Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sưu Tầm
Chủ đề:
Giấy Dó
Tác giả:
Mai Đan
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu: Kính thưa Quý Độc giả, năm nay,
2019, trang web GĐMĐVN/DMV (District of
Columbia–Maryland–Virginia) có giới thiệu tập Truyện dài tựa “LỀU
CHÕNG“ của nhà văn Ngô Tất Tố thuật lại cảnh Thi Hương thời
Phong kiến tại nước Nam ta. Ngày ấy toàn nước Đại Việt có các
Trường Thi Hương rải đều từ Bắc vào Nam như sau
[tính từ đời nhà Nguyễn?]:
–Tại miền Bắc–Việt Nam
có các Trường thi Nam Định và Hà Nội,
–Miền Bắc–Trung phần có Trường Thanh Hóa và
Trường Nghệ An,
–Miền Nam–Trung
phần có Trường Thừa Thiên và Trường Bình Định, và
–Miền Nam có Trường Thi Hương Gia Định…
Tất cả các Trường Thi Hương trên đều
thuộc dạng Màn Trời–Chiếu Đất
[tạm dịch sang Anh ngữ là “open–air
amphitheater” nhưng đơn giản hơn nhiều],
nghĩa là chỉ có một lô đất trống rộng bao la, chung quanh được
rào bằng tre hoặc nứa. Bên trong dựng một số chòi canh cũng bằng
tre, chính giữa là nhà “Thập Đạo”.
Ngày ấy các Sĩ Tử
[Bộ Giáo Dục VNCH I&II gọi là Thí
Sinh] dùng “GIẤY
DÓ” và “mực tầu” để làm văn trong
trường thi. Ngôn ngữ dùng trong các kỳ Thi Hương thời xưa là chữ
Nho.
Vậy
Giấy dó là gì? Giấy dó dùng để làm gì?
Và hình thức loại Giấy dó nom ra sao? Kính mời
Quý vị theo dõi bài sưu tầm dưới đây về “Nghề
Làm GIẤY DÓ ở Việt Nam”.
Lưu ý:
Bài viết này không nhằm mục đích quảng cáo cho bất cứ cơ sở
thương mại làm giấy nào... ở bất cứ nơi đâu trên quả đất này. Chỉ
vì khi 242 “xiu tầm” trên “yên–tờ–nét” thì tình cờ gặp bài dưới
đây... nên bèn ghi lại cho bà con đọc cho biết… sự tình.
Trân trọng.
–bkt.
(TBTCO) – Đống Cao (Phong Khê, Bắc Ninh) là làng nghề [Thủ công nghệ] duy nhất còn làm giấy dó truyền thống, nhưng hiện tại, chỉ còn 2 gia đình giữ được nghề. Nghề làm giấy dó ở Đống Cao đang có nguy cơ biến mất.
GIẤY DÓ Đống
Cao thường có độ bền cao, mỏng và dai.
Ảnh: Mai Đan
Nghề thủ công giấy dó ở Đống Cao không biết có tự bao giờ, nhưng
theo cuốn gia phả cổ nhất của dòng họ Ngô hiện nay vẫn còn giữ,
thì nghề này có từ thế kỷ 15.
Nghề lắm công phu
Theo chỉ dẫn của người dân, tôi tìm đến
nhà anh Nguyễn Văn Tâm ở thôn Dương Ổ (Đống Cao), một trong những
gia đình hiếm hoi còn giữ được nghề. Đập vào mắt tôi đầu tiên là
khung cảnh ngổn ngang của xưởng giấy, đặc biệt là cái mùi hăng
hắc thoát ra từ bể ngâm nguyên liệu và bể seo giấy. Khi tôi tới,
trong nhà có tới 5 lao động đang làm việc, mỗi người một công
đoạn.
Qua trò
chuyện, anh Tâm cho hay từ năm 14 tuổi đã được cha mẹ truyền dạy
cách thức làm giấy dó. Cho tới nay anh đã gắn bó với nghề này
được 31 năm.
Theo anh Tâm, làm giấy dó đòi hỏi người thợ phải có tay nghề và
thật sự đam mê, bởi để tạo ra được những tờ giấy dó đẹp phải trải
qua rất nhiều công đoạn. Tính sơ sơ từ CÂY DÓ cho đến khi ra một
tờ giấy cũng phải mất gần 10 công đoạn, tức là gần một tháng mới
hoàn thiện được.
Vỏ dó mang về được tách hết lớp vỏ đen,
phơi khô chừng 3 nắng, sau đó chặt từng khúc nhỏ 50 phân nhúng
qua nước vôi và cho vào thùng phuy nấu trong khoảng 16 tiếng. Qua
nhiều công đoạn sơ chế, bột dó được cho vào bể có pha thêm chất
phụ gia để seo giấy. Các tập giấy sau đó được ép khô rồi tách
từng tờ đóng lại thành tập trước khi xuất
[đem]
bán.
Được biết, hiện tại gia đình anh Tâm
làm khoảng 20 loại mẫu mã giấy, chủ yếu là giấy vẽ nghệ thuật,
kích thước lớn nhất là 79x109, loại bé 20x30. Với loại giấy cỡ
lớn nhất có giá 350,000 đồng/tờ. Sau khi trừ đi tất cả chi phí
nguyên vật liệu, thuê nhân công, lãi thu về mỗi tháng đạt khoảng
40%. Trung bình mỗi ngày làm 2 vợ chồng anh lãi được 600,000 đồng
[1].
Các sản
phẩm giấy dó nhà anh Tâm chủ yếu được dùng để vẽ tranh Đông Hồ và
bồi vá tài liệu. Anh Tâm cho biết, vì giấy dó Đống Cao có độ bền
cao, dai, thấm nước và không bị mất màu.
Hiện tại, việc tiêu thụ giấy dó của gia
đình anh chủ yếu dựa vào khách hàng quen như làng tranh Đông Hồ,
Cục lưu trữ Quốc gia 3, Cục lưu trữ Quốc gia 1, Viện nghiên cứu
Hán–Nôm, thi thoảng có đoàn khách nước ngoài đến thăm và mua
nhưng với số lượng không đáng kể và thường phải sản xuất theo yêu
cầu.
Khó giữ
nghề
Bắt kịp
với nhu cầu thị trường, hầu hết các gia đình tại làng nghề Đống
Cao đã chuyển sang làm giấy công nghiệp. Thực tế, việc sản xuất
giấy công nghiệp đã giúp người dân làng nghề từ những người làm
giấy thủ công trở thành những ông chủ xí nghiệp, nhà máy giấy với
hàng trăm công nhân.
Trong khi đó, lớp trẻ hiện nay không
mấy mặn mà với nghề truyền thống của cha ông để lại. Chỉ tính
riêng việc đi làm công nhân, mỗi tháng cũng kiếm được 6–7
triệu/tháng, mà công việc không đòi hỏi tay nghề và tỉ mỉ như làm
giấy dó.
Các tờ giấy được xếp chồng
lên nhau, nén cho kiệt
[2]
nước
Khi được hỏi về dự định mở rộng cơ sở sản xuất, anh Tâm chỉ lắc
đầu: trước giờ chưa hề nghĩ tới. “Làm giấy dó bây giờ chẳng lãi
là bao. Nguồn nguyên liệu để làm giấy dó phải mua từ Tuyên Quang,
Hà Giang, Bắc Thái, nhưng việc khai thác thiên nhiên đang dần cạn
kiệt trong khi người dân trên đó không trồng thêm cây dó mới.
Phần vì đầu ra không ổn định, giá thành rẻ mà nhiều khi giấy sản
xuất ra bị tồn kho”, anh Tâm ngậm ngùi.
Anh Tâm cho biết thêm, gia đình chưa có
phương án nào để bảo tồn vì thiếu nhân công có tay nghề, muốn cải
tiến thì phải đợi theo yêu cầu của khách. Bình thường nếu giấy dó
truyền thống thì chỉ bán được mấy chỗ quen, còn khách nước ngoài
đặt hàng thì phải in màu, vì họ mua về làm ra các sản phẩm khác
đẹp hơn như sổ tay, túi xách... còn gia đình thì không đủ sức để
làm vì chi phí khá cao.
Tâm sự với tôi, anh Tâm lo ngại, sau
này không còn ai làm nghề GIẤY DÓ nữa. Trong thâm tâm, gia đình
anh chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ định hướng cho con cái theo nghề
của cha ông để lại. Bởi vì theo anh, muốn làm được giấy dó phải
bắt đầu học từ nhỏ, đến khoảng 16, 17 tuổi là có thể bắt đầu làm,
khoảng 20 tuổi có thể thành nghề được./.
Mai Đan
Nguồn:
http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2014-11-10/thang-tram-voi-nghe-giay-do-15022.aspx
bkt ghi chú:
[1] Sáu trăm
ngàn đồng VN (600,000). Ở hải ngoại, như Mỹ thì người ta dùng dấu
phẩy/phết để chỉ các đơn vị tiền tệ hay đo lường giữa hàng chục,
trăm, ngàn... và dấu chấm để phân biệt các số thập phân như
$1,200.99 (một ngàn hai trăm đồng “chín mươi chín” xu). Vì bài
này được ghi cho người đọc tiếng Việt ở hải ngoại, nên BKT chuyển
các ký hiệu VN sang ngoại quốc cho Quý Độc giả hải ngoại hiểu.
Thí dụ: nếu viết 600.000, thì ở hải ngoại, nhất là giới trẻ VN
chào đời ở Mỹ hay người bản xứ sẽ hiểu là sáu trăm (600) thay vì
sáu trăm ngàn (600,000)... 600 và 600000 cách nhau xa lắm.
[2] hết, khô,
hay ráo... nước.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những
bài viết có liên quan đến ngành Giáo dục VN xưa:
Giấy Dó
Nghề Làm GIẤY DÓ ở Việt Nam
Luận về KHOA BẢNG
Tiểu
thuyết:
Lều Chõng
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: bkt sưu tầm
Đăng ngày Chúa Nhật, July 28, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang