Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Biên
Khảo
Chủ đề:
tiếng việt
Tác giả:
Phạm Đình Lân
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Như tất cả các
dân tộc khác trên thế giới, người Việt Nam có tiếng nói từ lúc
bình minh lịch sử nhưng tiền nhân chúng ta không có chữ viết. Đó
là tình trạng chung của các dân tộc sống ở miền nam sông Dương Tử
đến thung lũng sông Hồng, sông Mã, và sông Cả cách đây 3000 năm.
Ở Trung Hoa có lối 500 thổ ngữ khác nhau nhưng tất cả các tộc đều
cùng chung một chữ viết.
Người Việt Nam học Hán tự từ các nhà
cai trị Trung Hoa dưới thời Bắc Thuộc (111 trước Tây Lịch đến 938
sau Tây Lịch). Vào thế kỷ 13 Nguyễn Thuyên, thượng thơ bộ hình
dưới triều vua Trần Nhân Tôn (1225–1258), là người đầu tiên làm
thơ bằng chữ Nôm. Ông được vua nhà Trần cho đổi sang họ Hàn sau
khi làm một bài văn tế khiến cho con sấu hung tợn trên sông Phú
Lương bỏ đi. Sự kiện này giống như Hàn Dũ (768–823) đời Đường
đặt văn tế cá sấu khi làm thứ sử ở Triều Châu. Tuy vậy chữ Nôm
vẫn chưa phát triển. Các cuộc thi tam trường qua các triều đại ở
Việt Nam đều bằng chữ Hán.
Điều đáng chú ý là chữ Nôm không giản
dị như nhiều người lầm tưởng. Cách diễn đạt nôm na thì đơn giản.
Thay vì nói “nhất nhân hành” ta nói “một người đi”. Nhưng cách
viết chữ Nôm rất rắc rối vì nó đòi hỏi người học phải biết chữ
Hán. Vào thế kỷ thứ 8 dân chúng tôn Phùng Hưng là Bố Cái Đại
Vương. Vào thế kỷ 10 Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu là Đại Cồ
Việt. Danh hiệu Bố Cái Đại Vương hay quốc hiệu Đại Cồ Việt đánh
dấu sự kết hợp của chữ Nôm và chữ Hán ngay từ thế kỷ 8 và 10.
Hoàng đế Quang Trung là người mạnh dạn
trong việc quảng bá chữ Nôm. Vào thế kỷ 19 những tác phẩm nổi
tiếng như Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu đều được viết bằng chữ Nôm. Trước đó Đặng Trần
Côn viết Chinh Phụ Ngâm Khúc bằng chữ Hán. Bà Đoàn Thị Điểm đã
diễn Nôm tác phẩm này một cách đặc sắc đến nỗi nhiều người ngờ
rằng bà là tác giả của áng văn tuyệt tác này.
Từ năm 1862 chữ quốc ngữ được giảng dạy
ở ba tỉnh miền đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, và Định Tường).
Giáo sĩ Pháp Alexandre de Rhodes (1591–1660) phát minh ra chữ
quốc ngữ vào thế kỷ 17 để tiện việc giảng giáo lý ở Đàng Ngoài.
Đến năm 1867 Pháp chiếm đóng toàn thể Nam Kỳ Lục Tỉnh nên thi
hương đương nhiên bị bãi bỏ ở Nam Kỳ. Kỳ thi hương năm 1915 là kỳ
thi cuối cùng ở Bắc Kỳ. Ở Trung Kỳ thi hương, thi hội, và thi
đình chấm dứt vào năm 1918. Từ đó về sau toàn thể ba miền ở Việt
Nam đều học chữ quốc ngữ hiện đang lưu hành trong nước. Như vậy
Việt tự hiện hành ra đời do công lao của một giáo sĩ người Pháp
gốc ở Avignon. Nó mới thịnh hành trên toàn thể nước ta vào đầu
thế kỷ 20 mà thôi.
ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾNG VIỆT
1. Tiếng Việt là một thứ tiếng độc âm.
Các tiếp đầu ngữ (prefix) và tiếp vĩ ngữ (suffix) đều độc âm
không giống như tiếng Pháp hay tiếng Anh. Thí dụ: hậu chiến
(post–bellum hay post–war); bán quân sự (para–military); Việt Nam
hóa (Vietnamization); Mỹ hóa (Americanization), v.v.
2. Tiếng Việt tương đối thuần nhất. Dù
cách diễn tả có phần khác nhau nhưng dân chúng ở ba miền vẫn có
thể hiểu nhau. Ở miền Bắc người ta nói: “Nhặt hộ tôi quả bóng.” Ở
miền Nam, cũng ý nghĩa của câu này, người ta nói: “Lượm giùm tôi
trái banh.” Một vài khác biệt về cách dùng từ ngữ được tìm thấy ở
ba miền. Khi nói đến xương mỏ ác, người miền Nam chỉ trên đầu,
người miền Bắc chỉ trên ngực. Người miền Nam gọi đó là xương ức
hay chấn thủy (stenum). Đối với người miền Bắc và miền Trung sầm
uất là nơi ồn ào náo nhiệt. Ở miền Nam sầm uất là nơi vắng vẻ, âm
u, có nhiều bụi bậm hay đầy dẫy bình vôi. Người miền Bắc gọi trái
mãng cầu là trái na, cái muỗng là cái thìa, trái mận là trái roi,
con heo là con lợn, v.v. Ở miền Trung “không có răng” có nghĩa là
“không có sao”.
3. Tiếng Việt dồi dào âm thanh vì có
nhiều dấu. Đọc sai dấu hay viết nhầm dấu có thể gây ra những hiểu
lầm đáng tiếc. Chính vì có nhiều dấu mà việc học Việt ngữ trở nên
khó khăn đối với người ngoại quốc vì họ khó phát âm đúng được.
Hình dung từ trong tiếng Việt rất phong
phú và gợi hình. Con mèo đen được gọi là mèo mun. Con chó đen thì
gọi là chó mực. Con gà đen thì gọi là con gà ô hay con gà quạ.
Con ngựa đen thì gọi là ngựa ô. Con ngựa trắng thì gọi là con
ngựa kim hay ngựa bạch (Bạch mã). Con chuột trắng thì gọi là
chuột bạch.
Về
giống ta có: đực, cái, trống, và mái. Hình dung từ đực và cái
dành cho các loài có vú và thú vật to lớn như chó đực, chó cái,
bò đực, bò cái. Hình dung từ trống và mái dành cho loài thú nhỏ
và loài cầm vũ như cá trống, cá mái, gà trống, gà mái, chim
trống, chim mái, v.v.
Hình dung từ chỉ về cảm giác thì có
đau, nhức, lói, ê, thốn, tức, rim, tê, buốt.
Hình dung từ dốt trong tiếng Việt vừa
khôi hài vừa gợi hình. Dốt là trạng thái không sống cũng không
chín. Me dốt không phải là me chín cũng không phải là me sống.
Bánh tráng dốt không hoàn toàn ướt nhưng chưa khô. Người dốt
không phải là người mù chữ nhưng sự hiểu biết còn nhiều thiếu
sót.
Động từ
porter của Pháp tương ứng với bồng, bế, gánh, gồng, cõng, khiêng,
khuân, vác, đội, mặc của Việt Nam. Chữ ĂN được sử dụng rộng rãi
như ăn cơm, ăn tiệc, ăn Tết, ăn chịu, ăn chực, ăn mặc, ăn mày, ăn
nằm, ăn nói, ăn mộng, ăn nhịp, ăn khách, ăn khớp, ăn ở, ăn thua,
ăn trớt, ăn gian, ăn lận, v.v.
4. Tiếng Việt phong phú nhưng không có
qui luật văn phạm. Động từ “To Be” hay “Etre” mà ta dịch “Thì”
hay “Là” thường vắng mặt trong các câu nói hay câu văn. Trong
tiếng Việt không có chia động từ và không có thì trong động từ.
Trần Trọng Kim soạn quyển Văn Phạm Việt Nam sau khi ông tiếp xúc
với văn hóa Pháp.
Article thì dịch ra là quán từ;
conjonction: liên từ;
verbe: động từ;
préposition: giới từ;
complément: túc
từ;
adjectif: tĩnh từ.
Le, la, un, une, les, des thì tương đương với bên Việt ngữ cái,
con, các, những.
Quán từ cái dùng chỉ vật bất động như
cái chén, cái khăn.
Quán từ con dùng để chỉ thú vật hay vật
có thể di động như con gà, con cọp, con đường, con sông.
Nhưng người Việt Nam không nói cái cam,
cái bưởi, cái núi mà trái cam, trái bưởi, trái núi.
Đây là một phần của sự phức tạp của
tiếng Việt. Không hẹn vẫn gặp. Đó là trường hợp không dùng quán
từ trước những danh từ không đếm được (uncountable nouns) như vẫn
thấy trong qui luật văn phạm Anh và Hoa Kỳ. Do đó người ta không
nói cái thì giờ, cái tiền bạc, cái cảm tình mà nói: thì giờ, tiền
bạc, cảm tình. Trên thực tế không biết có bao nhiêu người Việt
Nam viết thơ văn tiếng Việt suông sẻ nhờ thấu triệt văn phạm Việt
Nam.
Tiền nhân
chúng ta có câu:
Vua có khó thì thợ mới hay.
Mẹ chồng khó thì nàng dâu mới khéo.
Chế độ quân chủ và xã hội giai cấp thời
phong kiến góp phần đáng kể vào việc phong phú hóa Việt ngữ. Ngày
xưa chỉ có vua mới được dùng màu vàng và mặc áo vàng trên đó có
thêu rồng với đầy đủ 5 móng. Một số từ ngữ chỉ dành cho vua và
hoàng tộc mà thôi.
Áo của vua được gọi là long bào hay
hoàng bào.
Thân thể của vua gọi là long
thể.
Mặt vua gọi là long nhan.
Ý của vua gọi là thánh ý.
Ấn của vua gọi
là ngọc tỷ.
Giường vua nằm gọi là long
sàng.
Chuối vua ăn gọi là chuối ngự.
Vua bịnh thì gọi là vua se mình.
Mồ mả
của vua thì gọi là lăng tẩm.
Vua chết
thì nói là vua băng hà.
Hoàng hậu sinh
con thì gọi là hoàng hậu lâm bồn.
Không một thần dân nào dám gọi tên vua
hay dùng tên vua để đặt tên cho con mình. Do đó trong tiếng Việt
có những chữ đồng nghĩa nhưng không đồng âm vì phải đọc trại ra.
Nghĩa trở thành ngãi;
đức: đước;
đảm: đởm;
phúc: phước;
nhân: nhơn;
hoa: huê;
nhật: nhựt;
hoàng: huỳnh;
vũ: võ;
uy: oai;
dũng: dõng;
tôn: tông;
nhậm: nhiệm, v.v.
Thay vì nói: ăn ở cho có nhân có nghĩa
và phải có đức độ người ta nói: ăn ở cho có nhơn có ngãi và phải
có đước độ. Can đảm trở thành can đởm.
Điều này rất phổ cập từ thế kỷ 17 ở
Đàng Trong, vùng ảnh hưởng của họ Nguyễn. Chữ phúc trở thành
phước vì đó là chữ lót của các chúa Nguyễn bắt đầu từ chúa Sãi
Nguyễn Phúc Nguyên đến các vua nhà Nguyễn sau này. Vua Gia Long
tên là Nguyễn Phúc Ánh. Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy.
Đảm, Tôn, Nhậm là tên gọi của vua Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự
Đức.
Cách xưng
hô của người Việt Nam thời phong kiến rất phức tạp vì tùy thuộc
vào địa vị và tuổi tác của người xưng hô. Đại danh từ ngôi thứ
nhất của Pháp là JE và của Anh là I. Trong tiếng Việt ta có:
Trẫm, Thần, Thiếp, Lão, Ta, Tôi, Tao, Tớ, Con, Cháu, Em, Anh...
Tiếng Việt phong phú vì Việt Nam là
giao điểm tiếp thu văn hóa Trung hoa, Ấn Độ, văn hóa Hồi giáo, và
Thiên Chúa giáo. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm nô lệ và
hàng trăm năm dưới chế độ phong kiến và độc tài nên phải khéo léo
trong lời nói và cách sử dụng từ ngữ mới sống yên ổn được.
NGOẠI NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT
Ngôn ngữ nào cũng có sự vay mượn ngôn
ngữ nước ngoài. Hoa Kỳ là một nước hợp chủng nên sự vay mượn từ
ngữ nước ngoài càng nhiều hơn. Những chữ bungalow, amigo, adios,
coup d’etat, kindergarten, Salem, ahimsa... vay mượn từ tiếng
Bengali, Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Do Thái, Ấn Độ.
Nước ta trải qua một quá trình thuộc
địa lâu dài nên sự vay mượn ngôn ngữ từ các quốc gia đô hộ rất
nhiều. Ngay từ thế kỷ 2 sau Tây Lịch đã có người Việt đậu hiếu
liêm hay mậu tài
(1). Từ thế kỷ 11 đã có những kỳ thi tam trường
trong nước ta. Tất cả sách vở mà các thì sinh học để dự các kỳ
thi trên đều xuất phát từ Trung Hoa. Trên thế giới không có dân
tộc nào say mê đọc truyện Tầu và hiểu trọn vẹn như người Việt
Nam. Cho đến ngày nay các tu sĩ Phật giáo hay các thầy thuốc Đông
Y đều phải học chữ Hán để nghiên cứu kinh Phật và y học cổ truyền
Trung Hoa. Tất cả các từ ngữ triết học, luật học, mỹ thuật học,
tôn giáo, văn chương, y học của Việt Nam đều vay mượn của Trung
Hoa. Hoàng Xuân Hãn soạn quyển Danh Từ Khoa Học bằng cách dịch
các danh từ khoa học của Pháp ra Việt–Hán. Hán tự giống như chữ
La Tinh. Tất cả các loại thảo mộc hay dược thảo đều có tên Hán
tự. Dây chùm bao (Passiflora) được gọi là lạc tiên; vỏ quít khô
được gọi là trần bì; củ cỏ gấu (Cyberno Bulbosus) thì gọi là
hương phụ; cây muồng trâu (Cassia Alata) là nam đại hoàng; cây
sống đời (Kalanchoe Pinnata) là lạc diệp sinh căn.
Năm 1945 là năm những danh từ Việt–Hán
được phổ biến sâu rộng trong quần chúng khiến cho người dùng tự
tin và thích thú hơn mặc dù chỉ hiểu lờ mờ.
Người ta dùng chữ phụ nữ thay thế cho
chữ đàn bà vẫn thường được nghe trước đó.
Trẻ em hay con nít được gọi là nhi đồng hay thiếu niên.
Trai tráng được gọi là thanh niên.
Khi
hỏi tuổi người ta hỏi: “Anh được bao nhiêu niên kỷ?”
Khi hỏi tên người ta nói: “Quí danh anh là gì?”
Từ ngữ chánh trị và quân sự được đem ra
ứng dụng. Ngôn ngữ chuyên môn và bác học được quảng bá trong quần
chúng.
Trong
thời ký chiến tranh cũng như khi có chánh quyền, người Cộng sản
không quan tâm đến chánh tả. Những chữ I và Y viết sao cũng đuợc
miễn là đọc ra âm I là đủ rồi. Ông Nguiễn Ngu Í có vẻ thích thú
về việc bãi bỏ chữ Y mà người Việt Nam nói là I dì–dách phát âm
từ chữ Grec (Hy Lạp). Gạch nối không còn quan trọng nữa ngoại trừ
bí danh Trường–Chinh của Đặng Xuân Khu. Vào thập niên 1960 chánh
quyền miền Bắc luôn luôn nói đến sự trong sáng của tiếng Việt
bằng cách tránh những từ Việt–Hán và đề cao những từ bình dân dễ
hiểu như lối diễn nôm ngày xưa. Trực thăng được gọi là máy bay
lên thẳng. Thủy quân lục chiến được gọi là lính thủy đánh bộ. Hội
Hồng Thập Tự được gọi là Hội Chữ Thập Đỏ. Việc đề cao tiếng Việt
trong sáng, việc đổi âm lịch vào năm 1967, và việc sửa bàn toán 5
nút ra 4 nút được hiểu như là một cóp nhặt sáng tạo, và sự đối
kháng ngấm ngầm với Trung Hoa.
Tỷ lệ người Việt Nam tin vào triết lý
Phật giáo rất cao. Nhưng ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Việt Nam
không lớn. Lý do dễ hiểu là người Việt Nam học triết lý Phật giáo
qua các sư tăng Trung Hoa chớ không qua các sư tăng từ Ấn Độ,
Tích Lan hay Nepal. Phật giáo ở Việt Nam là Phật giáo đại thừa
(Mahayana). Trên thực tế vai trò của đạo Phật rất nhỏ ở Ấn Độ nơi
phần lớn dân chúng theo đạo Bà La Môn (Brahmanism) còn gọi là Ấn
giáo (Hinduism).
Trong quá trình nam tiến dân tộc Việt
Nam tiếp xúc với Chiêm Thành và Chân Lạp là hai nước chịu ảnh
hưởng sâu đậm của văn hóa Ấn Độ. Tục hỏa thiêu của người Chiêm và
Khmer do ảnh hưởng của người Ấn Độ mà ra. Từ thế kỷ 13 về sau
người Chiêm Thành chuyển sang đạo Hồi
(2). Một số khác vẫn còn
theo đạo Bà La Môn. Người Khmer theo đạo Bà La Môn trước khi
nghiêng theo Phật giáo tiểu thừa (Hinayana). Kiến trúc của đền
Angkor Vat và Ankor Thom cho thấy ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở
Cambodia.
Những từ Niết Bàn (Nirvana), sát na (đơn vị thời gian nhỏ nhất),
Vệ Đà (kinh), Dhyana (Thiền), mật dà tăng (bột kim khí dùng làm
thuốc), ưu bà di, ưu bà tắc (Nữ tu sĩ), karma (nghiệp chướng),
swastika (chữ vạn), bồ đề (cây bodhi), xà tri (chetty)... đều là
từ ngữ gốc Ấn Độ.
Người Việt Nam gọi thần nữ Chiêm Thành
Po Nagor là bà Chúa Ngọc, vua Rudravarman III là Chế Cũ, Po Bin
Swor là Chế Bồng Nga... Trong tiếng Việt không thấy nhiều vết
tích của Chiêm ngữ. Tên các địa danh Chiêm Thành như Indrapura,
Vijaya, Kauthara, Panduranga đã trở thành Đông Dương, Qui Nhơn,
Khánh Hòa, Ninh Thuận. Những địa danh như Phan Rí và Phan Thiết
còn phảng phất những chữ Parik và Manthiet tức là tên cũ của hai
địa danh này.
Nhiều địa danh ở miền Nam phảng phất
ảnh hưởng của ngôn ngữ Khmer. Preikor (rừng gòn) đã trở thành Sài
Gòn. Mỹ Tho, Sa Đéc, Bạc Liêu, Sài Mạt, Cà Mau đều được phiên âm
từ chữ Khmer: Mề Sa (bà trắng), Psar Dec (chợ sắt), Po Loeuth
(cây da cao); Banta Meas (Hà Tiên – thành bằng vàng). Tuk Khmau
(nước đen). Những chữ ông lục (thầy tu), ốc nha (tổng trấn), Tầm
Bôn (Katambon), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Kompong Som), La Bích
(Lovek) đều là tiếng Khmer phiên âm và Việt hóa.
Vào thế kỷ 18 quân Xiêm tấn công Hà
Tiên. Lúc bấy giờ người ta thường dùng chữ phi nhã phiên âm từ
chữ Phya của Xiêm La. Thời bấy giờ có một người Trung Hoa tên là
Trịnh Quốc Anh làm phi nhã ở huyện Tak (Phya Tak – tri huyện Tak)
lên làm vua ở Thonburi
(3) sau khi đánh đuổi quân Miến Điện xâm
lăng.
Dưới
thời Pháp thuộc người Pháp du nhập nhiều loại rau cải, trái cây,
và các sản phẩm kỹ nghệ vào Việt Nam. Tất cả các vật này đều mới
lạ đối với người Việt Nam. Tên gọi của chúng được phiên âm từ
tiếng Pháp.
Dưới đây là một số từ ngữ vay mượn từ tiếng Pháp:
ABC (anti–Bolchévic thường dùng trong
thời kỳ chiến tranh Việt Pháp),
ác xít
(acide),
áo bành tô (paletot),
áo py–ja–ma (pyjama),
áo sơ mi
(chemise),
áo sú chen (soutien),
áp phe (affaire),
át bích (arbitre),
bà đầm (dame),
bánh ga tô (gateau),
bơ (beurre),
bột–dền (bordel),
ca rô (carreaux),
cà tô mát (tomate),
cái bu–gi (bougie),
cái tách (tasse),
cao su (caoutchouc),
cây dên (bielle),
cây láp (l’arbre),
cò mi
(commis–assistant),
con tem (timbre),
con vít (vis),
cùi dìa (cuillère),
đạo Gia Tô (Catholicisme),
dây lập lòng
(fil à plomb),
dây sên (chaine),
di–văn (divan),
đốc tơ (docteur),
ghi đông (guidon),
kí lô (kilogramme),
la ve (bière),
lấy le (prendre l’air),
lô–cốt (blockhaus),
ma sơ (ma Sœur),
ma trắc (matraque),
nhà băng (banque),
nồi sốt–de (chaudière),
ông ách
(adjudant),
ông Cò (commissaire),
phạm–nhe (infirmière),
phi–lê (filet),
phó mát (fromage),
phú lít (police),
ra gu (ragout),
rua (Bonjour),
rượu vang (vin),
săm lốp (chambre,
enveloppe thường dùng ở miền Bắc),
súng
cà–nông (canon),
sút (soude),
thầy su (surveillant),
thịt cóc lét
(cotelette),
trái bom (pomme),
xà bông (savon),
xà lách (salade),
xà lách son (cresson),
xà lan (chaland),
xà lúp (chaloupe),
xăng (essence),
xe bù–ệt (broette),
xe cam nhông
(camion),
xe ô tô (auto),
xe ô–tô–buýt (bus),
xe tăng (tank),
xừ lủy (Monsieur, lui), v.v.
Nhìn chung các từ ngữ liên quan đến
khoa học và kỹ thuật đều được phiên âm từ tiếng Pháp. Vài địa
danh ở Việt Nam ngẫu nhiên bị Pháp hóa. Trên bản đồ Việt Nam thời
Pháp thuộc:
Đà
Nẵng được ghi là Touranne;
Hội An:
Faifo;
Vũng Tầu: Cap St. Jacques.
Địa danh Chí Hòa do người Pháp ghi từ
chữ Ký Hòa và Đa Kao từ chữ Đất Hộ. Cho đến bây giờ Đa Kao hay
Chí Hòa vẫn còn được lưu dùng trong khi hai chữ gốc Ký Hòa và Đất
Hộ biến mất hẳn. Vũng Tầu còn gọi là Ô Cấp (Au Cap). Trong thành
phố này có bãi Ô Quắn do chữ Au Vent của Pháp (vent: gió) mà ra.
Trong tiểu sử của tướng Trần Văn Đôn
người ta thấy ông sinh ở Pháp và học ở trường võ bị Tong nên liên
tưởng ngay đó là một trường võ bị ở Pháp. Chữ Tong ở đây phát
xuất từ chùa Thông ở Sơn Tây mà ra. Trong tiếng Pháp chữ H bị câm
nên chữ Thông phát âm thành Tong.
Trên bản đồ sông Hồng được ghi là
Rivière Rouge. Có bản đồ ghi là sông Koi (do chữ sông Cái mà
người Pháp viết sai ra sông Koi). Sông Đà được ghi là Rivière
Noire không phải vì nước đen mà vì bóng cây và núi rợp xuống mặt
nước làm cho người ta thấy như nước đen ngòm vậy. Sông Lô được
ghi là Rivière Claire. Nhiều nhà địa lý Việt Nam dịch ra là Thanh
Giang. Mũi Ba Làng An bị ghi sai là Cap Batangan. Đèo Hải Vân
được ghi là Col des Nuages, v.v.
Những tên núi ở miền Bắc phần lớn do
đồng bào thiểu số đặt tên. Các sông ở miền tây Bắc Bộ thường mang
chữ Nậm do ảnh hưởng của đồng bào thiểu số gốc Thái. Các sông ở
miền cao nguyên Trung Bộ thường mang chữ Đa do ảnh hưởng của đồng
bào Thượng trong vùng mà ra.
Các giáo sĩ Tây Ban Nha (dòng Dominican
và Bồ Đào Nha (dòng Jesuit) truyền giảng đạo Thiên Chúa ở nước ta
ngay từ thế kỷ 16. Vào thế kỷ 19 người Tây Ban Nha có tham dự các
trận đánh ở Sài Gòn với người Pháp. Đại tá Palanca đại diện Tây
Ban Nha ký tên trong hòa ước 1862 với Bonard, Phan Thanh Giản, và
Lâm Duy Hiệp. Nhưng không thấy ảnh hưởng của tiếng Tây Ban Nha
hay Bồ Đào Nha trong Việt ngữ ngoại trừ vài tên Thánh như
Francisco, Thomaso, v.v.
Tiếng Anh xuất hiện ở Việt Nam ngay
dưới thời Pháp thuộc. Hầu hết những từ ngữ liên quan đến thể thao
đều vay mượn từ Anh ngữ.
Trẻ em Việt Nam chơi oảnh tù tì (One,
two, three).
Những từ:
banh
bong (ping pong),
bát–kết (basket ball),
bê nanh ti (penalty),
bia (beer),
bíp tết (beef steak),
câu lạc bộ (club),
cọt ne (corner),
đá banh (football),
đánh bốc (boxing),
giữ gôn (goal
keeper),
nét (net),
nóc ao (Knock out),
nóc đao (knock
down),
sẹt vít (service),
tơ nít (tennis),
vô–lây (volley ball),
yên sĩ phi lý thuần (inspiration)...
đều là những từ vay mượn từ tiếng Anh.
Vào tiền bán thế kỷ 20, người ta không nói “Thi sĩ đi tìm nguồn
cảm hứng” mà lại nói “Thi sĩ đi tìm yên sĩ phi lý thuần”.
Vài tên nhân vật, địa danh, và tác phẩm
Âu Mỹ được các học giả Trung Hoa phiên dịch ra Hán tự và được
người Việt Nam dùng vào đầu thế kỷ 19.
America: A Mỹ Lệ Gia,
Belgium: Bỉ Lợi Thì,
Contrat Social của
Jean Jacques Rousseau là Xã Ước,
Quyển
Esprit des Lois của Montesquieu được dịch là Vạn Pháp Tinh Lý,
France: Pháp Lan Sa/Phú lang sa,
Garibaldi: Gia Lý Ba Đích,
Hawai: Hạ Uy
Di,
Honolulu: Đàn Hương Sơn,
Inukai: Khuyển Dưỡng Nghị,
Italy: Ý Đại
Lợi,
Jean Jacques Rousseau: Lư Thoa,
Karl Marx: Mã Khắc Tư,
La Fontaine: Lã
Phụng Tiên,
London: Luân Đôn,
Luxemburg: Lục Xâm Bảo,
Meiji Tenno:
Minh Trị Thiên Hoàng,
Montesquieu được
phiên dịch thành Mạnh Đức Tư Cưu,
New
York: Nữu Ước,
Paris: Ba Lê,
Rome: La Mã,
San Francisco: Cựu Kim Sơn,
Singapore: Tịnh Châu/Tân gia ba, và
Washington: Hoa Thịnh Đốn.
Người Trung Hoa phát âm chữ D thành chữ
T và chữ R thành chữ L giống như một số người Bình Dương phát âm
chữ T không rõ, một số người ở Kiên Giang phát âm chữ R thành chữ
G, chữ TR thành CH, hay một số người miền Bắc phát âm chữ L thành
N và chữ TR thành GI vậy. Vì vậy Paris phiên âm thành Ba Lê; Rome
thành La Mã; hay Rousseau trở thành Lư Thoa.
Các nhà cách mạng Việt Nam tìm hiểu tư
tưởng Tây phương qua sách dịch của Trung Hoa. Khang Hữu Vi (Kang
Yu–wei) và Lương Khải Siêu (Leang Ki–chao) quan tâm đến cuộc duy
tân của Nhật. Hai ông giúp cho hoàng đế Quang Tự (Kuang Hsu) thực
hiện cuộc cải cách bất thành năm 1898. Cuộc canh tân 100 ngày
này được các nhà cách mạng Việt Nam như Phan Chu Trinh và Phan
Bội Châu đặc biệt lưu ý đến.
Tôn Dật Tiên (Sun Yat–sen) theo đạo Tin
Lành, lúc ấu thời học ở Honolulu, sau học y khoa ở Hong Kong. Ông
chịu ảnh hưởng văn hóa Anh và Hoa Kỳ cũng như tư tưởng của Karl
Marx lẫn Henry George. Cuộc cách mạng Tân Hợi và chủ nghĩa Tam
Dân do ông đề xướng được Phan Bội Châu và sau này Nguyễn Thái
Học đặc biệt để ý đến.
Học giả Hồ Thích (Hu Shi) học ở Hoa Kỳ.
Trần Độc Tú (Chen Duxiu), Châu Ân Lai (Chou Enlai), Trần Nghị
(Chen Yi), Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) học ở Pháp. Dù thuộc tả
khuynh hay hữu khuynh, các nhà chánh trị trên đều hấp thụ tư
tưởng Tây phương. Ít nhiều họ cũng có ảnh hưởng với những đảng
viên Cộng sản Việt Nam thân Trung Hoa như Hồ Tùng Mậu, Nguyễn
Sơn, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan.
Một số từ ngữ chánh trị mới như độc
lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, bình đẳng, bình quyền, bầu cử,
bãi miễn, tam quyền phân lập, ngũ quyền phân lập, duy tâm, duy
vật, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa duy dân, chủ nghĩa vô chánh phủ,
quân chủ cộng hòa, vạn lý trường chinh... lưu hành ở Việt Nam
dưới thời Pháp thuộc do ảnh hưởng của Quốc Dân Đảng và một phần
nhỏ của đảng Cộng sản Trung Hoa.
Từ thập niên 1920 đến thập niên 1950 từ
ngữ chánh trị ở Việt nam rất dồi dào. Một số do ảnh hưởng của
Trung Hoa Quốc Dân Đảng (Kuonmintang) và Tam Dân Chủ Nghĩa (San
Min Chu I). Một số khác do ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx–Lenin sau
khi Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản (Comintern hay Third International)
được thành lập ở Nga năm 1919.
Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành
tức Hồ Chí Minh sau này gia nhập đảng Cộng sản Pháp năm 1920.
Ông là người du nhập chủ nghĩa Marx–Lenin vào Việt Nam từ Trung
Hoa. Với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (1925) và
Việt Nam Cộng sản Đảng (1930) sau đổi thành Đông Dương Cộng sản
Đảng và Đảng Lao Động Việt Nam, ông đưa ra một số từ ngữ chánh
trị và Nga ngữ vào Việt ngữ. Những chữ:
anh hùng lao động của Liên Sô),
bôn–sê–vích (Bolshevik),
chế độ sa hoàng
(tsarism),
Kom–xô–môn(Kommunistticheskii
Soyuz Molodezhi – Thanh Niên Cộng sản Đoàn),
Lê–nin–gơ–rát (Leningrad),
lựu đạn
Mô–lô–tốp (lựu đạn xăng),
Mát–cơ–va
(Moscow),
men–sê–vít (Menshevik),
sa hoàng (tsar),
Tơ–rốt–ky (Trosky),
Xì–ta–ka–nốp (Stakanov,
Xì–ta–lin–gơ–rát
(Stalingrad),
Xô viết (Soviet – Ủy ban
nhân dân)...
xuất hiện trên tờ Thanh Niên, cuốn Đường Kách Mệnh và những tài
liệu tuyên truyền của đảng Cộng sản và đảng Lao Động Việt Nam sau
này.
Các từ
ngữ dưới đây trở nên thịnh hành ở Việt Nam:
áp bức,
bình
sản,
bóc lột,
cách mạng giải phóng dân tộc,
cách mạng
giải phóng giai cấp,
cách mạng,
cải cách ruộng đất,
công nông giai cấp,
đấu tranh giai cấp,
địa,
độc lập,
giải phóng,
hào,
Lê–nin–nít,
Mác xít,
người cày có ruộng,
phát xít,
phú,
quốc hữu hóa,
Quốc Tế Ca
(Internationale),
quốc Tế Cộng sản
(Comintern),
tranh đấu,
trí,
tư bản,
tư
sản,
vô sản,
Xì
ta lin nít,
Xô viết, v.v.
Hồ Chí Minh là người thay đổi chánh tả
rất nhiều. Vào thập niên 1920, lúc còn ở Paris, ông viết cho các
báo Cộng sản và Xã Hội Pháp dưới bút ký Nguyễn Ái Quấc. Năm 1926
ông viết cuốn Đường Kách Mệnh. Trong chiến tranh Việt–Pháp chữ PH
được thay thế bằng chữ F cho ngắn gọn. Thay vì viết PHÁP người ta
viết FÁP. Khi Trần Đại Nghĩa dùng đường rầy xe lửa và lò rèn cổ
truyền để làm ra một loại súng ba–zô–ka nội hóa lấy tên là SKZ
tựa hồ như súng sản xuất ở Đức hay Liên Sô vậy. SKZ là chữ viết
tắt của Súng Không Zật. (Zật thay vì Giật). Giống như Hoa Kỳ,
Việt Minh thường dùng những chữ viết tắt. Việt Minh (VM) là chữ
rút gọn và viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội; Thanh
Niên (TN) là chữ rút ngắn của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng
Chí Hội. VNDCCH là chữ viết tắt của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
TTS hay tạch tạch sè là chữ viết tắt và tiếng lóng của chữ tiểu
tư sản, một giai cấp bị lên án là kẻ thù của giai cấp vô sản. ABC
là chữ viết tắt của chữ Pháp anti–bolchéviste. UTQ là chữ viết
tắt của uống trà quạu.
Sau năm 1954 chánh quyền Ngô Đình Diệm
dùng chủ nghĩa nhân vị (personalism) của nhà triết học Pháp
Emmanuel Mounier để chống lại chủ nghĩa Marx–Lenin. Tổng Thống
Ngô Đình Diệm theo đạo Thiên Chúa, thấm nhuần Khổng giáo và chống
Cộng mãnh liệt nên ông thường nhấn mạnh đến các từ vô thần, hữu
thần, tam vô, duy tâm, duy vật, vô sản, hữu sản hóa nhân dân, cải
tiến cần lao, đồng tiến xã hội, bài phong đả thực, nhân bản trong
các bài diễn văn do bào đệ của ông là Ngô Đình Nhu viết. Theo
gương các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ ông thường hay kết thúc các bài
diễn văn của ông bằng câu: “Xin Ơn Trên phù hộ cho chúng ta.”
(May God bless us).
Từ năm 1960 đến năm 1975 tiếng Anh có
một vị trí đặc biệt ở miền Nam Việt Nam. Phần lớn học sinh chọn
tiếng Anh. Nhiều người Việt Nam học tiếng Anh để làm việc cho các
công ty Hoa Kỳ. Nhưng các từ tiếng Anh được Việt hóa vẫn như cũ.
Vào thập niên 1980 con em những người còn trong trại cải tạo được
“chọn học Nga ngữ như là một sự trừng phạt. Trái lại con em cán
bộ A, cán bộ B, hay gia đình cách mạng được học tiếng Anh.” Từ
năm 1990 về sau Anh ngữ có vai trò độc tôn ở Việt Nam khiến cho
hội nghị các nước nói tiếng Pháp ở Hà Nội năm 1997 trở nên lạc
lõng vì tỷ lệ người nói tiếng Pháp ở miền Bắc sau 1954 quá nhỏ.
THẾ GIỚI VÀ TIẾNG VIỆT
Trước năm 1945 Việt Nam không được thế
giới biết đến vì đó chỉ là một thuộc địa nhỏ của Pháp ở Á châu
với một nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn. Từ năm 1854 về sau cả
thế giới biết đến Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh đẫm máu vừa
qua. Nói đến Việt Nam người ta liên tưởng đến Hồ Chí Minh, Điện
Biên Phủ, Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu, bà Ngô Đình Nhu
sống động và đầy thách thức, trận đánh Khe Sanh, Tết Mậu Thân,
những sát phạt đẫm máu và ghê rợn giữa các phe lâm chiến, những
cuộc biểu tình triền miên, chiến dịch Hồ Chí Minh, trại học tập
cải tạo, vùng kinh tế mới, và cuộc tỵ nạn của trên 2 triệu người
Việt Nam được gọi là thuyền nhân (boat people) và hành nhân
(walking people).
Người Pháp đô hộ Việt Nam gần một thế
kỷ. Nhưng số người Pháp biết tiếng Việt không nhiều ngoại trừ các
nhà truyền giáo hay các nhà nghiên cứu. Thực ra những nhà trí
thức uyên bác của Pháp trong trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole
Française d’Extrême Orient) không quan tâm đến tiếng Việt mà chỉ
để ý đến việc trau dồi chữ Hán để nghiên cứu lịch sử hay khảo cổ.
Cha Cras, một giáo sĩ người Pháp thuộc dòng Dominican, được biết
dưới tên Việt Nam, Đỗ Minh Vọng, là người rất thạo tiếng Việt và
có khả năng dạy các tác phẩm Việt Nam ở đại học Văn Khoa Sài Gòn.
Cha Raguin thuộc dòng Jesuit rất thông thạo lịch sử các nước Đông
Á. Vị giáo sĩ này am tường Hán học nhưng không biết tiếng Việt.
Suốt gần một thế kỷ Pháp thuộc, sách
Pháp chỉ lưu lại vài chữ Việt như nhaque (nhà quê), Việt Minh.
Đài BBC (Anh) và VOA (Hoa Kỳ) có chương
trình phát thanh tiếng Việt để theo dõi diễn tiến thời cuộc ở
Việt Nam. Người Anh hiểu được sự phức tạp của vấn đề Việt Nam khi
đến Sài Gòn giải giới quân Nhật. Người Hoa Kỳ hiểu được sự phức
tạp này sau 10 năm có mặt ở miền Nam Việt Nam. Có khá nhiều
người Hoa Kỳ nói được tiếng Việt. Phần lớn đó là những cố vấn hay
nhân viên tòa đại sứ. Cũng có người nói sành tiếng Việt nhờ có vợ
Việt Nam như ông Stephen Young chẳng hạn. Người Hoa Kỳ đã tốn
hàng trăm tỷ Mỹ Kim suốt cuộc chiến vừa qua nhưng chỉ có một chữ
Việt cộng được ghi trong tự điển của họ mà thôi.
*****
Người Việt Nam có tiếng nói từ lâu
nhưng chữ viết hiện hành được phổ biến khắp cả nước không quá một
thế kỷ.
Điều
đó cũng không có gì lạ cả. Người Thụy Sĩ nói ba ngôn ngữ: Pháp,
Đức, và Ý. Người Canada nói tiếng Anh và Pháp. Người Bỉ nói tiếng
Pháp và Flamand. Tiếng quan thoại của người Trung Hoa quảng bá
khắp cả nước trên dưới 70 năm nay.
Sau khi độc lập người Hoa Kỳ không ngần
ngại chọn tiếng Anh làm quốc ngữ. Tiếng Anh của người Hoa Kỳ
(American English) bây giờ phong phú và phổ biến hơn bất cứ ngôn
ngữ nào trên thế giới vì tính hợp chủng và văn hóa đa dạng của
Hoa Kỳ cũng như vì sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh tế vượt
bực của nước này. Hàng năm tự điển Hoa Kỳ phải cập nhật từ 3000
đến 5000 từ mới để đặt tên cho những món hàng mới phát minh và
sản xuất. Có nhiều sản phẩm lấy hiệu làm tên và biến tên ấy thành
động từ luôn. Hoa Kỳ thoát thai là một nước thuộc địa của Anh lập
quốc trên 200 năm nay, và sớm trở thành một cường quốc kỹ nghệ,
quân sự, và kinh tế lãnh đạo toàn thế giới.
Người Hòa Lan, Do Thái, và Nhật rất
quan tâm đến ngoại ngữ để cập nhật với những tiến bộ khoa học, kỹ
thuật, và trào lưu tư tưởng quốc tế. Điều đó không có nghĩa là họ
xem thường tiếng nói của họ hay họ kém cỏi hơn các dân tộc khác.
Hòa Lan là một nước nhỏ đã từng đô hộ
Indonesia suốt trên 3 thế kỷ liền. Thành phố New York há không do
người Hòa Lan lập ra và đặt tên là New Amsterdam? Họ há không đặt
chân lên Nam Phi trước người Anh? Người Boers là hậu duệ của
người Hòa Lan còn sống sót ở Nam Phi. Tổ tiên vị Tổng Thống đắc
cử 4 lần trong lịch sử Hoa Kỳ, Franklin Delano Roosevelt, là
người Hòa Lan.
Do Thái lập quốc năm 1948 và phục hồi
tiếng Hebrew trong một thời gian kỷ lục. Các giáo sư đại học đều
giảng bài bằng ngôn ngữ của họ
(4) trong khi người Do Thái nói
thông thạo nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Sau 2000 năm
lưu lạc họ vẫn giữ được tiếng nói của họ nhưng họ vẫn quan tâm
đến những ngôn ngữ khác vì nhiều lợi ích khác nhau giữa lúc sự
đóng góp của người Do Thái vào văn minh nhân loại rất đáng kể
trên mọi lãnh vực. Disraeli, Rothschild, Karl Marx, Lenin,
Trotsky, Kamenev, Zinovev, Léon Blum, Einstein, Oppenheimer,
Weizmann, Henri Bergson, Mendès France, Sakharov... đều là những
người mang ít nhiều dòng máu Do Thái.
Nước Nhật tiến bộ nhờ cuộc canh tân năm
1868 tức là nhờ Tây phương hóa xứ sở theo tinh thần Nhật. Người
Nhật khôn ngoan và khéo léo khi biết chọn cái gì để hấp thụ và
loại trừ cái gì cần phải vất bỏ. Không có nhiều người Nhật trong
danh sách những người lãnh giải thưởng Nobel. Nhưng giáo dục của
Nhật thành công trong việc đào tạo những người trí thức cập nhật
được những tiến bộ của thế giới và loài người. Nhờ đó mà nước
Nhật tiến một bước rất dài trên mọi lãnh vực. Ở Á châu chỉ có
Nhật thích thú với các môn thể thao, cách làm ăn, quản lý xí
nghiệp, nghiên cứu, và phát minh của người Hoa Kỳ mà thôi. Hay
nói cách khác chỉ có Nhật mới hiểu và thực hành những điều học
hỏi nơi người Hoa Kỳ có kết quả tốt mà thôi. Hiện nay người Nhật
càng quan tâm đến việc dạy tiếng Anh cho trẻ em Nhật ngay từ lớp
đồng ấu bằng giáo viên người Anh hay người Hoa Kỳ vì khoa học, kỹ
thuật, kinh tế, và thương mại vẫn phát triển mạnh ở Hoa Kỳ. Người
Nhật không quên tiếng nói và không hề mất bản sắc của họ khi học
hỏi nơì người khác để vươn lên.
Tôi ghi vội trường hợp của ba quốc gia
nhỏ, tài nguyên không phong phú, đất đai không màu mỡ nhưng với
tinh thần học hỏi, cầu tiến, và tự cường họ có một địa vị xứng
đáng trên thế giới.
Nhà văn Trung Hoa gốc bác sĩ, Lỗ Tấn
(Lu Xun) đã khổ tâm với Ả Q tức thằng đầu chóc tiêu biểu cho thảo
dân của xứ ông trước và sau cách mạng Tân Hợi. Ả Q khinh thường
những người chung quanh vì không có đầu chóc như mình. Nhà văn tà
phái Kim Dung (Kim Yung) dùng hình ảnh của Châu Bá Thông để mô tả
quê hương ông: một nước già nua trong lịch sử nhưng ấu trĩ về
nhiều mặt giống như Châu Bá Thông già mà có tư tưởng và hành
động như đứa trẻ, võ nghệ cao cường nhưng chỉ để phô trương và
biểu diễn vui chơi chớ không mang lợi ích cụ thể nào cả. Chắc
chắn một số người trong chúng ta đã trải qua thời kỳ mà người
mang kiếng bị mắng nhiếc và người biết ngoại ngữ bị tình nghi làm
tình báo cho ngoại nhân. Những ý niệm hẹp hòi, cố chấp, và tàn
hại này tiêu diệt sự tiến bộ và dẫn đến cơn hôn mê chậm tiến
triền miên.
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
nguồn:
blog tin
việt nam
Tác giả ghi chú:
(1)
Tương đương với cử nhân bây giờ. Lý Tiến là người Giao Chỉ đầu
tiên được làm thứ sử Giao Chỉ dưới đời Hán Linh Đế (Han Ling–ti,
168–189) do sự tiến cử của Giả Mạnh Kiên (Zhe M’ang–jan). Trương
Trọng là người Giao Chỉ đầu tiên được bổ làm thái thú Kim Thành
(Kin Cheng) sau khi Lý Cầm khóc xin Hán Linh Đế cho các học sĩ
Giao Chỉ được quyền làm quan ở Trung Hoa.
(2) Do sự
phát âm của chữ Hồi mà người Việt Nam còn gọi người Chiêm hay
Chàm là người Hời. Ảnh hưởng của Ấn giáo và Hồi giáo ở Chiêm
Thành phát triển song song với Indonesia. Trên đảo Bali, một đảo
nhỏ ở phía đông đảo Java, có nhiều di tích của văn hóa Ấn Độ
trước khi Indonesia ngã theo đạo Hồi. Đến thế kỷ 15 hầu hết ngưòi
Indonesia đều theo đạo Hồi.
(3) Kinh đô Xiêm lúc ấy là Ayuthya bị
quân Miến đốt phá nên ông phải chọn Thonburi nằm trên bờ sông
Chaophraya cách Bangkok 20 cây số. Tên Xiêm của Trịnh Quốc Anh là
‘Sin’. Nên người ta thường gọi ông là Phya Tak Sin. Ông lên làm
vua từ năm 1767 đến năm 1781. Ông bị Chao Phraya Chakkri (tướng)
Thong Duang giết chết. Thong Duang lên ngôi tức là Rama I. Vị vua
Thái Lan hiện nay là Rama IX tức Bhumibol Adulyadej.
(4) Tiếng
Hebrew quá khó đến nỗi người ta phải than rằng: “Khó như tiếng
hebrew.”
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tkd sưu tầm
Đăng ngày Thứ Tư, February 5, 2025
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang