Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bản
Tin LHNQVN–Thụy Sĩ
Chủ đề:
Thi sĩ NGUYỄN CHÍ THIỆN
Tác giả:
LHNQVN–Thụy Sĩ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Tạp Chí Dân Văn:
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện qua Mỹ không bao lâu, ông đã bay qua Châu
Âu để ra mắt đồng bào, khi đến Hamburg, Germany, Bổn Báo Chủ
Nhiệm đã được BAN TỔ CHỨC mời lên sân khấu cùng ngồi với Nhà thơ
Nguyễn Chí Thiện để đàm đạo cũng như trả lời các câu hỏi của cử
toạ ngồi chật kín Hội trường. Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã trả lời
tất cả các câu hỏi của đồng bào, điểm đặc biệt, Trung tá Nguyễn
Công Giân, anh ruột của Thi sĩ, là vị sĩ quan cao cấp thuộc Phòng
7 BTTM/QLVNCH rất giống TS/NCT. Hai anh em chênh lệch tuổi khá
lớn, nhưng ai nhìn thấy cũng nghĩ là anh em sinh đôi, một người
đi Nam, một người kẹt lại miền Bắc, điều này cũng không có gì lạ,
vì TT Nguyễn Công Giân lúc đó đã là SQ của Quân Đội QG, ông phải
theo đơn vị vào Nam, còn người Em là Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện bị
kẹt lại miền Bắc cùng với gia đình. Bổn báo quen biết với anh
Trần Cao Đài, hiện sống với GĐ tại Tỉnh Dortmund, Germany, lúc di
cư chia làm 2, người Bố đi với một nửa GĐ, người Mẹ đi với một
nửa GĐ còn lại, cuối cùng ông Bố và nửa người con vào Nam còn
người Mẹ kẹt lại với những người con còn lại, sau ngày
30/04/1975, cả gia đình mới gặp lại tại miền Nam.
Dư luận
lúc VC thả Nhà thơ qua Mỹ, đã có những luận điệu, là Nguyễn Chí
Thiện “thật” đã chết, còn NCT đi Mỹ là NCT “giả” do bọn Phản Gián
YẾT KIÊU cho người đóng giả, đây là những điều viển vông và ngớ
ngẩn, thế mà có những người tin là thật, cho đến bây giờ họ vẫn
nghĩ như thế, điều sơ đẳng nhất là ngành Tình Báo, Phản Gián
không bao giờ sử dụng một người có người thân ở phiá đối nghịch,
đằng này Anh Em Thi sĩ NCT/NCG lại giống nhau như đúc, thì làm
sao ông NCT đóng giả để hoạt động “tình báo” được, chưa “nhúc
nhích” là đã bị “lộ” rồi, chẳng qua những người tin những luận
điệu “ấu trĩ” này vì họ chỉ là những người học ít, kém suy nghĩ,
thậm chí chỉ là lớp người bình dân, chưa qua một khoá đào tạo để
trở thành một người SQ/QLVNCH. Người SQ/QLVNCH lúc nào cũng phải
suy xét, nghiền ngẫm các sự việc xảy ra để có một đáp án khả dĩ
tin tưởng được.
Thấy ông Paul Tran ghi là không tin TS/NCT
là Việt Cộng nên tôi góp ý đôi lời của một người đã được huấn
luyện, đào tạo thành một người SQ/QLVNCH, nói rõ, tôi tốt nghiệp
khoá 25SQTĐ và đã đánh VC tại Chợ lớn vào dịp Tết Mậu Thân 1968.
Germany, 28/08/2022
Chủ Nhiệm
Tạp Chí Dân Văn.
LÝ TRUNG TÍN
PEN INTERNATIONAL
In Memoriam
1939–2012
Nguyễn Chí Thiện
Poet
Văn Bút
Quốc Tế Tưởng Nhớ và Thương Tiếc Cố Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện qua đời tại
thành phố Santa Ana, tiểu bang Californie, Hoa Kỳ, ngày 2 tháng
10 năm 2012 là một Tin Buồn lớn đối với Văn Bút Quốc Tế (VBQT) và
hai mươi ngàn hội viên. Một Tin Buồn lớn cho cộng đồng những
người cầm bút dấn thân bảo vệ quyền tự do phát biểu và thể hiện
quan điểm, điều kiện thiết yếu để sáng tác và phát huy văn
chương, để xây dựng dân chủ, bảo vệ nhân quyền, kiến tạo công lý
và hòa bình chân chính.
Sáng ngày 3 tháng 10 năm 2012, sau khi
nhận được Tin Buồn đó, nhiều văn thi hữu Văn Bút Quốc Tế đã gởi
điện thư bày tỏ lòng thương tiếc và nhờ thi hữu Nguyên Hoàng Bảo
Việt chuyển lời chia buồn đến tang quyến. Trong số những người
gởi điện thư phân ưu đầu tiên có nữ văn hữu Joanne
Leedom–Arkerman, Phó Chủ tịch Văn Bút Quốc Tế, nguyên Tổng Thư Ký
VBQT kiêm Chủ tịch Ủy Ban Bênh Vực Nhà Văn bị Cầm Tù (PEN WIPC)
và nguyên Chủ tịch Trung tâm Văn Bút Hoa Kỳ PEN USA, văn hữu Hori
Takeaki, Tổng Thư Ký VBQT, văn hữu Eugene Shoulgin, nguyên Tổng
Thư Ký VBQT kiêm Chủ tịch Ủy Ban PEN WIPC, nữ văn hữu Marian
Botsford Fraser, Chủ tịch Ủy Ban PEN WIPC và nguyên Chủ tịch
Trung tâm Văn Bút Gia Nã Đại, nữ văn hữu Sara Whyatt, Giám đốc
Chương trình Ủy Ban PEN WIPC và nữ văn hữu Chiara Macconi, đại
diện Trung tâm Văn Bút Espéranto, nguyên Chủ tịch Ủy ban WIPC
Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Ý thoại và Trung Tâm Văn Bút Ý, người
đã dịch ra tiếng Ý truyện Một Lựa Chọn trong tập Hỏa Lò (Tổ Hợp
Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ 2001). Sau khi hội ý với Ủy Ban PEN
WIPC, nữ văn hữu Cat Lucas, đồng Chủ tịch Ủy ban WIPC Trung tâm
Văn Bút Anh, đã cho đăng tin buồn và bày tỏ lòng thương tiếc – In
Memoriam – trên trang web của Trung tâm ngày 4 tháng 10, kèm theo
hình, tiểu sử và bài thơ Trong Bộ Máy của nhà thơ Nguyễn Chí
Thiện qua bản dịch tiếng Anh Inside The Trap Prison of Steel của
học giả Huỳnh Sanh Thông
(http://www.englishpen.org/in-memoriam-nguyen-chi-thien/).
Chiều ngày 9 tháng 10 năm 2012, trong
một Thông Cáo – In Memoriam – do Ủy Ban Văn Bút Quốc Tế Bênh Vực
Nhà Văn bị Cầm Tù (PEN WIPC) phổ biến toàn cầu
(http://www.pen-international.org/newsitems/pen-community-mourns-the-death-of-nguyen-chi-thien-poet-1935-2012/),
Văn Bút Quốc Tế bày tỏ lòng thương tiếc nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
vừa qua đời. Thay mặt tất cả văn thi hữu hội viên, Văn Bút Quốc
Tế gởi lời chia buồn đến gia đình và bạn hữu của cố thi sĩ Việt
Nam, tác giả tập thơ nổi tiếng Hoa Địa Ngục. Hiệp Hội Nhà Văn Thế
Giới long trọng xác định rằng nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là một
trong số 50 trường hợp điển hình tiêu biểu cho 50 năm hoạt động
của Ủy Ban Văn Bút Quốc Tế Bênh Vực Nhà Văn bị Cầm Tù. Văn Bút
Quốc Tế nhắc lại tiểu sử của nhà thơ, mấy thập niên lao tù và
thời kỳ lưu vong cùng những tác phẩm Hoa Điạ Ngục và Hỏa Lò. Cuối
Thông Cáo, để tưởng nhớ và vinh danh nhà thơ Nguyễn Chí Thiện,
Văn Bút Quốc Tế mời tất cả hội viên cùng nhau đọc bài thơ Trong
Bộ Máy kể ở trên. Văn Bút Quốc Tế cũng giới thiệu trang web Viet
Nam Literature Project cho những người muốn đọc thêm thơ Nguyễn
Chí Thiện (http://www.vietnamlit.org/nguyenchithien/poems.html ).
Chúng tôi cho
đăng lại với Bản Tin này toàn văn Thông Cáo In Memoriam Tưởng Nhớ
và Thương Tiếc cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện của Văn Bút Quốc Tế và
điện thư báo Tin Buồn của nhà thơ Nguyễn Hoàng Bảo Việt, Phó chủ
tịch Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại (đặc trách Ủy ban WIPC
PEN Suisse Romand), thành viên Trung tâm Nhà Văn Việt Nam Lưu
Vong và Hội Nhà Văn Liên Hiệp Quốc Genève (United Nations Society
of Writers – Geneva).
Chúng tôi, ban biên tập Liên Hội Nhân
Quyền Việt Nam, góp lời với Trung tâm Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong
và Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại, nhờ nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việt
chuyển giùm lời Thành Kính Phân Ưu của chúng tôi đến ông Nguyễn
Công Giân, bào huynh cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện và tang quyến.
Chúng tôi còn xúc động và cầu nguyện cho hương linh của nhà thơ
vừa khuất bóng. Chúng tôi không bao giờ quên tác giả Hoa Địa Ngục
và Hỏa Lò, một nhà thơ chân chính, một nhà trí thức lương thiện,
một con người Việt Nam có khí tiết và nhân bản. Không bao giờ
quên, trong những năm những tháng cuối đời của một nhà thơ cựu tù
nhân cộng sản, một chiến sĩ tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Công
Bằng Xã Hội, mặc dù có vấn đề sức khỏe, thi hữu Nguyễn Chí Thiện
vẫn dành thì giờ viết thư phúc nhận từng bản Bản Tin Liên Hội
Nhân Quyền Việt Nam và khuyến khích chúng tôi tiếp tục tận tâm
với nhiệm vụ và làm tròn bổn phận lúc mà quê hương và đồng bào,
gia đình và bạn hữu thương yêu còn bị đọa đày trong Địa Ngục Cộng
sản.
Genève
ngày 9 tháng 10 năm 2012
Liên Hội Nhân
Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Ligue
Vietnamienne des Droits de l’Homme en Suisse
Vietnamese League for Human Rights in Switzerland
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
In Memoriam
1939–2012
Nguyen Chi Thien
Poet
PEN
International mourns the death of Vietnamese poet Nguyen Chi
Thien who passed away on 2 October 2012. PEN members’ thoughts
are with his family and friends.
Nguyen Chi Thien was one of the Writers
in Prison Committee’s emblematic cases featured in the 50th
anniversary of the Committee’s existence. Here is a brief
background of his life.
Born in February 1935 in Hanoi,
Vietnam, Nguyen Chi Thien was asked in by friend to teach one of
his classes as he was ill. The year was 1960. In the lesson Chi
Thien told the students that America had defeated Japan in World
War Two, not the Soviet Union which the official curriculum
claimed.
Nguyen Chi Thien was soon arrested and sentenced to two years
imprisonment on the charge spreading “anti–government
propaganda”. During what turned out to be a three and a half year
incarceration he composed “almost a hundred poems” (committing
them to memory). He was briefly released in 1964, however, he was
soon re–arrested in February 1966 on the charge of producing
“politically irreverent poems”. For this offence, and without
trial, he was to serve 11 years in prison camps before being
temporarily released in July 1977 because there was no room in
the crowded camp to cope with the increasing flow of new
prisoners coming from South Vietnam. Denied employment, Nguyen
Chi Thien composed a further four hundred poems.
After the end of the Sino–Vietnamese
war of 1979, afraid of being unable to survive if re–arrested,
Nguyen Chi Thien decided to send his “incriminated” poems abroad.
In July 1979, braving security police, he handed his handwritten
manuscript to diplomats at the British embassy after extracting a
promise that the poems would be published. Upon leaving the
embassy he was arrested by Vietnamese security forces and
imprisoned for a further twelve years.
Nguyen Chi Thien was freed in October
1991 after international interventions, including by PEN members
and granted asylum in the U.S.A., where he was invited to address
Congress. Between 1998 and 2001 he lived in France where he had
been awarded a fellowship by the International Parliament of
Writers. His Hoa Lo Prison Stories, a prose narrative of his
imprisonment’s experiences, was translated and published in
English as the Hoa Lo / Hanoi Hilton Stories by Yale Southeast
Asia Studies in 2007. He returned to America and he settled in
California where he continued writing. Nguyen Chi Thien’s
collection of poems was published abroad in eight different
languages and in 1985 he won the International Poetry Award in
Rotterdam.
PEN
International celebrates Nguyen Chi Thien’s life by sharing a
sample of his poetry.
Inside The Prison Trap of Steel
Inside the
prison trap of steel,
I want to see no
streams of tears,
And laughter I want
even less to hear.
I want that each of
us
clamp tight his jaws,
withdraw his hands from everything,
refuse to be a buffalo, a dog.
Soak up
this truth: this jail will last
As long
as it holds buffalos and dogs.
Unless
were are mere clay
we shall stay men.
Flowers from
Hell translated by Huynh Sanh Thong. Yale Southeast Asia Studies
1984. ISBN: 0–938692–21–6
Click here
[https://vietnamlit.org/nguyenchithien/poems.html]
for more of
his poetry.***
International PEN Writers in Prison
Committee, Brownlow House, 50/51 High Holborn, London WC1V 6ER,
Tel.+ 44 (0) 20 7405 0338, Fax: +44 (0) 20 7405 0339 (...)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
* * * * * * * * * * * * * * * *
De: Nguyen Hoang Bao Viet
Envoyé: mercredi, 3. octobre 2012 09:40
Objet: LE POETE NGUYEN CHI THIEN N’EST PLUS.
Nguyễn Chí Thiện
Courtesy of Jean Libby,
ed. VietAm
Review 2004
Dear Friends and Colleagues,
It is with profound sadness that I have
to inform all of you that poet in exile Nguyen Chi Thiên has died
this morning (2 October) in California, USA, at the age of 73.
For memory, Nguyên Chi Thiên was a former imprisoned writer (for
a total of 27 years in the camp), a PEN WIPC main case in 1971.
He was one of the 50 Cases of persecuted Writers selected for
marking the 50 years of activities of PEN Writers in Prison
Committee (1960 – 2010) to defend freedom of expression.
* Here with his last letter to Sara,
some of his poems and a brief summary of his life.
I am certain that we will all miss him,
we will miss him...
Sincerely yours,
Bao Viêt
Nguyên Hoàng Bao Viêt
Vice president PEN Suisse Romand (WIPC)
–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
A letter from Nguyen Chi Thien to Sara
Whyatt
– – – – – – – – – – – – – – –
– – –
Santa
Ana, California, on 8 February 2010,
Dear Ms Sara Whyatt,
Director of
Programme
Writers in Prison Committee
PEN International
London UK
c/o Nguyen Hoang Bao Viet
WIPC PEN
Suisse Romand
Geneva Switzerland
On the occasion of the fiftieth
anniversary of The Writers in Prison Committee of International
PEN, I would like to express my profound gratitude to this noble
Committee which has always taken sides with us, poets and writers
imprisoned by all kinds of dictatorial and totalitarian regimes.
As for me, I spent my aduld life (27 years) in concentration
camps because of my poems that depicted the cruel realities of
life in North Vietnam under communist rule. My poetry was no
luxury. It was the sound of sobbing of my oppressed and
mercilessly tortured compatriots. It was not hate, but faith in
the victory of the Good over the Evil, passion for poetry, and
especially, Hope that kept me alive. Together with Amnesty
International, Human Rights Watch, Reporters Without Borders, PEN
Writers in Prison Committee gave me this precious Hope that was
indispensable for me to survive. Although in prison, I knew that
many writers in the world read my poems, supported me. This idea
gave me consolation and encouragement. I did not feel lonely even
when I was alone in a dark cell, I had more courage, more
perseverance in order not to knuckle under to brutal tyranny.
Dear members of the Writers in Prison
Committee, please accept my heartfelt thanks, my deepest
gratefulness for what you have done for me and for many writers,
poets who were or are still being persecuted for their works.
My warmest
regards
Nguyen Chi Thiên
–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
Nguyên Chi
Thiên’s poems
Inside The Prison Trap of Steel *1
Inside the prison trap of steel,
I want to see no streams of tears,
And
laughter I want even less to hear.
I
want that each of us
clamp tight his
jaws,
withdraw his hands from
everything,
refuse to be a buffalo, a
dog.
Soak up this truth: this jail will
last
As long as it holds buffalos and
dogs.
Unless were are mere clay,
we shall stay men.
1970
Nguyên
Chi Thiên
Flowers from Hell translated by Huynh Sanh Thông. Yale Southeast
Asia Studies 1984. ISBN: 0–938692–21–6
In The Jungle Night A Bird Calls *2
In the jungle
night a strange bird calls
Followed by a
guard’s tripping shoe sounds
A patrol
flashlight beams here and there
Form the
cells come the shoutings of a madman
I
lie immobile listening to the slipping away
Of my entire youth as it floats by
Jailings and diseases have killed in the bud
O how many burgeons that seek their way out.
1968
Nguyên
Chi Thiên
The
Flowers of Hell translated by Nguyên Ngoc Bich.
Tổ Hợp Xuất
Bản Miền Đông Hoa Kỳ – Cành Nam Publishers 1996 USA.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
Le Jour du Têt (Nouvel An viêtnamien)
Le jour sacré
du Têt est arrivé.
Ma cellule glacée me
colore en violet.
Je vis reclus dans
l’humide obscurité,
Baigné dans des
odeurs pestilentielles,
Assommé par des
fouilles perpétuelles,
Deux fois par
jour, de sel nourri,
De l’eau à la place
du riz,
Mes pieds sont enflés par le
béribéri.
Des jours à contour imprécis,
étourdi
Dans ma tombe gluante je suis
enfoui,
Yeux embués, bouche en saillie,
rêves moisis.
Dehors, le crachin
transit...
L’âme des lointaines années
Réveille des
printemps ensoleillés,
Ramène des foules
de pensées;
Mon cœur étranglé voudrait
éclater.
Elle revient, cette âme, à la
réalité,
Au triste sort de lamentable
prisonnier.
Comment revivre les moments
Des
printemps enivrants,
Que jamais plus je
ne reverrai,
Où je vivais en cercle
familier,
Dans l’atmosphère de chaleur,
De bonheur,
Remplie d’amour,
De l’amour pour toujours?
Le lit en
ciment est d’un froid pénétrant,
Son
haleine s’enfonce comme un mal perforant
Tout au long de mon dos.
La marmite de
banh chung que ma mère mijotait (1)
Sur
le feu qui dansait
Dans la triste nuit,
sur le pays en sanglots,
Et illumine
encore les horizons d’antan. Ô regrets:
Les bols de soupes de pousse de bambou,
De vessies de poisson frites au
saindoux,
La mortadelle sur une assiette
étalée.
L’atmosphère de recueillement
Pénétrait dans mon corps jusqu’aux derniers replis,
Comme l’affection entre gens de même sang,
Que jamais on ne peut délaisser dans l’oubli.
Voici mes
parents,
Mes frères, mes sœurs, mes
amis,
La tasse de thé, le verre
d’alcool, la fumée d’encens;
Quand je
réalisais la valeur de ces moments,
Il y
avait longtemps qu’ils s’étaient évanouis.
Restait mon chagrin condensé
Qui,
jusqu’au bout de mes jours ne serait dilué,
Et qui meurtrit le cœur de l’homme aux cheveux blancs.
Les pétards
accueillent, détonnant, le printemps
Dans la société misérable chamboulée:
Les ordures fleurissant,
Les hommes
humiliés.
Que de printemps avaient
défilé, engouffrés...
Et puis,
Vents et pluies des grands cimes m’appellent et me crient,
Un tombeau tend les bras pour cueillir mes souhaits,
Fermant l’horizon de mes rêves de bonheur,
Eteignant ainsi les flammes de mon cœur,
Les amertumes et les soucis.
Sont–ils
donc ces moments bien finis,
Où, riant
au soleil,
Chantonnant sous la pluie,
Je m’enivrais de la joie de la vie?
Mon corps fané est voué à la
disparition.
Dehors, les pétards tonnent
triste, en de sèches explosions.
Couché,
je suis malade comme un chien, mourant.
La bruine transit le poignard du froid piquant
Que le feu de la faim ne parvient à chauffer.
Telle une âme errante dans la nuit de l’hiver,
Sans faire de bruit, sourd et muet,
Je
rêve à mon lointain chaleureux doux foyer.
Que mon cœur pulse bien mon sang frais,
Que mes larmes effacent la réalité!
Comme en songe, je vois revivre père et
mère
Si doux mais solennels, l’air
presque sévère!
Je me tiens près d’une
branche de prunier et d’un mandarinier,
Mi–ivre, mi–éveillé.
L’encens exhale du
brûle–parfum ses volutes de fumée,
Le
plateau aux cinq fruits, juste à côté.
La tradition répand ses sentiers, sa fraîcheur,
Plein le ciel explosent les pétards, quelle chaleur!
Mais le lit
de ciment refroidit durement,
Tout mon
corps épuisé est pris de tremblement.
Mes pieds gelés,
Ma tête douloureuse,
mon dos glacé,
J’implore en vain que
veuille tourner ma chance,
Que sonne
l’heure finale de mes souffrances.
J’ai
soif, j’ai envie d’une gorgée d’eau chauffée.
Les pétards n’arrêtent pas d’exploser,
Décuplant mes céphalées!
Je tire la
couverture sur mon visage,
Mon corps
tremblant sans répit.
La fin d’année
envoie son message.
La crise de fièvre
me saisit...
Nguyen Chi Thien (1984)
Fleurs de l’Enfer traduit du vietnamien
par Nguyen Ngoc Quy (1999)
Institut de l’Asie du Sud–Est.
(1) banh chung: gâteau traditionnel de
Nouvel An au Viêt–Nam, à base de riz gluant entourant une pâte de
fève et un morceau de viande de porc, le tout enveloppé de la
chuôi (feuille de bananier) ou de la gai. La cuisson mijotée dure
toute la nuit, et il faut veiller à entretenir le feu de bois,
tâche souvent confiée à des enfants, ce qui laisse des souvenirs
inoubliables.
Phụ bản: Hai bài thơ
*1
và
*2
Trong Bộ Máy
Trong bộ máy tù đày bằng sắt
Tôi không muốn thấy những dòng nước mắt
Càng không muốn thấy những điệu cười!
Tôi muốn sao tất cả mọi người
Chỉ có hàm
răng nghiến chặt
Bàn tay không đụng vào
đâu!
Không chịu hóa thân thành chó hay
trâu
Phải thấm thía rằng tù chóng hay
lâu
Là do có hay không lũ người trâu
người chó
Nếu chúng ta không là đất thó
Chúng ta sẽ được là Người!
1970
Nguyễn
Chí Thiện
Đêm
Rừng, một Tiếng Chim
Đêm rừng, một tiếng chim xa lạ
Một tiếng giày canh bước hụt đà
Người
lính đi tuần pin lấp lóa
Trong sà lim
tiếng gã điên la
Ta nằm không động nghe
từ tạ
Mảng đời niên thiếu lắng trôi qua
Đau ốm lao tù thui chết cả
Bao búp xanh
lòng mới nhú ra (1968)
1968
Nguyễn
Chí Thiện
Bản
Chúc Thư của Một Người Việt Nam. 192 Bài Thơ Bi Hùng. Nhà sách Tú
Quỳnh Xuất Bản Hoa Kỳ với sự thỏa thuận của Chủ nhiệm tạp chí Văn
Nghệ Tiền Phong.
(không ghi năm).
Hoa Địa Ngục – The Flowers of
Hell. A Bilingual Selection Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông
Hoa Kỳ
Cành
Nam Publishers 1996 USA.
–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
Genève ngày 9 tháng 10 năm 2012
Liên Hội
Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Ligue
Viêtnamienne des Droits de l’Homme en Suisse.
Vietnamese League for Human Rights in Switzerland
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Trung Tin Ly chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, August 28,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang