Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản mạn nền Giáo dục VN xưa
Chủ đề:
Trường Trung học Quốc Học Huế
Tác giả:
Trần Xuân Thời
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Các trường trung học
thường mang tên một danh nhân như Pellerin, Taberd, Puginier,
Pétrus Ký, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long... nhưng đặc biệt
một ngôi trường tọa lạc tại đất thần kinh biểu tượng cho nền giáo
dục quốc gia mệnh danh là “Trường Quốc Học” (Collège National)
sánh với danh xưng “Quốc Học Viện” vào đời nhà Trần...
Quốc học, trường trung học đầu tiên của
Việt Nam, được thành lập năm 1896 năm Thành Thái thứ 8. Tên
trường “Quốc Học” cũng thăng trầm theo vận nước nổi trôi. Năm
1907, chính phủ bảo hộ Pháp đã ép Vua Thành Thái thoái vị và
phong Vua Duy Tân lên kế vị. Năm 1916 Vua Duy Tân bỏ kinh thành
theo nghĩa quân kháng chiến chống Pháp. Người Pháp phong Vua Khải
Định kế vị Vua Duy Tân. Vua Khải Định băng hà năm 1925. Vua Bảo
Đại nối ngôi và muốn vinh danh tiên đế nên đổi tên trường Quốc
học thành trường Khải Định. Sau năm 1954 trường được đổi tên là
Trường Ngô Đình Diệm, nhưng đến năm 1956, dưới thời Đệ Nhất Cộng
Hòa, châu lại về hiệp phố, danh xưng Quốc Học lại trở về với mái
trường xưa.
Quốc Học đã đào tạo biết bao nhiêu nam thanh nữ tú phục vụ trong
mọi ngành sinh hoạt của quốc gia. Năm nay, lễ kỷ niệm 123 năm
(1896–2019) Quốc Học không những sẽ diễn ra tại miền sông Hương
núi Ngự, chốn cố đô nghiêm mật mơ màng mà sẽ được cử hành khắp
năm châu bốn bể vì ngày nay đâu đâu cũng in hình dấu vết của cựu
học sinh Quốc Học.
Nếu quan niệm gặp nhau là một cơ duyên,
vào chung trường, ngồi chung lớp là một sự tiến bộ và cùng tốt
nghiệp ra trường là một sự thành công thì những cựu học sinh tốt
nghiệp Quốc Học đều đã công thành danh toại. Tôi còn nhớ vào năm
1958, khoảng cuối hè và đầu thu, tôi nạp đơn vào lớp Đệ Tam Quốc
Học. Như truyền thống đã định tất cả ứng viên phải trải qua một
kỳ thi nhập học. Tôi không nhớ đã thi những môn gì nhưng đây là
một loại “contest” đã loại một số học sinh không được nhận vào
ngôi trường nổi tiếng này.
Năm Đệ Tam là năm học tà tà, dưỡng sức
cho năm đệ nhị chuẩn bị xông pha trường thi trận bút. Năm Đệ nhị
“tình hình chiến sự” có vẻ gay cấn hơn, chẳng những phải “gạo”
bài cho đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt mà còn phải học kỳ cho kỳ
thi Tú tài I cuối năm.
Thường thường tôi dùng 2/3 thì giờ để
học bài thầy giảng trong chương trình và 1/3 đọc thêm những gì
không được giảng dạy nhưng có liên quan đến chương trình như thế
sẽ khỏi bỡ ngỡ khi đề thi liên hệ đến kiến thức tổng quát. Cũng
theo cách học này mà tôi trúng tuyển dễ dàng hai kỳ Tú tài I và
II.
Đã khá lâu
nên không nhớ rõ hết các đề thi, duy chỉ có hai đề thi có phần lý
thú nên khó quên. Đó là đề thi Tú Tài I–1960 về văn chương VN
“Con người do 3 yếu tố tạo thành: Địa phương, giống tộc và thời
đại, bạn hãy căn cứ vào văn chương thế kỷ thứ XIX để chứng minh
câu nói trên”. Đề thi này phỏng theo đề thi “Dissertation
literaire” – kỳ thi BAC I tại Paris, thập niên 1950, về văn
chương Pháp, thế kỷ thứ XIX mà tôi đã có dịp đọc qua luận văn
bằng Pháp ngữ nên đuợc xem như “trúng tủ”. Chỉ khác là thay vì
luận về văn chương Pháp thì luận về văn chương Việt Nam thế kỷ
thứ XIX!
Đề
thi triết Tú tài II–1961 cũng rất gọn gàng và dễ nhớ “Vai trò của
trí tuệ trong tri giác ngoại giới”. Trong cả hai trường hợp, đọc
qua đề thi thì hình như dàn bài đã có sẵn trong trí, tôi viết một
mạch 3 giờ liền, đọc lại và nạp bài, ra khỏi phòng thi, thấy rất
thoải mái vì chẳng những không “bí” mà còn viết thao thao bất
tuyệt, tự biết thế nào cũng “dính”.
Tuy vậy những lần đi nghe xướng danh
cũng rất hồi hộp. Cái hồi hộp lý thú của tuổi học trò. Những năm
học ở trung học thi cử liên miên khiến cho học sinh phải lo âu
thường trực. Càng lo âu thì càng dễ trở nên thất vọng. Có người
không chịu nổi cái “đệ nhất buồn là cái hỏng thi” nên phải quyên
sinh. Học chế của mình kể ra cũng khắt khe. Cô, thầy thì nghiêm
khắc vì “Giáo bất nghiêm thì sư chi đọa”. Bài vở phần lớn học
thuộc lòng, vận dụng trí nhớ nhiều hơn suy luận.
Chúng ta thuờng nghe nói: “gạo như gạo
vạn vật...”
Bây giờ thì tất quả đều quá vãng, có còn lại chăng chỉ dư âm
thôi!
“Thôi đã
xa rồi vạn gót hương
Của người đẹp đến
tự muôn phương
Xa rồi những bước không
hò hẹn
Đã bước trùng nhau một nẻo đường”
Nẻo đường Quốc Học của thời niên thiếu
vẫn luôn luôn chập chờn trong trí tưởng với hình ảnh của con sông
xưa, thành phố cũ.
“Áo em lụa trắng sông Hương
Qua đò Thừa Phủ nhớ thương rạt rào”
Nỗi nhớ, niềm thương đó vẫn canh cánh
bên lòng như bản nhạc vàng ru trọn đời mình. Dù vì quốc biến nên
“Có những người đi không về. Xa xôi rồi quên ước thề”!
Hoài niệm về trường xưa, bạn cũ không
chỉ là hoài niệm đơn thuần tình cảm mà còn tiềm ẩn tinh túy của
Quốc học là những gì lưu lại sau khi đã quên hết “La culture (de
QH) est cequi reste après avoir tout oublié”. Xuất thân từ Quốc
Học cũng như xuất thân từ cửa Khổng sân Trình. Con người hấp thụ
được tinh hoa của cổ và tân học.
Nếu con người do ba yếu tố tạo thành:
Hoàn cảnh, thời đại và giống tộc thì Quốc học đã là hoàn cảnh, là
môi trường tốt cho cựu học sinh triển nở, khiến cho nam thanh nữ
tú hàng hàng lớp lớp từ thế hệ này sang thế hệ khác xuất thân từ
ngôi trường thân thương này và đã trở thành biết bao anh tài cho
Tổ quốc.
Cái
tinh hoa của nền Quốc Học là ngoài khả năng, kiến thức tổng quát,
cựu học sinh được bồi dưỡng tinh thần bằng niềm hãnh diện về
trường xưa, bạn cũ và quan niệm về giáo dục qua phong cách giảng
dạy, lối sống và triết lý giáo dục của nền quốc học Việt mà một
vị Nho sĩ, Cụ cố Ngô Đình Khả, đã được bổ nhiệm nhậm chức Chưởng
Giáo của Quốc Học.
Triết lý giáo dục nhằm vào chủ đích
không những làm cho con người giỏi dang hơn (trí dục) mà chính là
làm cho con người sống cao thượng hơn (đức dục). Ngày nay học tập
để ngày mai giúp đời. Giúp đời chứ không chỉ biết vinh thân phì
gia. Nguyễn Du Tiên sinh rất hữu lý khi nói lên triết lý hành
động qua lời Từ Hải:
“Phong trần mài một lưỡi gươm.
Những loài giá áo túi cơm sá gì”.
Lưỡi gươm đây còn mang ý nghĩa là đem
sở học và sự hiểu biết để phụng sự nhân quần xã hội, sửa trị
những sự việc trong xã hội cho chính trực như tinh thần Nguyễn
Công Trứ:
“Trong lăng miếu ra tài lương đống.
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương”.
Lợi ích của sự giáo dục là để phát
triển kiến thức về luân thường đạo lý (đức dục) và kiến thức
chuyên môn (trí dục). Nền quốc học chủ trương “Tiên học lễ hậu
học văn” chú trọng đến sự phát triển con người toàn diện về cả ba
khía cạnh đức dục, trí dục và thể dục, cốt đào tạo những người có
đức hạnh, trí óc sáng suốt, có liêm sỉ, để cải tạo xã hội chính
trị, hơn là chỉ chú trọng đào tạo những người có kiến thức chuyên
môn như nền giáo dục Tây phương.
Nhận chân được khuyết điểm là có khoa
học mà vô lương tâm chỉ đem lại phiền não, bại hoại tâm hồn.
“Science sans conscience n’est que ruine de l’âme”, ngày nay
nhiều đại học ở Tây phương tìm cách nhân văn hóa các chương trình
khoa học bằng cách đưa các môn triết học, nhân chủng, xã hội, đạo
đức, tâm lý... vào khóa học để giúp sinh viên tốt nghiệp sẽ trở
nên con người toàn diện, hiểu người, biết mình hơn là con người
kỹ thuật, máy móc (robot).
Sự học tô điểm cuộc đời, giúp chúng ta
khám phá những kỳ hoa dị thảo trong vườn hoa kiến thức của nhân
loại. Càng hiểu biết con người càng trầm tĩnh, ít lo âu, ít hoảng
hốt, tâm bớt động và nhờ đó thái độ được trầm tĩnh và tránh đuợc
lầm lẫn hay sợ sệt:
1. Ít lo âu vì nhận diện được vấn đề và
biết cách ứng phó đúng với câu “Khi vui đến thì hãy vui mà chớ
kiêu căng, tự phụ, khi tai họa đến thì phải suy nghĩ mà chớ buồn
phiền.” Chính nhờ sự suy nghĩ mới có thể mưu sinh thoát hiểm thay
vì buồn phiền sẽ sinh ra nản chí và thất bại.
2. Tránh được lầm lẫn là nhờ khả năng
nhận biết phải trái, phân rõ trắng đen qua kinh nghiệm giải quyết
sự việc của tiền nhân và của người đương thời. Ngày nay khoa quản
trị học (management science) đào tạo những chuyên viên quản trị
biết kỹ thuật tổ chức, điều hành và phương pháp giải quyết vấn
đề. Tiêu chuẩn phán xét phải, trái, không hẳn do ý kiến của một
cá nhân, vì ý kiến cá nhân có khi lầm lẫn. Do đó ý kiến đúng hay
sai phải là ý kiến của đa số trong một hoàn cảnh và thời gian nào
đó. Tiêu chuẩn đúng sai do đa số quyết định “What is right or
wrong being determined by the will of the majority” (John Locke,
On Civil Government–1679). Ý kiến của đa số hay là ý chí chung có
thể được tham khảo qua nhiều phương thức hoặc do phong tục tập
quán lấy ý kiến chung ở chốn đình trung, hoặc do biểu quyết, hay
trưng cầu dân ý qua lá phiếu.
3. Ít sợ sệt vì hiểu được vấn đề, không
lo ngại và chấp nhận dấn thân mà không e dè sợ sệt, hùng tâm dũng
chí.
Với ba
đặc điểm ít lo âu, tránh lầm lẫn, ít sợ sệt; người khôn ngoan
thường nhận xét sự việc một cách khách quan, theo lẽ phải hơn là
thiên kiến. Để đạt đến tính cách khách quan, sự nhận xét phải có
tính cách vô ý, vô tất, vô cố và vô ngã:
1. Vô ý: nghĩa là không khư khư theo ý
riêng của mình mà phải chấp nhận bàn bạc để tìm ra lẽ phải và làm
theo lẽ phải để tạo sự đồng thuận trước khi thi hành công tác.
“Discussion is the anvil upon which the spark of the truth is
struck”. Tiếp xúc cá nhân, chia sẻ và đối thoại là phương thức để
tìm ra lẽ phải.
2. Vô tất: Đừng vội quyết đoán là công
việc làm được hay không làm được mà phải tạo cơ hội để thực hiện
mới biết dễ hay khó. Không nên chủ quan bác bỏ ý kiến của người
khác theo nhãn quan thiển cận của mình mà phải biết chấp nhận thử
thách.
3. Vô
cố: Không nên cố chấp, nệ cổ mà phải biết chấp nhận sáng kiến.
4. Vô ngã: Cái tôi là đáng ghét (le moi
est haissable) đừng vì quyền lợi cá nhân hay phe phái mà sinh ra
mù quáng, nhìn bạn thành thù, nhìn thù thành bạn, lộng chân thành
giả, lộng giả thành chân.
Bốn phương cách xét định công việc nêu
trên giúp chúng ta đạt được sự chánh ý trong vấn đề suy luận và
phát biểu nhằm giảm sự xung khắc về tư tưởng và hành động.
Dụng đích của sự học không những để gia
tăng sự hiểu biết mà còn giúp phát triển các đức tính khác như
Đức Khổng Tử đã giáng cho Tử Lộ sáu điều tai hại của sự thất học:
1. Người ham điều nhân mà không học thì
bị cái hại là ngu muội.
2. Người ham đức
trí mà không học bị cái hại là phóng đãng.
3. Người trọng chữ tín mà không học thì có hại là dễ bị lừa gạt.
4. Người thích sự ngay thẳng mà không học thì hóa ra nóng nảy.
5. Người dũng cảm mà không học thì hoá ra phản loạn.
6. Người cương quyết mà không học thì hóa ra cường bạo.
Giáo dục không chỉ là học từ chương
trích cú để lãnh được mảnh bằng theo sách vở mà phải biết suy
luận, áp dụng kiến thức vào những hoàn cảnh khác nhau vì mỗi hoàn
cảnh đòi hỏi một phương cách riêng để giải quyết vấn đề. Do đó
“tri và hành phải hợp nhất”. Học mà không biết đem sự hiểu biết
áp dụng vào đời sống thì kiến thức đó hoàn toàn vô dụng, cho nên
Luận Ngữ có câu:
“Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt
hồ”, học mà đem ra áp dụng được thì chẳng phải vui lắm sao!
Tham gia các công tác sinh hoạt xã hội,
chính trị, văn hoá, kinh tế, y tế, giáo dục... đều là những cơ
hội học hỏi chứ không phải chỉ đến nhà trường mới gọi là học.
Theo thầy Tử Lộ thì “Cai trị nhân dân, cúng tế thần đất đai, mùa
màng, thì cũng là học, hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là học”.
Quan niệm này rất hữu lý và tiến bộ vì
ngoài lối học sách vở, còn phương pháp huấn luyện OJT (On the job
training) ngày nay rất thịnh hành tại các nước tân tiến. Muốn học
hỏi trước tiên phải:
1. Khiêm nhường và phục thiện. Những
người kiêu căng, chỉ biết nói và không biết nghe thì không học
hỏi gì được. Khiêm nhường tức là hỏi người dưới không lấy làm
thẹn “Bất sỉ hạ vấn”.
2. Có thiện chí tìm hiểu hỏi han. Đức
Khổng Tử nói: “Người nào không hỏi phải làm sao? phải làm sao?
thì ta cũng chẳng có cách nào chỉ bảo cho được. Kẻ nào không hăng
hái muốn hiểu thì ta không thể giúp cho hiểu được, kẻ nào không
tỏ ý kiến thì ta không thể giúp cho phát biểu ý kiến được. Ta vén
lên cho một góc mà chẳng tự tìm được ba góc kia thì ta không
giảng cho thêm nữa”.
Thế thì giáo huấn cũng còn tùy người,
tùy tánh nết, tùy trí tuệ, tư cách của mỗi nguời, cũng như may
áo, tùy kích thước của mỗi người. “Cưỡng bách giáo dục” tại một
số quốc gia tân tiến thường đến lớp 9 (đệ tứ) hoặc lớp 12 (đệ
nhất), phần học còn lại là do thiện chí muốn tiếp tục sự học.
Phương pháp giáo huấn tùy người có từ
trên 2000 năm về trước, ngày nay nhiều đại học đang áp dụng các
chương trình giáo dục “University without wall” và các chương
trình “Nontraditional” tức là cá nhân hóa chương trình cho phù
hợp với sở trường thực dụng của mỗi cá nhân.
Con nguời được thụ tạo như những viên
ngọc quý. Nhưng ngọc bất trác thì bất thành khí, hay như những
cây gỗ quý, nhưng nếu không biết trau dồi học hỏi thì gỗ quý sẽ
biến thành gỗ mục, mà “Gỗ mục thì không chạm khắc gì được, cũng
như vách bằng đất bùn thì không tô vẽ gì lên được”.
Phương pháp học hỏi hữu hiệu là vận
dụng tri giác (thu nhận kiến thức qua giác quan – perception) mà
nghe và thấy là hai giác năng quan trọng nhất giúp con người thu
nhận ngoại giới. Do đó cổ nhân khuyên là “Nên nghe cho nhiều,
điều gì còn nghi ngờ thì để đó, tìm hiểu thêm. Điều gì biết rõ
ràng, chắc chắn thì nên nói, nhưng nên nói một cách ôn tồn.” và
“Nên thấy cho nhiều, những gì chưa được rõ thì để đó đừng làm,
còn những gì biết rõ thì cũng phải làm một cách cẩn thận như vậy
sẽ ít phải ăn năn”.
Trong thiên hạ thường có 4 hạng người:
1. Không ai dạy mà biết được đạo lý là
hạng ưu tú – Sinh nhi tri chi giả, thượng dã – Đó là hạng người
thông minh vốn sẵn tính trời, là hạng ưu việt.
2. Học rồi mới biết là hạng trung – Học
nhi tri chi giả, thứ dã – gồm đa số khoa bảng, chuyên viên.
3. Dốt mà chịu học là bậc thấp – Khốn
nhi học chi, hữu kỳ thứ dã – là những thành phần hiếu học để
thăng tiến.
4.
Dốt mà không chịu học là hạng cuối cùng của xã hội – Khốn nhi bất
học, dân tư vĩ hạ hỉ – Hạng thứ tư này đa số bất cần đời, sinh
lộn kiếp! “Cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần
đến đâu?”
Tại
Hoa Kỳ nguời ta cũng thường đề cập đến ba hạng chuyên viên:
1. Hạng chuyên viên ưu tú thường nêu ra sáng
kiến, phát minh. “Professionals with great minds talk about
ideas”
2. Hạng
chuyên viên trung bình thường bàn về những chuyện đang xảy ra
“Professionals with average minds talk about current events”; và
3. Hạng chuyên viên thường hay bàn
chuyện người khác. “Professionals with small minds talk about
people”.
Dù
thuộc loại chuyên viên nào chăng nữa, trong một ngày mình nên xét
ba điều:
1.
Mình giúp ai việc gì, có giúp hết lòng không?
2. Mình giao du với bạn bè có giữ được chữ tín không?
3. Mình có học hỏi thêm điều gì mới mẻ trong ngày không?
“Mỗi ngày biết thêm điều mình chưa
biết, mỗi tháng không quên những điều mình đã biết, như vậy là
biết học rồi đó”. Nhưng cũng nên biết rằng “Biết học không bằng
ham học và ham học không bằng vui mà học”. “Nếu mình yêu thích
công việc mình làm, thi xem như cả đời không làm gì hết”!
Diễn trình giáo dục là diễn trình thu
nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo. Tuy
vậy, đó chỉ mới là giai đoạn đầu hay nói khác đi là giai đoạn
“cách vật chí tri”, hiểu biết sự việc ngoại giới mà chứng chỉ,
bằng cấp là biểu tượng cho giai đoạn này. Nếu đến giai đoạn này
rồi tự thỏa mãn và ngưng học hỏi, tu thân, thì chỉ là hiểu biết
vòng ngoài, nghĩa là mới thu nhận được kiến thức ngoại giới nhưng
chưa đạt đến trình độ “Thành tâm, chánh ý, tu thân, tề gia, trị
quốc và bình thiên hạ”.
Kiến thức thu nhận được ở nhà trường từ
tiểu học đến đại học chỉ là kiến thức căn bản ai cũng có thể học
được miễn có thì giờ và phương tiện để trở thành chuyên viên. Đó
là sự thực, vì nhìn vào xã hội chúng ta thấy sinh đồ càng ngày
càng đông và trường học càng ngày càng nhiều.
Học để hiểu biết và hiểu biết hơn về
một ngành chuyên môn để trở thành “chuyên viên” (professional) là
điều tốt, nhưng nếu chỉ để “mong an nhàn, sống lâu giàu bền”, còn
việc nước việc cộng đồng, xã hội không thèm nghĩ đến thì chưa đạt
đến trình độ “Trí thức”.
Để đào luyện (formation) trí thức,
triết lý giáo dục nhân bản của nền Quốc Học không ngưng lại ở mức
độ thu nhận kiến thức chỉ để trở thành chuyên viên mà còn tiến
đến chủ đích làm cho con người trở nên cao thượng hơn: “Thương vị
đức, hạ vị dân”. Phối hợp đạo lý làm người và kiến thức để giúp
đời, là dấu chỉ của người trí thức, của kẻ sĩ. Cụ Nguyễn Công Trứ
đã từng quan niệm:
“Kinh luân khởi tâm thượng,
Binh giáp tàng hung trung.
Vũ trụ chi
giai ngô phận sự.
Nam nhi đáo thử thị
hào hùng”.
Khi
quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Kẻ sĩ không phải là hạng
người ngồi khoanh tay khi sơn hà nguy biến!
Phải chăng Quốc Học là trường xây dựng
nền tảng cho nền Việt học, phối trí giữa kiến thức và tâm đạo.
Kiến thức có thể diễn tả qua tư tưởng, kỹ thuật phương trình,
công thức... còn tâm đạo được thể hiện qua tinh thần đạo đức,
lương tâm chức nghiệp của quý Thầy, quý Cô.
“Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành”. Với
lương tâm chính trực, tận tụy của quý Thầy, quý Cô, học sinh
đương nhiên vì mến thầy, thương Cô mà học không phải vì Thầy la,
Cô mắng.
Một
khi xuất thân từ Quốc Học, học sinh đều thành danh phụng sự xã
hội với tinh thần Nhân, Trí, Dũng: Phối hợp được lòng nhân ái,
tâm đạo, kiến thức và nghị lực, quả cảm để xây dựng cộng đồng xã
hội, quốc gia dân tộc.
Dù tha hương, sống nơi góc bể chân
trời, đến ngày kỷ niệm 123 năm (1896–2019) Quốc Học, vẫn hướng về
mái trường thân thương nơi con sông xưa thành phố cũ, ngâm khúc
hoan ca:
“Trường xưa lưu mãi bóng hình
Trăm năm
Quốc Học hiển vinh muôn đời”.
Trần Xuân Thời
QH
1958–1961
Quốc Học High School Reunion: 58 năm
gặp lại (1961–2019) San Jose, CA.
Từ
trái sang phải: A/C Tôn Thất Hoa và A/C Trần Xuân Thời.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Danh sách những Bài viết của Tác giả Trần Xuân Thời
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Trần Xuân Thời chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, July 9, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang