. Càng lên cao trong lãnh vực hay bình
diện tinh thần, thì tinh thần ở trong vật chất bằng cách càng
siêu việt những giới hạn của nó, càng ít lệ thuộc vào nó, nhưng
trái lại khiến nó càng lệ thuộc vào tinh thần.
Đối với một thực tại cụ thể và khả
giác, thì tinh thần có thể là toàn thể của một yếu tính nào đó
(totus essentiae) có trong thực tại đó. Cái tinh thần này ở trong
một thực tại cụ thể và khả giác mà không cần (và thật sự là vậy)
tương xứng với toàn thể của lượng (totus quantitatis) ở nơi mà
thực tại đó chiếm chỗ. Vì thế mà bản thể hay toàn thể của cái yếu
tính định nghĩa một thực tại cụ thể và khả giác, chẳng hạn như
bản thể của một tấm bánh, thì ở dưới các chiều kích của thực tại
đó mà không giống như ở trong một nơi, nhưng theo cách bản thể,
bằng không thì tùy theo chiều này, hướng nọ, vị trí kia mà không
những có những thay đổi này nọ đối với cùng một tấm bánh, mà ngay
cả chính bánh cũng sẽ không còn thực sự là bánh nữa. Ngay cả toàn
thể yếu tính của một mô thức phẩm, chẳng hạn như toàn thể yếu
tính trắng trên bề mặt của tấm bánh trắng, có trọn vẹn trong toàn
thể lượng (lượng mà một mô thức phẩm có không phải cách tất yếu)
cũng như trong mỗi phần mà toàn thể lượng phân chia ra: mỗi phần
được phân ra từ bề mặt trắng của tấm bánh cũng trắng như toàn bộ
bề mặt.
Kế đến
là hồn con người, một thực tại tinh thần đúng nghĩa và ở trên mọi
thứ tinh thần khác có trong các thực tại cụ thể và khả giác khác
mà không phải là con người. Là một thứ bản thể tinh thần như đã
nói, nên linh hồn bất khả phân, không có thành phần dù của lượng
(pars quantitatis) hay của yếu tính (pars essentiae)
[16]. Vì
không cấu thành bởi bất cứ loại thành phần nào, nên đúng nghĩa mà
nói linh hồn không phải là toàn thể nhờ trong chính nó (per se)
hay tùy theo cái khác (per accidens), mà chỉ là toàn thể theo
nghĩa nó là thực tại có mọi hoàn hảo theo định nghĩa của nó. Linh
hồn ở trong mỗi thành phần của thân xác với trọn vẹn yếu tính của
linh hồn. Rồi cũng phải hiểu rằng linh hồn ở trong thân xác không
giống như một thực tại vật chất bị bao hàm bởi cái mà nó ở trong:
linh hồn ở trong thân xác bằng cách bao hàm nó chứ không phải bị
nó bao hàm.
Sau cùng đến các thụ tạo chỉ là tinh thần thuần túy, tức là các
bản thể không có xác, thì các thụ tạo như thế lại càng siêu việt
vật chất hơn cả linh hồn. Một tinh thần thuần túy không ở trong
một nơi bằng sự tiếp xúc nào theo lượng chiều hướng, không chiếm
chỗ nơi đó (nên không loại trừ bất cứ bản thể vật chất nào ra
khỏi nơi đó), không bị đo lường xung quanh bởi nơi đó
(circumscriptive), không bị bao hàm trong nơi đó, nhưng trái lại
bao hàm nơi đó bằng quyền năng mà tinh thần ấy tác động lên nơi
đó theo bất cứ cách nào. Một thực tại vật chất chẳng hạn như thân
xác chỉ ở trong một nơi bằng sự tương xứng của lượng mang tính
chiều hướng thuộc thân xác đó đối với lượng của nơi đó, do đó
chiếm chỗ nơi đó (loại trừ khỏi nơi đó một số thân xác nào khác)
và được đo lường bởi nơi đó.
6. Thượng Đế ở trong mọi sự theo cách
siêu việt mà chỉ mình Ngài mới có
Thượng Đế là Đấng từ hư vô (hoàn toàn
không có gì cả) mà tạo dựng mọi sự, tinh thần lẫn vật chất, nên
Ngài ở trong chúng theo cách mà chỉ riêng mình Ngài mới có, trỗi
vượt mọi cách thức mà các tinh thần thụ tạo có thể hiện hữu trong
vật chất. Giả như cho dù không có thực tại nào khác ngoài Thượng
Đế và trong trường hợp đó không còn có vấn đề Ngài có ở trong
chúng hay không, ở trong chúng như thế nào, thì Ngài vẫn có cách
hoàn hảo không hơn, không kém. Nhưng sự thật là Thượng Đế đã tạo
dựng nên các thực tại khác, nên mới có chuyện Ngài ở trong mọi
thực tại mà Ngài tạo dựng, dĩ nhiên không phải như thành phần của
yếu tính (pars essentiae) nơi chúng (không giống như linh hồn ở
trong mỗi người như là mô thức của nhân tính), cũng không phải
như một thứ tùy thể (accidens) của chúng (không giống như cả vũ
trụ vật chất bao la ở trong con người khi con người nghĩ về nó).
Mặc dầu cách thức mà Thượng Đế ở trong mọi thực tại khác vượt quá
trí hiểu của con người, trí năng vẫn có thể khẳng định được vài
điểm như sau về siêu việt tính của cách đó.
(1) Thượng Đế ở trong mọi thực tại Ngài
tạo dựng vì Ngài trực tiếp tác động trên tất cả cũng như mỗi một
thực tại, không chỉ nhờ quyền năng của Ngài bao trùm mỗi và mọi
cái (không thực tại nào vượt ra ngoài quyền năng của Ngài), cũng
không chỉ nhờ trí năng của Ngài bao quát và thấu triệt mỗi và mọi
cái (không gì có thể ẩn giấu mà trái lại phơi bày rõ ràng trọn
vẹn trước trí năng của Ngài), mà nhất là còn nhờ bản thể hay yếu
tính của Ngài, vì tất yếu tự hữu (là hiện hữu tất yếu nội tại),
nên là nguyên nhân trực tiếp của mỗi và mọi thực tại khác bao lâu
mà chúng còn có. Bao lâu mà một thực tại thụ tạo có hay hiện hữu
(habet esse), thì tất yếu bấy lâu Thượng Đế hiện diện nơi nó theo
như cách thức mà nó có (secundum modum quo esse habet). Bởi vì có
hay hiện hữu (esse) là điều sâu thẳm nhất và nền tảng nhất trong
mỗi thực tại, cho nên Thượng Đế không những ở trong mọi thực tại
mà ở trong chúng cách sâu xa nhất.
(2) Thượng Đế ở trong mọi thực tại thụ
tạo, nên dĩ nhiên Ngài cũng ở trong mọi nơi chốn (locus) của vũ
trụ vật chất, là thụ tạo của Ngài. Vì nơi chốn cũng là một thứ
thực tại cho nên Thượng Đế ở trong một nơi bằng cách trực tiếp
cho nó hiện hữu và khả năng nơi chốn, cũng như bằng cách trung
gian qua bản thể vật chất chiếm chỗ nơi đó. Như thế theo cách
trung gian này Ngài ở một nơi mà không đích thân chiếm chỗ nơi đó
(không giống như một bản thể vật chất ở nơi nào thì chiếm chỗ nơi
đó, loại trừ khỏi nơi đó các bản thể vật chất khác), nhưng ban
hiện hữu cho cái bản thể vật chất đang chiếm chỗ nơi đó.
(3) Thượng Đế ở khắp mọi nơi trong vũ
trụ vật chất mà không bị bao hàm trong cái vũ trụ đó hay trong
bất kỳ nơi nào trong nó, trái lại Ngài bao hàm vũ trụ này và mọi
nơi trong nó bằng quyền năng của Ngài áp dụng trên cả vũ trụ này
và trên mọi nơi trong nó (không giống như các
[17] tinh thần
thuần túy được Ngài tạo dựng, tuy không bị bao hàm trong một nơi
nào cả hay bị đo lường bởi nó, nhưng mỗi tinh thần thuần túy chỉ
có thể ở trong một nơi nhất định vào một lúc nhất định vì quyền
năng của nó mỗi lúc chỉ có thể tác động lên một nơi nhất định
thôi).
(4)
Thượng Đế ở khắp nơi trong vũ trụ vật chất này cách tiên quyết
(primo), vì Ngài ở khắp nơi không phải theo thành phần của hữu
thể Ngài (vì Ngài tuyệt đối đơn thuần, hoàn toàn bất khả phân,
không thể có thành phần) nhưng theo chính trọn vẹn yếu tính hay
bản thể Ngài (không giống như toàn thể vũ trụ ở khắp nơi nhưng
chỉ theo thành phần của nó chứ không trọn vẹn ở mỗi nơi). Ngài
cũng ở khắp mọi nơi cách tuyệt đối, nghĩa là nhờ qua chính mình
Ngài (per se), chứ không giả thiết hay nhờ vào cái gì khác (không
giống như một bản thể vật chất có thể ở khắp nơi trong vũ trụ
nhưng chỉ với điều kiện là trong toàn bộ không gian của vũ trụ
không có bản thể vật chất nào khác).
IV. “Thượng Đế” của Phật Giáo hay Thiên
Chúa của Ki–tô Giáo? “ngang tầm” với “Thượng Đế” hay trở nên con
cái của Thiên Chúa?
Như người đọc đã thấy những công sức
của tác giả Hồ Trung Tú từ đầu bài cho đến gần cuối biện minh cho
“rượu cũ” của các thần học gia thật ra chỉ là một thứ đòn bẩy
giúp làm trội hẳn lập luận của chính tác giả nhằm tương đối hóa,
vô hiệu hóa cả “rượu cũ” lẫn “rượu mới”. Nhưng đến đoạn kết của
bài viết thì người đọc lại thấy chính lập luận này lại trở thành
một thứ đòn bẩy mới cho “cách tiếp cận của nhà Phật”, bảo bối sau
cùng của một Phật tử như tác giả. Trong lúc lập luận của chính
tác giả nhằm vô hiệu hóa mọi lý luận của cả “rượu cũ” lẫn “rượu
mới”, cho thấy cả hai phía không có khả năng thích hợp để chứng
minh có hay không có Thượng Đế, thì “cách tiếp cận của nhà Phật”
còn đi xa hơn nữa: cho dù chứng minh được có hay không có Thượng
Đế, thì đối với Phật Giáo chính Thượng Đế không còn quan trọng
mấy, vì Phật Giáo có khả năng làm cho con người thành ngang hàng
với Thượng Đế nên không còn cần phải tôn thờ Ngài nữa. Ở phần
trước tôi đã chỉ ra mâu thuẫn nội tại của tác giả giữa lập luận
của chính tác giả và giá trị mà tác giả gán cho “cách tiếp cận
của nhà Phật”, cho “công cụ” của Phật Giáo (xem III.2). Ở phần
sau cùng này tôi sẽ nhắm vào những vấn đề hay khó khăn hàm chứa
trong cách tiếp cận này
[17]. Thật vậy, nếu hiểu đúng giáo lý nhà
Phật về vô ngã, thì người ta sẽ thấy “cách tiếp cận của nhà Phật”
không có hy vọng mấy đối với đa số các Phật tử nên nó không “khá
hay” như tác giả nghĩ. Còn nếu tin và hiểu Thượng Đế không phải
theo ý nghĩa mà Phật Giáo gán cho Ngài, nhưng theo mặc khải của
Ngài được Ki–tô giáo tiếp nhận trong đức Tin, thì một cách tiếp
cận như kiểu Phật Giáo không những vô lý, vô luân, mà còn không
ăn nhập với những gì Ki–tô giáo tuyên xưng về tình yêu thương của
Thượng Đế đối với con người.
1. Làm gì có “mình” để mà “phải biết
cách kéo mình lên ngang tầm” với Thượng Đế?
Theo tác giả, thì đối với Phật Giáo vấn
đề có hay không có Thượng Đế không quan trọng, vấn đề là “nếu
Thượng Đế có... thì ta làm gì mới là quan trọng. Ta sụp lạy ư?
Tinh thần đạo Phật thì bảo lạy hoặc khúm núm trước bất cứ ai, cho
dù đó là Thượng Đế, thì không đáng là người, hãy choàng vai
Thượng Đế mà đi uống cà phê hoặc ngồi uống trà ngang hàng với ổng
mà không một chút áy náy, mới là điều quan trọng cần đạt tới”.
Nói cách khác, vấn đề đối với Phật Giáo đó là nếu có Thương Đế
thì con người “phải biết cách kéo mình lên ngang tầm” với Ngài.
Nói thế đương nhiên phải giả thiết là có “mình” rồi thì mới có
chuyện làm sao phải “kéo mình” lên ngang tầm với Thượng Đế.
Nhưng theo đức Phật dạy thì làm gì có
“mình” hay “tôi”, làm gì có bản ngã cá nhân (atta/atman). Nhiều
Phật tử trong thực tế khi nói đến chuyện luân hồi, tái sinh “của
mình”, phải lo nghĩ đến các kiếp sau “của mình” (hay như tác giả
ở đây nói đến chuyện phải biết kéo “mình” lên ngang tầm với
Thượng Đế), v.v. đã vô tình gây hiểu lầm về giáo lý căn bản của
đức Phật về “vô ngã” (anatta/anatman). Vô ngã là một trong những
điểm đồng thuận căn bản chung cho hầu hết mọi trường phái Phật
Giáo (Theravada cũng như Mahayana). Không những bản ngã đồng nhất
và trường tồn của mỗi người không thể là một trong các uẩn (sắc,
thụ, tưởng, hành, thức) cũng như tập hợp của cả ngũ uẩn
(skandha), mà thật ra một thứ bản ngã như thế cũng không thể có.
Cái gọi là “tôi” có ý nghĩa quy ước hơn là thực tại tính. “Tôi”
nếu có họa chăng chỉ là một thứ trung tâm tạm thời hiệp nhất mọi
hành vi tinh thần trong kiếp hiện tại (“tôi” chỉ thuần túy xét
theo trách nhiệm luân lý của những gì làm trong kiếp hiện tại,
chứ không phải là một thực tại nền tảng, một chủ thể siêu hình,
một bản thể có trí năng và tự do). Những hành vi của “tôi” hiện
tại vừa mang những vết tích của những hành vi tham, sân, si hay
nghiệp của kiếp trước (karma), phần nào như là hậu quả của chúng,
vừa ảnh hưởng lên việc tái sinh ở kiếp sau, phần nào như là
nguyên nhân của nó. Có sự liên tục giữa các kiếp, tức sự liên kết
nhân quả luân lý giữa chúng, như một thứ dòng chảy không ngừng và
không có khởi đầu của các karma và chỉ chấm dứt với sự giác ngộ
[18]. Nhưng chỉ có thế thôi, không có chuyện cùng một cái “tôi”
xuyên suốt mọi kiếp, không có một bản ngã đồng nhất là chủ thể
siêu hình của mọi hành vi kiếp này cũng như kiếp trước lẫn kiếp
sau, hay sau sau nữa. Nói cách khác “tôi” của kiếp trước khi chết
là hết, là chấm dứt hẳn, còn “tôi” tái sinh trong kiếp này, tuy
theo luật nhân quả chịu ảnh hưởng của các hành vi kiếp trước,
cũng vẫn không phải là “tôi” của kiếp trước. Rồi cũng vậy “tôi”
chết đi của kiếp này và cái tái sinh ở kiếp sau là hai người (nếu
cái tái sinh kiếp sau là người mà không phải là thú vật) hay hai
cá thể khác nhau, cho dù cái tái sinh ở kiếp sau chịu ảnh hưởng
của những gì mà “tôi” của kiếp này làm. Như thế một là tôi thành
công kéo mình lên ngang tầm với Thượng Đế trong kiếp này, hai là
tôi sẽ không bao giờ có thể làm được điều đó, bởi vì khi kiếp này
kết thúc thì tôi cũng chấm dứt hẳn, còn người (hay thú vật) tái
sinh ở kiếp sau do ảnh hưởng của những gì tôi làm trong kiếp này
vẫn không thể nào là tôi nhưng là một người (hay một sinh vật)
hoàn toàn khác. Cho nên chuyện người hay thú vật tái sinh ở kiếp
sau có thành công trở nên ngang hàng với Thượng Đế hay không thật
ra chẳng có ăn nhằm gì với “tôi” của kiếp này cả: chuyện đó không
còn quan trọng với tôi nữa.
Nhưng không phải chỉ có thế: “vô ngã”
của nhà Phật có hậu quả còn đi xa hơn chuyện trở nên ngang hàng
với Thượng Đế. Vấn đề quan trọng nhất, vấn đề tối ưu của một Phật
tử là làm sao giác ngộ để thoát khỏi vòng tái sinh, luân hồi bất
tận. Nhưng trừ phi “tôi” của kiếp hiện tại tu thành chánh quả,
đạt được sự giác ngộ để thoát khỏi vòng luân hồi trong kiếp này,
bằng không tôi mất hết hy vọng. Thật vậy, bởi vì cái tái sinh
trong kiếp sau do nghiệp tôi làm trong kiếp này không thể nào là
tôi, nhưng là một người khác tôi hay một cá thể khác tôi, cho nên
người đó hay đúng ra bất cứ người nào, thú vật nào ở bất cứ kiếp
nào khác, vì không phải là tôi, nên có giác ngộ được hay không
cũng chẳng quan trọng gì với tôi cả, vì một người, một cá thể
không phải là tôi giác ngộ chứ đâu có phải tôi giác ngộ. Mà hầu
chắc tôi mất hết hy vọng thật, bởi vì theo Phật Giáo đại đa số
chúng sinh phải cần rất nhiều kiếp mới có thể giác ngộ, chứ rất
khó có ai có thể giác ngộ ngay trong một kiếp
[19].
2. Dù có “kéo mình lên ngang tầm” với
“Thượng Đế”, thì đó cũng không phải là chuyện quan trọng vì ngài
cũng chỉ là vị Thượng Đế của Phật Giáo
Đa phần những gì tác giả Hồ Trung Tú
hiểu về danh từ Thượng Đế, dù có đủ thứ hạn chế, cũng xuất xứ từ
Ki–tô giáo. Đối với một Thượng Đế siêu việt theo nghĩa Do Thái và
Ki–tô giáo, nhà Phật vừa không thể nghĩ ra được, vừa tiên thiên
(a priori) phủ nhận chiếu theo quan niệm của mình về thực tại.
Thật vậy, không những khẳng định quá trình luân hồi u minh không
có khởi đầu mà Phật Giáo, theo quan niệm Ấn Độ cổ truyền, còn chủ
trương các chu kỳ/các vòng diễn biến (samsara) của vũ trụ như
chuỗi vô tận của những tiến hóa, sụp đổ và phân tán. Phật Giáo
không thấy cần đến mà còn phủ nhận một Thượng Đế tạo dựng mọi sự
từ hư vô. Đối với sự hiện hữu của bất kỳ thực tại nào, cũng như
đối với cách thức hiện hữu của nó, Phật Giáo dừng lại ở những
nguyên nhân tự nhiên của nó, từ chối đi xa hơn mà đặt những câu
hỏi siêu hình tận căn trước tiên là “Tại sao lại có cái gì thay
vì không có gì hết cả?” rồi kế đến “Nếu có, thì tại sao cái có
phải có thế như thế này mà không có như thế kia?”.
Rốt cuộc nếu có vị Thượng Đế nào mà ý
nghĩa của danh từ “Thượng Đế” có thể được Phật Giáo chấp nhận,
thì đó chính là thần Bà–la–môn (Brahma) của Ấn Giáo cổ truyền,
một vị thần mà siêu việt tính thật sự của ngài đối với với Phật
Giáo chỉ là tương đối và hữu hạn. Cho rằng thần Bà–la–môn dựng
nên mọi sự trong vũ trụ là điều ngớ ngẩn và lầm lẫn không những ở
nơi các kẻ tôn thờ ngài mà còn của chính ngài. Là hữu thể đầu
tiên xuất hiện trong chu kỳ hiện tại của vũ trụ và với ước muốn
tự nhiên có những hữu thể khác ở với mình, thần Bà–la–môn dễ lầm
tưởng mình tạo dựng những hữu thể kia nhờ ý muốn của mình một khi
thấy chúng xuất hiện. Trong lúc đó theo Phật Giáo mọi hữu thể
trong chu kỳ hiện tại của vũ trụ, gồm cả chính hữu thể đầu tiên
là thần Bà–la–môn, đều phát sinh từ những nguyên nhân vô ngã căn
cứ trên nghiệp (karma) của các kiếp trước. Đối với một Thượng Đế
hiểu theo kiểu Phật Giáo thì siêu việt tính của ngài rõ ràng
không còn là chuyện bất khả dĩ đối với con người. Bỏ qua những
khó khăn nội tại do chủ trương “vô ngã” gây ra (như đã chỉ ra ở
trên) để tạm thời xem như có nghĩa nếu một Phật tử nói rằng một
người thực hiện thành công Bát Chánh Đạo đương nhiên kiếp sau hay
một kiếp sau nữa, sau nữa, có thể “kéo mình lên ngang tầm” với
ngài, “có thể ngồi uống trà ngang hàng với Thượng Đế”. Trong
trường hợp đó có thể đồng ý với nghi vấn của tác giả là khi con
người có thể ngang hàng với một Thượng Đế kiểu Phật Giáo thì
“chuyện Thượng Đế có thật hay không có thật, có còn là chuyện
quan trọng đáng để bàn hay không”. Thật ra theo Phật Giáo, chuyện
đó lại càng không quan trọng để bàn đối với một người đã được
giác ngộ (chẳng hạn như Đức Thích Ca), vì người đó siêu việt cả
chính Thượng Đế. Bởi lẽ dù tái sinh vào tình trạng cao nhất trong
lục đạo, Thượng Đế Bà–la–môn vẫn còn thuộc vòng luân hồi nhân
quả, trái lại người giác ngộ thì đạt được sự giải thoát đích thật
khỏi mọi tái sinh luân hồi.
3. Thiên Chúa của Ki–tô Giáo – “Bình
Mới” cho “Rượu Mới”
Vấn đề Thượng Đế của Phật Giáo nói như
trên cũng đã quá đủ rồi vì đó không phải là “chuyện quan trọng
đáng để bàn”, bây giờ đến lúc phải nói về Thượng Đế của Ki–tô
giáo. Nhưng để cho danh chính ngôn thuận, từ đây trở về sau tôi
sẽ gọi Ngài là “Thiên Chúa” vì đó là danh từ chính thức mà ngôn
ngữ Ki–tô giáo Việt Nam vẫn dùng. “Bình mới” (danh từ) thích hợp
đựng “rượu mới” (nội dung, ý nghĩa của danh từ).
Dùng danh từ “Thiên Chúa” không chỉ để
chính danh mà nhất là còn để tránh những ngộ nhận, dù vô tình,
đến từ việc dùng danh từ “Thượng Đế”. Thật vậy, dùng cùng một
danh từ Thượng Đế, nhưng tùy theo ảnh hưởng tôn giáo và triết học
khác nhau, người ta có thể hiểu về danh từ đó không giống nhau,
chẳng hạn một Phật tử có thể hiểu danh từ Thượng Đế theo ý nghĩa
của Phật Giáo hơn là theo ý nghĩa truyền thống nói chung của ba
tôn giáo độc thần là Do Thái, Ki–tô, và Hồi Giáo. Dùng cùng một
danh từ nhưng không hiểu theo cùng một ý là chuyện thường xảy ra
và khó tránh trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Nguyên nhân phần
lớn cũng là những giới hạn của ngôn ngữ: theo bản tính chung của
nó đã đành mà còn theo những tính cách và điều kiện lịch sử đặc
thù của mỗi ngôn ngữ. Nhưng đối với trường hợp Thiên Chúa nguyên
nhân không chỉ có thế. Theo cái nhìn của Ki–tô giáo thì còn có
nguyên nhân khác: đó là xét theo thực trạng sa ngã của nhân loại,
thì trừ phi nhận được mặc khải của chính Thiên Chúa đến từ Do
Thái Giáo và Ki–tô Giáo, bằng không nhận thức vốn có về Ngài của
các nền triết học và tôn giáo ở ngoài hai tôn giáo này có rất
nhiều hạn chế, đủ thứ thiếu sót và sai lầm. Ngay cả đối với một
sự thật căn bản nhất về Thiên Chúa đó là Ngài là Đấng tất yếu tự
hữu và là Đấng tạo dựng trời đất và mọi sự trong đó từ không có
gì cả, mà người ta cũng không nhận ra được hay chỉ hiểu cách mơ
hồ, lẫn lộn. Do đó ý nghĩa (không dựa vào mặc khải) của các danh
từ mà loài người vốn dùng để chỉ về Thiên Chúa tất nhiên chứa
đựng đủ thứ hạn chế, thiếu sót và lầm lạc. Có lẽ đó cũng là lý do
mà theo Kinh Thánh của Do Thái và Ki–tô giáo khi Thiên Chúa mặc
khải tên của Ngài lần đầu tiên trong lịch sử, thì đó là tên không
những hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có trong tôn giáo nào, mà tên
Ngài còn đặc biệt ở chỗ không thể gọi được, vì chỉ dùng bốn phụ
âm YHWH, không có nguyên âm hay chính âm. Thiên Chúa quá thánh
thiêng và quá siêu việt nên tên của Ngài không thể gọi được, vì
nếu gọi được tức là cách nào đó có thể xem Ngài như thụ tạo vì có
thể xếp Ngài vào loại này, loại nọ
[20].
Khi đến Việt Nam truyền đạo các linh
mục Công Giáo người Âu Châu đương nhiên ý thức những hạn chế về ý
nghĩa, nội dung của các danh từ mà các tôn giáo ngoài Do Thái và
Ki–tô giáo dùng cho Thiên Chúa
[21]. Nên lúc ban đầu các linh mục
thừa sai đã không dùng những danh từ có sẵn trong tiếng Việt,
tiếng Hán như Trời, Thiên, Thượng Đế, v.v. để nói về Đấng mà
Ki–tô giáo tôn thờ, vì sợ rằng những người Việt được truyền đạo
sẽ hiểu lầm về Ngài, sợ rằng họ mà dùng “bình cũ” (các danh từ đã
có sẵn như thế) thì khó bỏ đi “rượu cũ” (nội dung, ý nghĩa của
các danh từ đó theo nhận thức hạn chế, thiếu sót, sai lầm của các
tôn giáo ngoài Do Thái và Ki–tô giáo) để đựng “rượu mới” (nội
dung, ý nghĩa của những gì mà Do Thái và Ki–tô giáo tin và hiểu
về Thiên Chúa), khó thay thế cái trước bằng cái sau. Thay vào đó,
để rao giảng về Thiên Chúa cho dân Việt, các vị chọn danh từ
tiếng Hán “Thiên Chủ”
[22], vốn đã được các vị thừa sai khác tạo
ra trước đó khi truyền đạo ở Trung Quốc
[23]. Các linh mục thừa
sai ở Việt Nam chỉ Việt hóa hoặc diễn giải đôi chút danh từ
“Thiên Chủ” thành “Thiên Chúa”, “Chúa Trời”, “Đức Chúa Trời”,
“Thiên địa chân Chúa”, “Chúa thật trời đất”. Còn để cho dân Việt
gọi vắn tắt là “Chúa” nhưng đồng thời phân biệt với các chúa của
người phàm, chẳng hạn như Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn thời đó, thì
các linh mục thừa sai thêm sau chữ “Chúa” chữ Bồ Đào Nha “Deu”
(từ tiếng Latin: “Deus”) thành “Chúa Deu”
[24].
Khi gọi Đấng mà mình tôn thờ là Yahweh
[25], Theos, Deus, Dio, Dieu, God, Thiên Chủ, Thiên Chúa, v.v.
Ki–tô giáo tin và hiểu Ngài là Đấng mà bản tính là hiện hữu tất
yếu nội tại, là Đấng vô cùng hoàn hảo, tuyệt đối đơn thuần, nên
bất khả biến dịch, nhưng do quyết định tự do và yêu thương Ngài
đã tạo dựng mọi sự khác từ hư vô (tức mọi thực tại mà bản tính
không hiện hữu cách tất yếu nội tại).
4. Ngang hàng với Thiên Chúa của Ki–tô
giáo là chuyện bất khả dĩ, còn muốn như thế lại là chuyện vô luân
Nếu Thiên Chúa được Ki–tô giáo tin và
hiểu như trên, thì vấn đề Ngài có hay không có đương nhiên là
chuyện quan trọng và là chuyện quan trọng nhất. Nói cách khác,
Ki–tô giáo có ý nghĩa nội tại hay không chính yếu hệ tại ở chỗ
niềm tin và nhận thức như thế về Thiên Chúa thật sự có đúng hay
không đúng. Phật Giáo tập trung vào tâm thức của mỗi cá nhân và
việc thay đổi tâm thức đó, chứ không phải vào hữu thể nào khác
ngay cả đức Phật (các Đức Phật chỉ làm việc chỉ đường). Trái lại
Ki–tô giáo quy hướng vào Thiên Chúa, một Đấng khác với tôi là con
người, là Đấng đã dựng nên tôi và siêu việt tôi cũng như mọi con
người nào khác, nhưng vì yêu thương những con người như tôi mà
trong Con Một Ngài, Ngài đã trở nên một người như tôi. Cho nên
nếu gạt Thiên Chúa và Đức Giê–su Ki–tô (Con Một Thiên Chúa làm
người) qua một bên, thì Ki–tô giáo thật sự không còn ý nghĩa gì
nữa.
Như vậy
nếu niềm tin và nhận thức của Ki–tô giáo về Thiên Chúa thật sự
không đúng, thì có lẽ trong lịch sử nhân loại Ki–tô giáo là sự
tha hóa hay vong thân lớn nhất của con người. Dĩ nhiên, dù có cho
là niềm tin và nhận thức Ki–tô giáo về Thiên Chúa là sai trái,
thì cũng chưa chắc đã hết chuyện. Dù đây không phải là chỗ để bàn
giải mà chỉ muốn nói rằng tâm trí con người khó tránh khỏi đặt
những câu hỏi như “Tại sao lại có sự tha hóa như thế?” “Tại sao
con người cụ thể hữu hạn và tương đối lại hướng về một tha thể vô
hạn, tuyệt đối?” “Đâu là nguồn gốc, căn nguyên của khuynh hướng
tha hóa, vong thân đó: lịch sử, xã hội, hay ở ngay trong lòng
người
[26]?”, v.v. và v.v.
Còn nếu niềm tin và nhận thức của Ki–tô
giáo về Thiên Chúa thật sự đúng, thì mọi cái tốt đẹp nơi con
người, bắt đầu từ sự hiện hữu của nó (tức chính sự kiện tôi có,
anh có) cho đến cứu cánh hạnh phúc của nó, đều lệ thuộc vào lòng
tốt lành, yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả đều là ân huệ Thiên
Chúa ban cho con người do tình yêu hoàn toàn vô vụ lợi của Ngài
(vì như đã nói trên, có vũ trụ hay không, có con người hay bất kỳ
sự gì khác hay không, Thiên Chúa vẫn hoàn hảo cách tuyệt đối,
không hơn không kém). Đứng trước một Đấng Tạo Hóa tốt lành và yêu
thương con người như thế, thì việc thờ lạy, cảm tạ, tri ân, và ca
tụng Ngài chẳng những không có gì sai trái mà còn là chuyện hoàn
toàn hợp tình, hợp lý, là chuyện hoàn toàn chính đáng, là chuyện
đạo đức trên hết mà con người phải làm và nên làm. Ngược lại,
muốn cho được bình đẳng với Thiên Chúa, tìm “đạt tới” vị trí
“choàng vai” Thiên Chúa “mà đi uống cà phê hoặc ngồi uống trà
ngang hàng với ổng mà không một chút áy náy” thì đó mới là ảo
tưởng hết sức vô lý, là hoang tưởng lớn nhất, vì muốn một điều
hoàn toàn bất khả dĩ về mặt siêu hình học, hoàn toàn vượt quá khả
năng của một bản tính thụ tạo. Nếu có thể tưởng tượng ngày nào đó
các robot tìm cách ngang hàng với loài người chế tạo ra chúng,
thì chuyện đó vẫn còn khả dĩ, còn có lý hơn vô vàn lần chuyện con
người tìm đạt tới địa vị ngang hàng với Thiên Chúa tạo dựng nó từ
hư vô. Đã vô lý lại vô luân: kiêu căng, ngạo mạn cách mù tối tới
mức hoàn toàn lệch lạc đối với bản tính tự nhiên của con người.
Hay nói theo ngôn ngữ Ki–tô giáo thì muốn ngang hàng với Thiên
Chúa như đang nói là một thứ “tội tổ tông” mà tội đó là tội kiêu
ngạo đầu tiên của thụ tạo có lý trí. Tội đó là “đầu cội rễ mọi sự
dữ”: nó đã biến thiên thần thành ác quỷ và đã làm cho nguyên tổ
loài người và con cháu họ rơi vào cảnh trầm luân đau khổ.
5. Thiên Chúa của Ki–tô giáo làm cho
con người thành con cái của Ngài
Ki–tô giáo tin rằng con người kiêu ngạo
tìm cách trở nên giống như Thiên Chúa nhưng đã thất bại, lại còn
tự “chuốc họa”, tự gây đau khổ cho chính bản thân và dòng dõi
mình. Bị quỷ dữ cám dỗ, nguyên tổ loài người đã nghi ngờ Thiên
Chúa như là kẻ cạnh tranh với con người, luôn tìm cách kiềm chế
để con người khỏi bằng mình
[27]. Nhưng mặc khải được tiếp nhận
trong đức Tin của Do Thái giáo và Ki–tô giáo cho thấy Thiên Chúa
không hề cạnh tranh với con người, không những chỉ bởi vì mọi cái
con người là và có đều là do Ngài ban cho họ, về phía họ, họ
chẳng có gì đáng để cho Ngài cạnh tranh, nhưng nhất là bởi vì
Ngài là Đấng rất mực yêu thương con người, kể cả khi họ nổi loạn
chống lại Ngài. Chẳng những Ngài không hề bỏ mặc con người trong
tội lỗi và đau khổ do tự họ gây ra, mà còn đi làm những điều mà
con người ngay cả nằm mơ hay tưởng tượng cũng không thể thấy.
“Những điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người
không hề nghĩ tới” [28]: đó là Thiên Chúa quá yêu thương loài
người đến nỗi đã cho Con Một Ngài theo bản tính nhập thể thành
nhân tức là Đức Giê–su Ki–tô; Thiên Chúa đã muốn Ngài chịu đau
khổ và chịu chết trên cây thập tự để hy sinh đền bù cho tội lỗi
của loài người, không những chữa lành bản tính con người bị hư
hỏng vì tội lỗi mà còn siêu thăng bản tính đó, nâng loài người
lên địa vị và phẩm giá của con cái Thiên Chúa, cho họ thông phần
vào sự sống vĩnh cửu và vinh quang bất diệt của Ngài
[29]. Con
Một Thiên Chúa làm người, chịu đau khổ, chịu chết, và sống lại để
cho nhân loại trở nên con cái Thiên Chúa: đó là tin mừng, tin vui
cứu rỗi căn bản mà Ki–tô giáo không ngừng loan báo cho nhân loại.
Thánh tông đồ Phao–lô viết thư cho các Ki–tô hữu ở Rô–ma vào
những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ thứ nhất đã tái khẳng định
với họ tin vui nền tảng này khi ngài nói: “Chính Thần Khí [Thiên
Chúa] đó cùng chứng thực với thần trí chúng ta rằng chúng ta là
con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là người thừa kế, mà
là người thừa kế của Thiên Chúa, thì tức là đồng thừa kế với Đức
Ki–tô”
[30].
Như thế đối với Ki–tô giáo, “vấn đề” không phải là “biết cách kéo
mình lên ngang tầm” với Thiên Chúa, bởi vì về phía Thiên Chúa
trong Đức Giê–su Ki–tô và nhờ Thánh Thần, Ngài đã sẵn sàng làm
cho con người thành con cái của Ngài, thành anh chị em của Con
Một Ngài, nên một với Ba Ngôi Thiên Chúa
[31].
Vấn đề chỉ là về phía mỗi người vẫn còn có đó tự do đón nhận hay
không đón nhận phẩm giá và quyền nghĩa tử mà Thiên Chúa muốn ban
cho mình, và nếu đón nhận thì phải sống sao cho xứng đáng với
phẩm giá đó, cũng như không ngừng phát huy phẩm giá đó cho đến
lúc hoàn thiện trong thiên quốc của Thiên Chúa.
Giáo Xứ Công Giáo
Mẹ Việt Nam
Silver Spring, Maryland, Hoa Kỳ
LM Phao–lô Trần
Xuân Tâm
Mùa Phục Sinh
2014
Tác giả chú thích:
[1] Để
khách quan tôi đính kèm trọn vẹn bài viết của tác giả Hồ Trung Tú
ở cuối bài viết của tôi.
[2] Tham
chiếu: Kinh Thánh Tân Ước, Thư thứ nhất của thánh Phê–rô, chương
3, câu 15.
[3] Tôi
tạm dùng lại danh từ Thượng Đế của tác giả, vì ngay chính danh từ
này cũng là “bình cũ” nhưng tạm dùng để đựng “rượu mới” (xem
IV.3).
[4]
Kinh Thánh Cựu Ước, sách Xuất Hành, chương 3 câu 14.
[5]
Dĩ nhiên gồm cả Trung Quốc trong đó cho đến khi hai siêu cường
cộng sản Trung Quốc và Liên–Xô ly khai nhau xung quanh vụ chủ
nghĩa xét lại của Khrushchev.
[6] Ví dụ tôi
không bàn đến ở đây sự phân biệt giữa sự dữ tự nhiên như thiên
tai và bệnh tật và sự dữ luân lý hay sự ác như tội lỗi và những
hậu quả của chúng.
[7] Tham chiếu: Bản Toát Yếu Sách Giáo Lý
của Hội Thánh Công Giáo, câu 58.
[8] Đối
chiếu: Kinh Thánh Cựu Ước, sách Ngôn sứ Êzêkiel, chương 33, câu
11.
[9] Tham
chiếu: Bản Toát Yếu Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, câu 58.
[10]
Hay nói cách hình ảnh theo tác giả đó là “chiếc thang”, “công cụ
cần thiết”.
[11] Xem
III.3.
[12] Xem I.4.
[13]
Tôi chủ ý tránh dùng từ “phi vật chất” của tác giả vì từ này dễ
hàm ý đối nghịch, loại trừ vật chất, trong lúc đó tinh thần không
nhất thiết phải vậy (xem ở số tiếp theo III.4).
[14]
Trong lúc giáo lý đức Tin Công Giáo chỉ có một, nhưng quan niệm
và lý luận triết học mà trí thức Công Giáo dùng để trình bày,
giải thích, và bảo vệ đức Tin đó có thể thuộc về những trường
phái triết học khác nhau, dù để thích hợp với đức Tin có những
điểm chung căn bản giữa chúng, cũng như có những pham vi giới hạn
chung cho chúng. Về phần tôi, tôi chọn triết học của thánh Tô–ma
A–qui–nô (Thomas d’Aquin) để trình bày và giải thích các mục
III.4,5,6. Chính xác hơn cho III.5 và 6, xin đối chiếu: Thánh
Tô–ma A–qui–nô. Summa Theologiae. I, q.8, q.52; III, q.76, a.5.
[15]
Tác giả không nói thẳng ra như vậy nhưng theo logique lập luận
của tác giả thì phải kết luận như vậy.
[16]
Thành phần của yếu tính giống như chất thể và mô thức của một
thực tại cụ thể về khả giác, hay như chủng loại chung (genus) và
đặc tính (differentia) để xác định một loài riêng (species) trong
chủng loại chung đó.
[17] Những gì
mà tôi nói về Phật Giáo trong phần IV của bài viết này, nhất là
chủ trương “vô ngã” và quan niệm về “Thượng Đế” của Phật Giáo,
chính yếu đến từ Paul Williams, một học giả hiện thời rất có uy
tín trong lãnh vực Phật Học, nhất là về Phật Giáo Đại Thừa
(Mahayana) nói chung và Phật Giáo Tây Tạng nói riêng, cụ thể về
những gì liên quan đến Phật Giáo trong bài viết của tôi xin tham
khảo thêm: Paul Williams: 1. The Unexpected Way – On Converting
from Buddhism to Catholicism. London: T & T Clark Ltd – A
Continuum Imprint, 2002: esp. 198–203; 2. “Aquinas Meets the
Buddhists”. Aquinas in Dialogue – Thomas for the Twenty–First
Century. Edited by Jim Fodor and Frederick Christian
Bauerschmidt. Malden, MA: Blackwell Publishing Ltd, 2004: 87–117;
3. “Catholicism and Buddhism”. The Catholic Church and the World
Religions – A Theological and Phenomenological Account. Edited by
Gavin D’Costa. London: T & T Clark Ltd – A Continuum Imprint,
2011: 141–177. Cũng đáng lưu ý là Paul Williams đã trở lại Công
Giáo sau hai mươi năm thực hành và giảng dạy Phật Giáo Tây Tạng.
[18] Phật
Giáo thường nói kẻ chết và kẻ tái sinh không phải là cùng một kẻ
mà cũng không phải khác nhau. Vế sau “không phải khác nhau” phải
hiểu theo những gì đang nói ở đây, nghĩa là “không phải không có
liên quan nhân quả với nhau”, hay nói chính xác, kẻ chết và kẻ
tái sinh thuộc về cùng một sự liên tục xác định về mặt nhân quả,
chứ không phải thuộc về hai sự liên tục khác nhau. A chết thì cái
tái sinh chỉ có thể là B thôi chứ không thể là B’ hay bất kỳ cái
gì khác. B’ chỉ có thể phát sinh từ một mối liên kết nhân quả
khác, chẳng hạn đến từ A’; nghĩa là cũng giống như tương quan
giữa A và B, A’ chết thì cái tái sinh chỉ là B’ thôi, chứ không
thể là B hay bất kỳ cái gì khác. Nhưng A vẫn không phải là B, A’
vẫn không phải là B’: cái trước và cái sau không phải là cùng một
chủ thể, cùng một bản ngã, vì chủ trương “vô ngã” của Phật Giáo
không cho phép có một thứ chủ thể hay bản ngã như thế.
[19]
Một trong những lý do mất nhiều kiếp là vì theo Phật Giáo có tái
sinh thành người thì mới có những cơ hội, khả năng giác ngộ mà
tái sinh thành những thứ khác không thể nào có được, thế nhưng
tái sinh thành người lại không dễ dàng và khá hiếm hoi “như tìm
sao giữa ban ngày”. Dầu sao ngay cả kiểu nói mất nhiều kiếp cũng
gây hiểu lầm quan niệm “vô ngã” của Phật Giáo, vì thật ra chủ
trương “vô ngã” khiến cho chuyện mất ít kiếp hay nhiều kiếp để
giác ngộ không còn quan trọng mấy.
[20] Phần nào
tương tự như Lão Tử nói trong Đạo Đức Kinh “Đạo khả đạo phi
thường đạo. Danh khả danh phi thường danh”.
[21] Cả đoạn
này được tôi viết dựa vào: Trần Văn Toàn. Đạo Trung Tùy Bút. Hà
Nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2008: 75–77.
[22] Dĩ nhiên
“Thiên Chủ” viết ở đây đã là phiên âm theo cách đọc Hán–Việt
(cách dân Việt đọc tiếng Hán).
[23] Chính
các linh mục Công Giáo người Âu Châu truyền đạo ở Trung Quốc cũng
không muốn dùng các danh từ Thiên, Thượng Đế đã có sẵn trong
tiếng Hán, nhưng tạo ra danh từ “Thiên Chủ” là để bảo vệ siêu
việt tính về ý nghĩa, nội dung của những gì Do Thái và Ki–tô giáo
tin và hiểu về Thiên Chúa.
[24]
Nhưng người Công Giáo Việt Nam thời xưa không đọc là “Chúa Đêu”
mà đọc là “Chúa Zêu”, “Chúa Rêu”, hay “Chúa Jêu”.
[25]
Sau này nguyên âm được thêm vào “Yhwh” để có thể gọi được.
[26]
Nếu nguồn gốc của khuynh hướng tha hóa đang nói ở trong lòng
người, thì đó là sự tha hóa phổ quát và do đó hiện diện không
riêng gì ở trong Ki–tô giáo mà ở trong các tôn giáo khác kể cả
Phật Giáo, thậm chí ở trong cả ở những lý tưởng chính trị xã hội
nhưng mang tính tôn giáo như thuyết Marxist chẳng hạn.
[27] Có lẽ cám dỗ nguyên thủy này đã để lại vết
tích của nó trong nhiều tôn giáo của người thượng cổ theo đó thì
thần thánh và loài người là hai thế lực không ngừng cạnh tranh
nhau – và có lẽ đó cũng là một trong những chỗ dễ bị các thực
hành tôn giáo ma thuật lợi dụng: ma thuật vẫn tiếp tục là một thứ
“trái cấm” mà Satan tiếp tục dùng để lừa dối con người tin rằng
có những bí quyết nào đó nếu nắm được chúng thì có thể thành
ngang hàng với thần thánh hay các sức mạnh siêu nhiên, hay đi xa
hơn để ràng buộc hay điều khiển các thế lực như thế theo ý mình.
Trong Kinh Thánh người Do Thái cổ có lúc phải vay mượn những
huyền thoại tôn giáo của các dân tộc lân bang (nhất là những gì
thuộc nền văn minh Lưỡng Hà Địa) để diễn tả những sự thật về đức
Tin độc thần giáo của mình. Họ đương nhiên phải thay đổi những
huyền thoại ấy cho phù hợp với chức năng diễn tả đức Tin độc
thần, nhưng không nhất thiết xóa hẳn mọi vết tích ngoại giáo đang
nói, chẳng hạn trong câu chuyện tháp Ba–ben.
[28] Tham
chiếu: Kinh Thánh Tân Ước, Thư thứ nhất của thánh Phao–lô gửi các
tín hữu ở Co–rin–thô, chương 2, câu 9.
[29] Đối
chiếu: Kinh Thánh Tân Ước, Tin Mừng theo thánh Gioan, chương 3,
câu 14 đến câu 17.
[30] Tham chiếu: Kinh Thánh Tân Ước, Thư
của thánh Phao–lô gửi các tín hữu ở Rô–ma, chương 8, câu 16 đến
câu 17.
[31] Vì Thiên Chúa Ba Ngôi (Tam Vị Nhất Thể) là
mầu nhiệm căn bản và quan trọng nhất của Ki–tô giáo, hiện diện
trong và xuyên suốt tất cả những gì mà Ki–tô giáo tin và hiểu về
Thiên Chúa, cho nên tôi không thể không nói đến trong những gì
đang nói ở đây. Mặc dầu dĩ nhiên bài viết này không phải là chỗ
để trình bày mầu nhiệm vô cùng cao cả này, nhưng cũng nên nhấn
mạnh ở đây là không giống như Hồi Giáo hiểu sai lệch, Thiên Chúa
Ba Ngôi của Ki–tô giáo không phải là ba Thiên Chúa mà chính là
Thiên Chúa độc nhất và đơn nhất của Do Thái Giáo, bởi vì Ki–tô
tuyên xưng Thiên Chúa tuyệt đối là một xét theo bản tính, yếu
tính, hay bản thể. Nhưng nhờ mặc khải hoàn hảo của Thiên Chúa
trong Đức Giê–su Ki–tô, Ki–tô giáo còn đi xa hơn mà tin và biết
rằng Thiên Chúa còn là Cha, Con (tức Đức Giê–su), và Thánh Thần,
là Ba Ngôi Vị thật sự phân biệt, không phải theo bản tính hay bản
thể, nhưng theo tương quan về nguồn gốc đối với nhau.
PHỤ LỤC
Tham
luận
Chủ đề: Thượng Đế
BÀI
VIẾT VỀ VẤN ĐỀ THƯỢNG ĐẾ CỦA
TÁC GIẢ HỒ TRUNG TÚ
Chiếc bình mới nào cho rượu mới?
Ngày nay người ta phân biệt ra hai loại
Thượng đế: Một Thượng đế của những nhà thần học dựa trên đức tin,
và một Thượng đế của những triết gia dựa trên lý trí, và cách xác
định này ít nhiều đã khiến vấn đề trở nên rõ ràng. Các quy luật,
sự cân xứng, hài hòa của vũ trụ để tạo nên sự sống có trí tuệ như
con người đã đi theo con đường tiến hóa ngẫu nhiên nào đi chăng
nữa thì lý trí của con người cũng sẽ không thôi thán phục sự
huyền nhiệm đó. Một Thượng Đế không như Kinh Thánh mô tả đã được
các nhà khoa học tạo nên, gán cho ông ta nhiều vẻ đẹp lung linh
hơn và quả thật loại rượu mới này đang cần đến một chiếc bình
mới. Chiếc bình đó là gì vậy? Thật ra thì các nhà Thần học cũng
vẫn còn chỗ để quy tất cả về một Thượng Đế kiểu cũ khi bảo các
quy luật tại sao như thế này mà không như thế khác, và đó là
chính ý chí của Thượng Đế. Ở đây có thể xác định ngay rằng khoa
học tuy khá là đại ngôn nhưng thật ra vẫn còn rất gần với điểm
xuất phát, vẫn còn rất nhiều bí ẩn và câu hỏi chưa có lời đáp.
Một ví dụ cụ thể và dễ hiểu nhất là trường hấp dẫn, cái lực mà có
thể lấy tay sờ được với một cảm giác rất vật lý và bao trùm toàn
vũ trụ, nối kết vũ trụ lại thành một thể thống nhất để sự sống có
thể hình thành và phát triển... thì cho đến nay mọi cố gắng từ
Einstein cho đến Hawking và rất nhiều các nhà vật lý khác trong
việc lượng tử tường hấp dẫn vẫn chưa đem lại kết quả nào khả dĩ.
Một khi con người còn chưa biết quy luật được hình thành như thế
nào, tại sao vật chất có thuộc tính này mà không có thuộc tính
khác, thì bàn tay của Thượng Đế vẫn còn tác dụng.
Tuy vậy, một quan niệm mới về Thượng Đế
vẫn cứ đang hình thành và cuộc tranh luận để “thống nhất các
trường” (xin hiểu là hai Thượng Đế) vẫn cứ diễn ra và sẽ khó mà
có hồi kết. Vấn đề thật ra không mới, các nhà triết học duy vật
cổ đại cách nay trên 2,000 năm đã nói đến rất nhiều. Đến thế kỷ
20, năm 1913 mấy chục triệu người chết vì dịch cúm và tai ương
của các hai cuộc chiến tranh, cùng với sự phát triển của khoa
học, và gần đây là các cuộc động đất vào gần ngày Giáng sinh, đã
khiến niềm tin về một Thượng Đế nhân từ bị sút giảm. Tuy vậy, các
nhà thần học trong bất cứ trường hợp nào cũng có thể tìm ra những
lý luận mới, và còn lâu nữa một phát kiến khoa học nào đó mới có
thể lật đổ hoàn toàn hình tượng này.
Hãy nếm một chút rượu cũ trước khi đi
tìm chiếc bình mới cho loại rượu mới
Những lời trách móc về Thượng Đế khi
con người gặp tai ương đã vang lên trước cả khi con người có một
Thượng Đế nhân từ như đã biết. Và đứng trước sự phi lý không thể
giải thích ấy các nhà thần học thường bảo con người không thể
hiểu thánh ý Chúa. Chúa thường có cái lý của mình mà con người
không thể đem các chuẩn mực đạo đức, luân lý của con người ra để
đo lường, đánh giá. Và thường thì sau một thời gian rất dài nhìn
lại con người mới hiểu phần nào cái thánh ý ấy.
Ví dụ được nhiều người nói đến là các
cuộc tàn sát người Kitô giáo. Sự trách móc Chúa được nói lên
nhiều nhất từ chính nơi miệng của những con dân Chúa, điển hình
nhất là dưới thời Hoàng đế Nero của La Mã cổ đại. Nhưng kỳ lạ một
điều rằng cứ mỗi lần như vậy thì đạo Chúa lại phát triển một cách
bùng nổ và sự tử vì đạo của các con dân Chúa như được củng cố
thêm.
Ví dụ
trên thật ra đã cũ và vẫn còn nhiều cơ sở về tâm lý tập thể để
giải thích. Ví dụ sau đây thì người viết bài này không hiểu sao
cứ càng suy ngẫm thì càng thấy hình như quả thật có một bàn tay
nào đó của Chúa vẫn đang can thiệp trong đời sống của con người
hiện đại hôm nay. Đó là Hitler!
Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao Hitler
lại tàn ác đến mức kỳ cục, chưa có tiền lệ trong lịch sử toàn
nhân loại, như vậy không? Nero hay Tần Thủy Hoàng chỉ là chuyện
đùa của trẻ con như vặt cánh con chuồn chuồn nếu đặt bên cạnh
Hitler! Và tại sao lại có cái thằng người quái gở như vậy vào
đúng cái thời điểm mà... không có hắn không được! Thử nhìn lại mà
xem, nếu lúc ấy không có Hitler thì sau đó hoặc bây giờ chắc chắn
sẽ có một Hitler khác. Mà bây giờ mới có một Hitler thì dễ hình
dung chuyện gì sẽ xảy ra! Tính ngẫu nhiên và tất yếu của lịch sử
trong trường hợp này dầu được hiểu theo cách nào đi nữa vẫn còn
những khoảng trống kỳ ảo và bí ẩn. Nếu đêm hôm quân đồng minh đổ
bộ xuống bãi biển Normandie cơn bão không bất chợt lặng đi thì
Hitler kịp thời gian chuẩn bị để cầm cự và chỉ cần thêm một tháng
nữa thì kế hoạch sản xuất bom hạt nhân của Hitler hoàn thành. Lúc
đó thì lịch sử nhân loại sẽ ra sao? Càng suy ngẫm thì càng thấy
Hitler như một nước cờ của Thượng Đế, một nước cờ thấm đẫm nước
mắt để nhân loại kịp học một bài học về tính ác trong chính bản
thân mình trước khi làm chủ một năng lượng không hề có trong tự
nhiên. Tại sao Hitler không có trước đó hoặc sau đó mà lại ngay
trước cái đêm con người có làm ra bom nguyên tử? Tại sao Hitler
lại có thể sáng tạo ra cái lò thiêu người mà cơ thể của 2 triệu
người Do Thái bị đốt cháy, bay lên những ngọn khói đen ngòm, khét
lẹt khiến hàng ngàn năm sau con người cũng sẽ giật mình trước
hình ảnh ấy? Nếu nói về sự dữ thì lời khóc than, nguyện cầu,
trách móc của 2 triệu người Do Thái con dân Chúa chắc chắn phải
làm Chúa động lòng chứ? Nếu một sợi tóc rụng trên đầu cũng do
thánh ý Chúa thì thánh ý Chúa trong trường hợp Hitler là gì? Và
bài học ấy xem ra khá hiệu quả.
Suy nghĩ trên nhuốm màu thuyết định
mệnh bình dân thế nhưng từ đó vẫn khó để bảo Chúa không có mặt
đâu đó và vẫn can thiệp vào đời sống con người bằng cái cách mà
thường là con người không thể hiểu nổi (?)
Có hay không một chiếc bình
mới?
Mặc dù vậy, ngay cả ví dụ trên nếu được công nhận của cả hai phía
thì việc đi tìm một chiếc áo mới cho Thượng Đế cũ vẫn cứ được đặt
ra, và mặc dù cố bảo vệ Kinh thánh nhưng các nhà thần học chắc
chắn cũng phải đi tìm những lời giải thích khác cho những câu
chuyện cũ. Vụ minh oan cho Galile muộn màng sau 400 năm và những
lỗ hổng trong thuyết tiến hóa cũng như sự xuất hiện bất ngờ của
Homo Sapiens (trong khi đã có giống người Neanderthal) trong cây
tiến hóa của loài người đã giúp Vatican tin tưởng hơn vào một bàn
tay của Thượng Đế rất thật. Sáng thế ký đã được giảng lại theo
một cách mới và cứ cái đà này thì cũng dễ hình dung rằng đến một
lúc nào đó, ngàn năm nữa chăng, việc thống nhất hai Thượng Đế
chắc chắn sẽ diễn ra, và như vậy thì chẳng cần đến một chiếc bình
mới nào cả!
Việc cố công chứng minh có hoặc không có Thượng Đế xét ra cho
cùng là chuyện lấy thước đo bầu trời. Con người hoàn toàn chưa có
đủ công cụ cần thiết để có thể tìm hiểu về Thượng Đế có thật hay
không có thật. Lý thuyết toán Hệ thống khẳng định, bản thân một
hệ thống không thể tự phát hiện ra mâu thuẫn, con người dù tưởng
tượng hoặc thông minh thế nào chăng nữa cũng vẫn thuộc về hệ
thống vũ trụ này. Có hay không một vũ trụ khác nữa, một vũ trụ
phi vật chất của các thần linh? Thượng Đế nếu có, là phi vật
chất. Liệu con người đã có một ý niệm nào về một vũ trụ phi vật
chất chưa?
Các
kiểu lý luận dù có lý thế nào chăng nữa cũng vẫn chỉ có thể chứng
minh đúng trong hệ thống này nhưng vẫn còn những hệ thống khác
con người chưa biết đến.
Một cách tiếp cận khác: Đó là
cách tiếp cận của nhà Phật.
Có một ví dụ khá hay về một vũ trụ
khác, thế giới quan khác là sự giác ngộ của đạo Phật. Sự giác ngộ
của nhà Phật là không dựa trên nhận thức (bằng con đường lìa tri
kiến). Tinh thần đạo Phật bảo: Thượng Đế có hay không có, không
quan trọng; cái quan trọng là thái độ của ta khi đối diện với cái
có hoặc không có Thượng Đế ấy. Thượng Đế có thì ta buồn hay vui?
Thượng Đế không có thì buồn hay vui?
Nếu Thượng Đế không có thì đó là cái hố
sâu đen ngòm, vô nghĩa của cái chết. Các nhà duy vật khi sống thì
mạnh mẽ nhưng khi đối diện với cái chết thường hoảng sợ. Và chính
vì chết là hết nên khi sống thường ít kìm giữ trước các cám dỗ
hoặc điều ác. Và cái không có Thượng Đế này xem ra chẳng đem lại
điều gì ích lợi cho con người. Và vì thế, ngay cả khi không có
Thượng Đế thì sức mạnh tinh thần của con người cũng đòi hỏi xứng
tầm với “Ta thay thế cho một Thượng Đế” (Duy Ngã độc tôn) của vũ
trụ ấy. Và điều này cũng không hề dễ để có thể bảo Thượng Đế là
không có!
Nếu
Thượng Đế có, một hôm nào đó Thượng Đế hiện ra sáng lòa giữa
không trung thì ta làm gì mới là quan trọng. Ta sụp lạy ư? Tinh
thần đạo Phật thì bảo lạy hoặc khúm núm trước bất cứ ai, cho dù
đó là Thượng Đế, thì không đáng là người, hãy choàng vai Thượng
Đế mà đi uống cà phê hoặc ngồi uống trà ngang hàng với ổng mà
không một chút áy náy, mới là điều quan trọng cần đạt tới. Cần
nhớ rằng sự ý thức không thể can dự được vào thái độ con người ta
trong những trường hợp như thế. Đó là tâm thế của người giác ngộ,
mà người giác ngộ thì ra sao xin được bàn trong một trường hợp
khác.
Tóm lại,
một hệ thống khác ngoài hệ thống vật chất của vũ trụ này có hay
không, không biết, thế nhưng với công cụ mà Phật giáo đem lại
chúng ta đã có thể hình dung về một tâm thế của con người khi có
thể sánh ngang với Thượng Đế, và chính điều này hé lộ cho chúng
ta một cách tiếp cận khác với cách tiếp cận qua kiểu duy lý hoặc
trông cậy vào khoa học thường thấy, nhà Phật hay gọi là phóng
dật, tìm cầu bên ngoài. Vấn đề không phải là hiểu Thượng Đế hoặc
đi tìm để thấy được Thượng Đế mà là phải biết cách kéo mình lên
ngang tầm đó. Vấn đề là Chiếc thang nào, công cụ nào?
Và hãy thử hình dung, khi con người có
thể ngồi uống trà ngang hàng với Thượng Đế thì liệu chuyện Thượng
Đế có thật hay không có thật, có còn là chuyện quan trọng đáng để
bàn hay không?
Hồ Trung Tú
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Lytuong Nguyen chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
December 19, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang