Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
ghi
Chủ đề:
Tiếng Việt
Tác giả:
Vương Trùng Dương
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thành ngữ ta có câu: “Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Ông bà ta cũng dạy dỗ qua câu “Học ăn, học nói, học gói, học mở” trở thành câu tục ngữ nói về những điều cơ bản trong cuộc sống mà con người ta phải học để có được cách ăn ở, giao tiếp, cách đối nhân xử thế sao cho lịch sự, tế nhị, văn minh.
Đã từ lâu có nhiều bài viết đề
cập đến vấn đề sử dụng tiếng Việt chêm tiếng Pháp. Trong ngôn ngữ
dân gian đã truyền tụng với nhau từ lâu nên trở thánh thói quen
khi sử dụng. Trong văn học có nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912–1939)
qua các phóng sự của ông về thực trạng xã hội thời đó nên thường
dùng tiếng Việt theo âm tiếng Pháp, đôi khi có chú thích cho rõ
ràng.
Trải qua
tám thập niên dưới sự đô hộ của Pháp nên vấn đề sử dụng tiếng
Pháp đã vay mượn với những chữ thông thường, hầu hết là danh từ,
lâu ngày thành thói quen và được “Việt hóa”, điển hình như:
“a–mi–đan
(amygdale), áo sơ–mi (chemise), áp–phe (affaire), ăng–ten
(antenne), áp–phích (affiche), ắc–qui (accus), ban–công (balcon),
ba–lê (ballet), bi–đông (bidon), bù–loong (boulon), búp–bê
(poupée), bê–tông (béton), bia (bière), bơ (beurre), bu–gi
(bougie), ca–ve (cavalière), cà–vạt (cravat), cà–phê (café),
cà–rốt (carotte), cam–nhông (camion), cà–rem (crème), cốp–xe
(coffre), cu–li (coolie), đi–văng (divan), ê–kíp (equipe),
gác–dan (gardien), gu (goût), kính–lúp (loupe), khăn mu–xoa
(mouchoir), lăng–xê (lancée), ny–lông (nylon), phanh (frein),
phéc–mơ–tuya (fermeture), ru–băng (ruban), ra–đi–ô (radio),
sâm–banh (champagne), sếp (chef), tắc–xi (taxi), túp (type),
xà–lách (salade), xăng (essence), xi–măng (ciment), xích–lô
(cyclo), xì–căng–đan (scandale), xiếc (cirque), xốt (sauce),
va–li (valise)...”
Theo lối viết trước kia đều có gạch nối
với nhau như địa danh, họ tên... nhưng sau này thấy hơi “nặng nề”
nên bỏ.
Từ nhỏ còn học tiểu học ở quê nhà, có
bài thơ về tiếng Pháp và nghĩa tiếng Việt đứa nào cũng học thuộc
lòng để khi nào cao hứng xổ ra tràng Pháp Việt. Trong internet
phổ biến bài thơ Lục Bát Việt–Pháp rất thú vị:
“Tiếng
Pháp, tiếng Việt giống nhau,
Cùng nhau
tìm chữ, tìm câu hàng ngày.
Mu–soa
(mouchoir) là cái khăn tay,
Buya–rô
(bureau) bàn giấy, để ngay văn phòng.
Savon là cục xà–bông.
Ban–công (balcon)
là chỗ đứng trông trước nhà.
Xót–ti
(sortir) có nghĩa: đi ra.
Ve (vert): màu
xanh lá, màu là cu–lơ (couleur).
Beurre:
thì có nghĩa là bơ
Ăn với ba–gét
(baguette): bánh mì đũa que.
Chìa khóa
còn gọi cờ–lê (cle)
Đốc–tơ (docteur):
bác sĩ, kẹo là bòn–bon (bonbon)
Thịt
nguội còn gọi giăm–bông (jambon)
Quần
dài, là păng–ta–lông (pantalon), đúng không?
Tóc tém: đờ–mi gạc–xông (demi garcon).
Phòng khách có ghế sa–lông (salon) để ngồi.
Súp–lơ (choux fleur): bông cải, bỏ nồi.
Cùi–dìa (cuillère): thìa, muỗng, xin mời ăn cơm!
Quả táo còn gọi: trái bom (pomme)
Dễ
thương, hay gọi mi–nhon (mignonne), hay dùng.
Coát–xăng (croissant) là bánh hai sừng.
Cà–rem (creme) ai thấy cũng mừng, cũng ham.
Đặt hàng còn gọi còm–măng (commande)
Sớp–phơ (chauffeur) tài xế, phải ngồi vô lăng (volant)
Gọi mẹ, thì gọi ma–măng (maman)
Thường
trực là pẹc–ma–năng (permanent) nghe bà!
Lối đi qua, gọi cu–loa (couloir)
Bi–da
(billard) chơi nhớ, phải chà cục lơ (bleu)
Người chạy xe đạp: cua–rơ (coureur)
Đồng
hồ điện, gọi công–tơ (compteur) hả bồ?
Bảo vệ là gạc–đờ–co (garde de corps)
Áo
khoác dài gọi măng–tô (manteau) đó mà.
Tạm biệt, nói ô–rờ–voa (au revoir)
Món
gà nấu đậu, gọi là la–gu (ragout)
Chửi
nhau nói: mẹc–xà–lù (merde salaud)
Pê–đan (pédale) bàn đạp, rất cần cho xe.
Màu da ta gọi màu be (beige)
Cà–vẹt
(carte verte) là giấy xe nè, hở anh?
Thắng xe, thì gọi là phanh (frein)
Cà–vạt (cravate) nhớ thắt, để thành... đẹp trai.
Pít–xin (piscine) là cái hồ bơi.
Búp–bê
(poupée) bé thích, bé ngồi, bé mơ...
Buộc–boa (pourboire) ám chỉ tiền bo (tiền tip)
Tích–kê (ticket) là vé, ri–đô (rideau) là màn.
Táp–pi (tapis) là tấm thảm sàn.
Sinh
nhật, nhớ mở nhảy đầm đãng–xê (danser)
Đầm dài là cái xoa rê (soirée)
Giuýp
(jupe) là váy ngắn, nhìn mê không bồ?
Xe
hơi còn gọi ô tô (auto)
Đờ mi (demi):
một nửa, bô (beau) là đẹp trai.
Đúp
(double) thì có nghĩa: gấp hai.
Bưu ảnh,
là cạc–pốt–tan (carte postale) có hình.
Co (corp) là để chỉ thân mình.
Đề–pa
(départ) mang nghĩa khởi hành đó nha.
Tôi thì mình xưng là moa (moi)
Còn bạn
có nghĩa là toa (toi), là mày.
Tiếng
Pháp Việt hóa, thật hay.
Nhưng không thể
viết một ngày mà xong.
Chỉ mong đóng góp
cộng đồng.
Soạn đi soạn lại, vẫn còn
nhiều ghê...
Thủ quỹ quen gọi két–xê
(caissier)
Giới thiệu nhà cửa, bởi mê
tiền cò (com: commission)
Bệnh hoạn, ai
lại chẳng lo?
Chạy mua thuốc ở tiệm gọi
là phạc–ma–xi (pharmacie)
Màu xám còn
gọi màu ghi (gris)
Cục gôm (gomme) để
xóa, viết chì để ghi.
Con gái tôi, gọi
ma–phi (ma fille)
Đét–xe (dessert) tráng
miệng, ăn khi tiệc tàn.
Nhảy đầm, đẹp
nhất điệu van (valse).
Nhẹ nhàng thanh
thoát, chàng nàng say mê.
Mỗi sáng một
phin (filtre) cà phê (café)
Bắt đầu làm
việc, không hề quên đâu.
In–trô (intro):
khúc nhạc dạo đầu.
Cam–nhông (camion):
xe tải, lơ (bleu): màu xanh xanh.
Tiệc
tùng khui rượu sâm–banh (champagne).
Sô–cô–la (chocolat) đắng, người sành thấy ngon.
La–de (la bière) uống giống bia lon.
Có
người không thích, thì ngồi chê bai.
Bia
(bière), bọt, chỉ nên lai rai.
Uống
nhiều bia quá, hao tài, hao phăng (Franc)
Tiền thì nhớ bỏ nhà băng (banque)
Trai
gái sắp cưới, gọi là phi–ăng–xê (fiancé)
Mùa hè nắng gắt thấy ghê,
Nhớ đeo găng
(gants) để bị chê đen thùi.
Ăn cơm, ăn
xúp (soupe), ăn nui (nouille).
Nhớ chan
nước xốt (sauce), nhớ mùi rau thơm.
Điện
tín là tê–lê–gam (télégramme)
Vợ tôi thì
nói ma–phăm (ma femme) của mình.
Te–ríp
(terrible): là chuyện thất kinh.
Phi–nan
(final): kết thúc... mình xì–tốp (stop) đây.”
Đặc biệt trong lãnh vực khoa học và
chuyên môn (nhất là hóa học), dụng cụ sửa chữa... đều vay mượn
tiếng Pháp rất nhiều. Chỉ sử dụng danh từ, ít khi sử dụng động
từ. Có lẽ cách phát âm tiếng Pháp cũng na ná với cách phát âm
tiếng Việt nên khi nghe không bị chói tai.
Sau năm 1954 ở miền Bắc và sau năm 1975
có nhiều tác phẩm dịch từ ngoại ngữ, tên địa danh và nhân vật
phiên âm theo tiếng Việt, vừa khó nhớ và lạc giọng... khác với
các bản dịch thời Việt Nam Cộng Hòa! Với các tác phẩm dịch từ
tiếng Nga mà phiên âm theo kiểu “xách–cu–ra–đớp” thì “bỏ mẹ sa
trường” quân mạc tiếu!
Trong bài viết của Nguyễn Đức Tuấn ở
Montreal “Chữ Việt Gốc Pháp Còn Tồn Tại Đến Ngày Nay” cho biết:
“Ngày xưa, vì Việt Nam không có chữ, khi tiếp xúc với người Pháp
và những khí cụ mới lạ của người Pháp, người Việt phải mượn chữ
của Pháp để gọi. Sự mượn chữ này thường là phiên âm nhưng vì
tiếng Pháp là thứ tiếng đa âm, muốn biến thành đơn âm, người ta
buộc lòng phải cắt chữ thành nhiều vần (syllable) để hoặc là lấy
trọn hoặc chỉ lấy một phần. Trong quá trình phiên âm, đôi khi một
âm bị đổi khác cho phù hợp với cách uốn giọng của người Việt,
nhất là những người chưa từng học tiếng Pháp, chưa biết cách phát
âm tiếng Pháp...”
... Hiện tại, trong vốn từ của Việt
Nam, ngoài 65% là từ gốc Hán còn khoảng hơn 400 từ là từ gốc
Pháp, các từ này vẫn còn đang được sử dụng khắp nơi, nhiều khi
miệng nói ra nhưng bạn không biết mình vừa nói một câu có chữ
Pháp trong đó.
Thuở nhỏ, thời đi học, có nhiều câu lục
bát với “Pháp Việt đề huề” (mượn chữ Collaboration
Franco–Annamite, chính sách của chính quyền Pháp ở Đông Dương vào
đầu thập niên 1910) cũng ví von để dợt le. Học thuộc lòng mấy câu
proverbs (ngạn ngữ) để xổ tiếng Tây với nhau cho le lói nhưng khi
vào lớp thầy cô bảo phân tích văn phạm thì “ấm ớ hội tề”!
Cách nay gần một thế kỷ, bài diễn
thuyết về Truyện Kiều của cụ Phạm Quỳnh đọc nhân lễ kỷ niệm ngày
giỗ Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924 do Hội Khai Trí Tiến
Đức của ông tổ chức, ông nói: “Văn chương ta chỉ có một quyển
sách mà sách ấy đủ làm cho ta vẻ vang với thiên hạ, tưởng cũng là
một cái kỳ công có một trong cõi văn thế giới vậy”. Và câu nói:
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” vẫn
được nhắc mãi cho đến ngày nay. Điều đáng buồn là Truyện Kiều còn
đó mà tiếng nước ta bị “biến chất”... Trong những năm qua có các
bài biết của các nhà báo, nhà văn... đã đề cập về Tiếng Việt
trong và ngoài nước sau năm 1975 như:
Đụng Độ Ngôn Ngữ của Dân Việt, Hỏng Rồi
Tiếng Nước Tôi! của Tô Văn Cấp, Tiếng Việt và Chữ Vẹm hay là Chữ
Nghĩa Việt Cộng của Lê Duy San, Mặt Trận Ngôn Từ của Đỗ Văn Phúc,
Nỗi Buồn Tiếng Việt Của Người Dân Trong Nước của Chu Đẩu (trong
bài viết này tác giả dẫn chứng sự khác biệt và kèm theo tiếng
Anh). Đào Văn Bình với 3 bài viết: Nỗi Buồn Tiếng Việt, Tiếng
Việt Kinh Hoàng Ở Trong Nước, Bảng Đối Chiếu Tiếng Việt Trước &
Sau năm 1975. Bảng đối chiếu từ ngữ của Việt Cộng và Việt Nam
(theo alphabet) của Trần Văn Giang...
Bây giờ chữ viết cũng bị “tiết kiệm”
tối đa, sử dụng (y dài, i ngắn loạn xà ngầu, có những chữ viết
tắt dễ gây ngộ nhận như vc (vợ chồng, cs (ca sĩ)...
Ngày nay, tiếng Pháp ít thông dụng ở
trong nước. “Mỹ cút” nhưng tiếng “Mỹ” đã xâm nhập tràn ngập, nói
mà không chêm tiếng “Mỹ” là thiếu hiểu biết, thiếu văn minh như
gái giang hồ ngày xưa “no star where” (không sao đâu), “no table”
(miễn bàn)... (Trong các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ có nêu
ra loại tiếng Anh ba rọi này).
Sau khi “Mỹ cút” thì theo dòng thời
gian “trăm hoa đua nở” với Hello, OK... tràn lan cả nước với “ấn
tượng” đồng Dollar, Mỹ đi thì cất Mỹ kim.
Trong internet cũng phổ biến bài thơ
Anh–Việt với những chữ thông dụng:
“Hello
có nghĩa xin chào
Goodbye tạm biệt, thì
thào Wishper
Lie nằm, Sleep ngủ, Dream
mơ
Thấy cô gái đẹp See girl beautiful
want tôi muốn, kiss hôn
Lip môi, Eyes
mắt... sướng rồi... oh yeah!
Long dài,
short ngắn, tall cao
Here đây, there đó,
which nào, where đâu
Sentence có nghĩa
là câu
Lesson bài học, rainbow cầu vòng
Husband là đức ông chồng
Daddy cha bố,
please don’t xin đừng
Darling tiếng gọi
em cưng
Merry vui thích, cái sừng là
horn
Rách rồi xài đỡ chữ torn
To sing là hát, a song một bài
Nói sai
sự thật to lie
Go đi, come đến, một vài
là some
Đứng stand, look ngó, lie nằm
Five năm, four bốn, hold cầm, play chơi
One life là một cuộc đời
Happy sung
sướng, laugh cười, cry kêu
Lover tạm
dịch người yêu
Charming duyên dáng, mỹ
miều graceful
Mặt trăng là chữ the moon
World là thế giới, sớm soon, lake hồ
Dao
knife, spoon muỗng, cuốc hoe
Đêm night,
dark tối, khổng lồ giant
Fun vui, die
chết, near gần
Sorry xin lỗi, dull đần,
wise khôn
Bury có nghĩa là chôn
Our souls tạm dịch linh hồn chúng ta
Xe
hơi du lịch là car
Sir ngài, Lord đức,
thưa bà Madam
Thousand là đúng... mười
trăm
Ngày day, tuần week, year năm, hour
giờ
Wait there đứng đó đợi chờ
Nightmare ác mộng, dream mơ, pray cầu
Trừ ra except, deep sâu
Daughter con
gái, bridge cầu, pond ao
Enter tạm dịch
đi vào
Thêm for tham dự lẽ nào lại sai
Shoulder cứ dịch là vai
Writer văn sĩ,
cái đài radio
A bowl là một cái tô
Chữ tear nước mắt, tomb mồ, miss cô
Máy
khâu dùng tạm chữ sew
Kẻ thù dịch đại là
foe chẳng lầm
Shelter tạm dịch là hầm
Chữ shout là hét, nói thầm whisper
What
time là hỏi mấy giờ
Clear trong, clean
sạch, mờ mờ là dim
Gặp ông ta dịch see
him
Swim bơi, wade lội, drown chìm chết
trôi
Mountain là núi, hill đồi
Valley thung lũng, cây sồi oak tree
Tiền
xin đóng học: school fee
Yêu tôi dùng
chữ love me chẳng lầm
To steal tạm dịch
cầm nhầm
Tẩy chay boycott, gia cầm
poultry
Cattle gia súc, ong bee
Something to eat chút gì để ăn
Lip môi,
tongue lưỡi, teeth răng
Exam thi cử, cái
bằng licence...
Lovely có nghĩa dễ
thương
Pretty xinh đẹp thường thường so
so
Lotto là chơi lô tô
Nấu ăn là cook, wash clothes giặt đồ
Push thì có nghĩa đẩy, xô
Marriage đám
cưới, single độc thân
Foot thì có nghĩa
bàn chân
Far là xa cách còn gần là near
Spoon có nghĩa cái thìa
Toán trừ
subtract, toán chia divide
Dream thì có
nghĩa giấc mơ
Month thì là tháng, thời
giờ là time”
*
Với tuổi già ở Mỹ với thế hệ thứ ba,
ông bà mong muốn cháu nội, cháu ngoại nói được, viết được tiếng
Việt là tiếng mẹ đẻ là niềm vui trong gia đình. Vì vậy nơi nào có
nơi dạy tiếng Việt cho con em, phụ huynh như tìm được cái phao để
tuổi thơ tìm về cội nguồn.
Đối với ông bà, khi các cháu nói “thưa
ông, thưa bà, chào ông, chào bà...” nghe rất thân thương và mát
lòng. Ông bà, cha mẹ lúc nào cũng dạy con cháu phải có chữ “dạ”,
“dạ có, dạ không...” rất lễ phép, thay vì trả lời “yes, no” cụt
lủn. Con cái ở gần cha mẹ là niềm hạnh phúc vì gởi trẻ thơ cho
ông bà, và hầu như đều tập bập bẹ tiếng Việt. Khi mang về nhà lại
nói và giải thích tiếng Anh để khi trẻ thơ vào preschool
(kindergarten) khỏi bị bỡ ngỡ.
Khi trẻ thơ bước vào bậc tiểu học
(elementary school) từ lớp một đến lớp bốn, nếu có anh chị em thì
chúng chỉ giao tiếp với nhau bằng tiếng Anh. Ông bà giao tiếng
với cháu cũng chêm tiếng Anh và giải thích để hiểu nghĩa. Hầu như
ông bà nào cũng hiền hòa, nhẫn nại với cháu, ngay cả khi kèm
homework mà khi làm cha mẹ thì hình như thiếu đức tính này với
con cái... Vì vậy, đôi khi cũng có sự thông cảm khi ông bà đưa
các cháu đi chơi, vào shopping, đôi lúc phải chêm dăm ba tiếng
Anh cho tiện. Nếu ông bà mà nói với nhau nào là cái roll (cuộn),
jar (lọ), bottle (chai), bowl (chén, bát), tube (ống), cái tie
(cà vạt), cái scarf (khăn quàng)... thì “nghèo” tiếng Việt?
Học đường ở Mỹ là môi trường tốt và sự
giáo dục trong gia đình là vấn đề hệ trọng. Người xưa đã khuyên
“Dạy con từ thuở còn thơ” mà trẻ thơ tiếp nhận được sự dạy dỗ này
từ thuở thơ ấu đến khi trưởng thành là niềm hạnh phúc.
Có lẽ cách gọi trong đại gia đình thông
thường dạy cho trẻ thơ với ông bà (grandparents) như grandfather
(thường gọi granddad hoặc grandpa), grandmother (thường gọi
granny hoặc grandma) nhưng khi nghe Ông Nội, Bà Nội, ông Ngoại,
Bà Ngoại... cảm thấy thật dễ mến, gần gũi vô cùng. Thử hình dung
hình ảnh đứa trẻ khi gặp cúi đầu “Chào Ông Nội” với hình ảnh giơ
tay “Hi, Grandpa”, tuy lễ phép nhưng cái còn, cái mất trong tâm
thức tuổi hạc.
Với cha mẹ (parents) thì thường gọi cha
là dad, daddy thay vì father và mẹ là mom thay vì mother vì trẻ
em khi học ở trường, phụ huynh thường liên lạc với thầy cô và con
cái nên thông dụng.
Và, từ gia đình cũng ảnh hưởng phần nào
ngoài xã hội. Trong bài viết của cô Ngọc Lan về hiện tượng tiếng
Anh–Việt trong gia đình dẫn chứng câu “Ai đông ke”, “Tui
đông ke” nghe mà xấu hổ. Thật ra mấy chữ này cho dân ba búa,
thất lọc lúc tranh cãi với nhau.
Cô Ngọc Lan còn trẻ nhưng dám viết trên
mặt báo như vậy cũng là điểm son.
Với tôi, trong vấn đề giao tiếp, việc
sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt lẫn tiếng Anh phải tùy lúc, tùy nơi,
tùy trường hợp, tùy đối tượng... Nếu biết nhận chân và ý thức thì
tốt.
Thành ngữ
ta có câu: “Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Ông bà ta
cũng dạy dỗ qua câu “Học ăn, học nói, học gói, học mở”
trở thành câu tục ngữ nói về những điều cơ bản trong cuộc sống mà
con người ta phải học để có được cách ăn ở, giao tiếp, cách đối
nhân xử thế sao cho lịch sự, tế nhị, văn minh.
Bài viết cũng khá dài... hẹn dịp khác.
Little Saigon, July 10, 2021
Vương Trùng Dương
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Patrick WILLAY chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, July 12, 2021
Ban kỹ thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang