Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Văn chương VN
Chủ đề:
Tiếng Việt
Tác giả: Dân Việt
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Ngôn
ngữ là phương tiện để liên lạc, kết nối giữa người với người. Nhưng
cũng có khi, ngôn ngữ làm cho con người trở nên ngăn cách, xa nhau
hơn. Câu chuyện về ngôn ngữ Việt Nam ngày nay tại hải ngoại là một
ví dụ.
Từ hơn 4 thập kỷ rồi, kể từ sau cái ngày định mệnh
cuối tháng Tư 1975 đã hình thành nhiều cộng đồng người Việt sống ở
hải ngoại. Và cũng từ đó, đã có không biết bao nhiêu cuộc tranh luận
xung quanh vấn đề ngôn ngữ sử dụng trong và ngoài nước. Một số đông
người Việt ở hải ngoại không chấp nhận một số từ ngữ người trong
nước hiện nay đang dùng. Thí dụ như “Hãy vô tư đi!”. Hay là “bữa
tiệc hôm nay hoành tráng thật!”. Những người ở trong nước qua Mỹ sử
dụng những từ đại loại như thế bị chỉnh, chế diễu vì xài “từ Việt
Cộng”. Những người Việt mới sang định cư ở Mỹ bị người đã ở lâu hơn
bắt bẻ về cách sử dụng từ ngữ. Bị bắt lỗi hoài, đâm cáu! Đã có người
xẵng giọng: “Tại sao lại cấm tui ‘vô tư’ nói rằng ‘bữa tiệc này
hoành tráng’? Xứ sở này tự do ngôn luận mà!”
Ngay cái cách
gọi “từ Việt Cộng” cũng đã dễ gây chia cách và bất đồng rồi. Bởi vì
nó có mang hàm nghĩa chính trị. Một vạch chia cắt đã có từ năm 1954.
Cho đến tận ngày nay, dù đã hơn 60 năm, nó vẫn in hằn vết sẹo trong
tâm trí người Việt cả trong lẫn ngoài nước. Tương tự như vậy là cách
phân loại “từ ngữ trước 1975” và “từ ngữ sau 1975”. Trong bài viết
này, tôi xin được tạm dùng nhóm từ trung tính hơn: “tiếng Việt trong
nước” và “tiếng Việt hải ngoại”. Bởi vì tôi muốn được chia sẻ suy
nghĩ của mình với cả những người bài bác lẫn bênh vực việc dùng từ
ngữ trong nước.
Tôi nghĩ rằng mình có thể chia sẻ với cả hai
phía, vì lý do đã từng đứng trên cả hai vị trí “bị phê bình” và “phê
bình” việc sử dụng ngôn ngữ trong nước tại hải ngoại. Tôi là một
người đã học trung học đệ nhất cấp trước 1975, ở lại trong nước hơn
30 năm, và ở Mỹ được hơn 10 năm. Xét ra, thời gian “ở với cộng sản”
còn lâu hơn thời gian trước 1975 và ở Mỹ cộng lại. Hồi mới qua Mỹ,
tôi cũng đã bị chỉnh một số từ ngữ. Cũng đã từng nổi “cơn tự ái”,
nghĩ rằng người bên này “quá khích” khi bắt bẻ thói quen sử dụng
ngôn ngữ của người khác. Nhưng rồi sau một thời gian, tôi lại đi
khuyên những người thân mới qua sau như mình nên thay đổi cách sử
dụng một số từ ngữ trong nước.
Thực ra, chuyện phê bình
“tiếng Việt trong nước” đã xảy ra ngay trong nước từ lâu rồi. Tôi
nhớ ngay sau 1975, phải học “5 điều bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng”,
trong đó có “học tập tốt, lao động tốt”. Tôi tự nghĩ, thầy cô mình ở
tiểu học vẫn dạy “tốt” là tĩnh từ, dùng để bổ nghĩa cho danh từ. Ở
đây “học tập” và “lao động” là động từ, mà dùng chữ “tốt” thì nghe
thấy không ổn! Nhưng mà cả xã hội vẫn dùng, cho nên từ từ cũng thành
quen, không còn thắc mắc nữa.
Người đầu tiên nói với tôi về
cách sử dụng từ ngữ sau 1975 ở Việt Nam là nhà báo Trần Đại Lộc, hồi
anh mới đi tù cải tạo về năm 1978. Anh Lộc là một giáo sư dạy triết
bậc Trung học trước 1975. Là một người Nam hiền hòa, nhưng khi anh
kể chuyện mấy anh cán bộ trong trại cải tạo dùng từ “đao to búa lớn”
một cách bừa bãi, thì giọng anh khá châm biếm, chua chát. Một công
ty tính toán lãi lỗ thì cán bộ nói là “hạch toán kinh tế độc lập”.
Một người bị nhức đầu thì cán bộ y tế ghi toa là “chấn thương hệ
thần kinh sọ não”, và rồi cho uống... xuyên tâm liên! Anh Lộc nói
cách dùng từ kiểu này là “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”.
Trở lại với chuyện sử dụng từ ngữ trong nước ở bên xứ Mỹ. Ngôn ngữ
còn được gọi là “sinh ngữ”, bởi vì nó giống như một thực thể sống.
Nó cũng có quá trình sinh-trụ-hoại-diệt giống như muôn loài. Nó thay
đổi liên tục, có khi tốt hơn, có khi xấu hơn. Một giáo sư có bằng
cao học về ngôn ngữ cho biết người Pháp sử dụng cả Viện Hàn Lâm Pháp
để tìm cách chống lại ảnh hưởng của tiếng Anh. Họ tìm cách thuyết
phục cả nhà văn Pháp nên sử dụng tiếng Pháp thuần túy. Nhưng họ đã
thất bại. Tiếng Pháp, cũng như bao ngôn ngữ khác, vẫn pha trộn với
những ngôn ngữ khác, vì sự tương tác giữa các nền văn hóa là không
thể cưỡng lại trong thế giới phẳng ngày nay. Người Mỹ “Hợp Chủng
Quốc” lại có quan niệm phóng khoáng hơn nhiều về ngôn ngữ. Hình như
người Mỹ không có khái niệm về một “tiếng Mỹ tiêu chuẩn”. Khi có số
đông chấp nhận, thì từ ngữ đó trở thành tiếng Mỹ chính thức.
Nếu đứng theo góc nhìn này, có vẻ như ngôn ngữ Việt Nam dùng trong
nước sẽ là ngôn ngữ chính thức. Bởi vì nó có tới hơn 90 triệu người
sử dụng, so với chỉ khoảng vài triệu người Việt đang sinh sống tại
hải ngoại. Vậy thì lấy lý do gì mà người ở hải ngoại bắt bẻ những từ
ngữ sử dụng trong nước?
Trở lại trường hợp cá nhân tôi. Sau
khi sang Mỹ chừng gần 2 năm, tôi được mời vào làm cộng tác viên của
một tờ báo tiếng Việt ở vùng Bolsa. Ngày đầu tiên vào gặp ban biên
tập để phỏng vấn, vị chủ bút hỏi tôi ở Mỹ được bao lâu rồi? Anh ta
cho rằng phải ở Mỹ đủ lâu để suy nghĩ, sử dụng ngôn ngữ giống với
người bên này. Bởi vì nếu suy nghĩ và dùng từ theo kiểu trong nước,
nhà báo sẽ dễ bị cộng đồng “ném đá”! Sau này nghiệm lại, tôi thấy
lời khuyên này rất đúng, và đúng không chỉ riêng cho nghề báo. Văn
hóa, xã hội ở Việt Nam khác với ở Mỹ một trời một vực. Nếu suy nghĩ,
ăn nói hành xử theo thói quen ở Việt Nam, thì việc giao tiếp ở Mỹ sẽ
gặp khó khăn. Thất bại sẽ dễ đến không chỉ với phóng viên, mà cả với
các nhà kinh doanh, chính trị, giáo dục...
Trong vấn đề ngôn
ngữ, cũng sau vài năm sinh hoạt với cộng đồng người Việt ở Mỹ, tôi
nhận ra rằng ngôn ngữ của nhiều người ở đây rất đẹp, rất văn hóa.
Không chỉ có MC nổi tiếng và chuyên nghiệp như Nguyễn Ngọc Ngạn, Nam
Lộc mới ăn nói lưu loát, duyên dáng. Khi tham dự những buổi hội họp
của các đoàn thể cộng đồng như hướng đạo, hội đồng hương, hội cựu
học sinh... tôi nhận ra rất nhiều người điều hợp cũng sử dụng một
thứ ngôn ngữ Việt chuẩn mực, nghe thích vô cùng. Thứ ngôn ngữ mà tôi
đã từng quen thuộc thời còn học tiểu học trước 1975, từ ông bà, cha
mẹ. Nhưng rồi sau đó, nó dần dần bị bỏ quên trong nước. Ra hải
ngoại, tôi bắt đầu nhận ra nó trở lại. Và cũng từ đó, tôi mới thấy
mình không đúng khi trước đây “nổi cơn tự ái” vì bị bắt bẻ về một số
từ ngữ. Tôi chú tâm đi tìm hiểu nhiều hơn nguyên do dẫn đến sự khác
biệt giữa “tiếng Việt trong nước” và “tiếng Việt hải ngoại”.
Phân tích về ngôn ngữ là một đề tài mênh mông và đòi hỏi chuyên môn.
Ở đây, tôi chỉ muốn đưa ra một vài nhận xét như một người yêu quý
tiếng Việt, và đã từng sử dụng ngôn ngữ trong lĩnh vực truyền thông,
báo chí.
Điều đầu tiên, ngôn ngữ thay đổi theo thời gian và
hoàn cảnh sống. Có những thứ trước 1975 không có, hoặc chỉ có ở Mỹ
mà chưa có ở Việt Nam. Từ đó mà đẻ ra từ ngữ mới. Một thí dụ rất hay
cho trường hợp này là nhóm từ “cà thẻ”. Đây chắc chắn là một từ do
người Việt sinh sống ở hải ngoại đẻ ra. Trước 1975 không có “thẻ”
(tín dụng) để mà “cà”. Còn người Việt trong nước thì phải vài chục
năm sau 1975 mới quen với khái niệm này. Cả người trong nước lẫn hải
ngoại đều dùng từ mới “cà thẻ” một cách hết sức tự nhiên, không ai
tranh cãi.
Một thí dụ khác cũng trong trường hợp này, là
những từ ngữ kỹ thuật sử dụng trong ngành công nghệ thông tin, máy
tính. Trước 1975 ngành công nghệ này còn phôi thai trên toàn thế
giới, chỉ bùng nổ ở những thập niên cuối thế kỷ 20. Rất nhiều từ mới
trong nước đã xuất hiện, dịch theo các từ ngữ chuyên môn từ Tiếng
Anh. Thí dụ như “software”, người trong nước dùng từ “phần mềm”, còn
ở hải ngoại dùng từ “nhu liệu”. Một tiếng Việt, còn một là từ
Hán-Việt. Sự khác nhau không đáng kể, có thể xem như do qui ước ban
đầu khi sử dụng. Có lẽ không nhất thiết phải bắt bẻ, thay đổi những
từ ngữ loại này.
Trường hợp thứ hai, ngôn ngữ khác nhau do
thói quen sử dụng. Đây có lẽ là nguồn gốc lớn nhất của sự khác biệt
giữa từ ngữ trong nước và hải ngoại. Sau 1975, Việt Nam đóng lại bức
màn sắt. Những người thoát ra ngoài nhờ di tản, vượt biên, đoàn
tụ... Có rất ít thông tin những gì xảy ra trong nước. Đến thập niên
90 thời mở cửa, sự liên lạc giữa người trong và ngoài nước mới trở
nên dễ dàng hơn. Và sự khác biệt về nhiều mặt giữa người sống trong
và ngoài nước bắt đầu được nhận diện, trong đó có vấn đề ngôn ngữ.
Một thí dụ cho trường hợp này là từ “hộ chiếu” của người trong
nước, và từ “giấy thông hành” có từ trước 1975 và được hải ngoại
tiếp tục sử dụng. Theo tự điển Hán-Việt, Hộ chiếu là giấy tờ tùy
thân, nhằm mục đích bảo vệ cho người mang khi đi ra nước ngoài. Theo
trang Vienam Global network, chỉ có hai nước là Việt Nam và Trung
Cộng dùng từ “hộ chiếu”. Việt Nam chịu ảnh hưởng Trung Cộng nặng nề,
cho nên sử dụng từ theo họ là điều dễ hiểu. Còn “giấy thông hành” có
nguồn gốc từ tiếng Pháp “passeport”, hay tiếng Anh “passport”, có
nghĩa là giấy tờ cho phép người mang đi qua biên giới hoặc cảng. Xét
về nghĩa phổ thông hiện đại, thì “giấy thông hành” có vẻ phù hợp
hơn. Nhưng nếu do thói quen, người trong nước vẫn sử dụng từ “hộ
chiếu” thì cũng chấp nhận được.
Tuy nhiên, nếu thói quen sử
dụng do dùng sai nghĩa một từ, rồi cứ dùng lập đi lập lại và mặc
nhiên cho là đúng, thì điều này cần xem xét lại. “Liên hệ” và “liên
lạc” là thí dụ rõ nhất cho trường hợp này, và đã gây tranh cãi rất
nhiều. Trước 1975 và ở hải ngoại, hai từ này phân biệt rõ ràng, và
đúng theo nghĩa của cả từ Hán-Việt lẫn tiếng Anh. “Hệ” trong tự điển
Hán-Việt có nghĩa ràng buộc, có dính dáng, liên quan với nhau. “Liên
hệ” được dùng tương đương với từ “relation” bên tiếng Anh. Còn “liên
lạc” có nghĩa là tiếp xúc, giao thiệp, tương đương với từ “contact”
của tiếng Anh. Tuy nhiên, nếu tra tự điển trong nước ngày nay, thí
dụ như www.tratu.soha.vn thì thấy “liên hệ” đồng nghĩa với “liên
lạc”. “Liên hệ” bây giờ là sự lắp ghép hai từ “liên lạc” và “quan
hệ” lại, rồi gán cho nó ý nghĩa là: “tiếp xúc, trao đổi để đặt và
giữ quan hệ với nhau”. Đây là một cách dùng từ mà giới lãnh đạo
trong nước rất hay làm, do đó đã đẻ ra những từ đặc trưng của chế
độ, như “quan ngại” (quan tâm + lo ngại), nay đã trở thành câu nói
đầu môi chót lưỡi của Bộ Ngoại Giao CSVN.
Việc cố tình đánh
đồng nghĩa “liên hệ” và “liên lạc” như vậy đã tạo ra thói quen của
người trong nước sử dụng chúng lẫn lộn với nhau. Nhưng nếu xét về
nghĩa gốc, thì không thể nào “relation” và “contact” lại đồng nghĩa
với nhau được.
Và có cần thiết phải làm như vậy không? Tại
sao phải đơn giản hóa, xóa đi sự khác biệt rõ ràng về nghĩa của hai
từ này. Tại sao phải thay đổi từ và nghĩa của từ đã có từ lâu trong
lịch sử tiếng Việt? Có nhiều lý do. Có thể là do một người, một nhóm
người nào đó trong giới lãnh đạo do ngu dốt hiểu không đúng nghĩa
khi bắt đầu, rồi bắt cả xã hội dùng theo. Nhưng cũng có thể là do
giới lãnh đạo CSVN cố tình muốn làm khác với ngôn ngữ truyền thống.
Giả thiết này rất đáng tin cậy. Những người đã từng sống ở Miền Nam
sau 1975 đều nhận thấy sự bài xích, cố tình xóa bỏ đi nền văn hóa,
giáo dục của chế độ Miền Nam là một chủ trương rõ rệt của chính
quyền cộng sản. Làm “cách mạng triệt để” phải xóa đi tận gốc “tàn dư
của nền văn hóa chế độ cũ”! Và điều này cũng xảy ra ở những quốc gia
cộng sản khác như Liên Xô, Trung Cộng. Không ai diễn tả ý đồ của các
chế độ độc tài cộng sản khi đơn giản hóa ngôn ngữ chính xác hơn
George Orwell, tác giả của Animal Farm, 1984. Khi nói về khái niệm
Newspeak (ngôn ngữ mới), ông cho rằng các chế độ độc tài đơn giản
hóa ngôn ngữ để triệt tiêu tư tưởng đối kháng. Ngôn ngữ được đơn
giản hóa đến mức trần trụi, thô thiển, không cần văn hoa, cảm xúc,
không có trí tưởng tượng. Con người không có tư tưởng, từ đó dễ trở
thành một công cụ trong một guồng máy, dễ điều khiển, dễ sai khiến.
Để đơn giản hóa ngôn ngữ, chính quyền cách mạng sau 1975 đã đổi
từ máy bay “trực thăng” thành máy bay “lên thẳng”. Áo ngực đổi thành
“nịt vú”. Những bảng hiệu như “cửa hàng thịt thanh niên tươi sống”
bắt đầu xuất hiện. Và tệ hại hơn nữa, vào năm 1978, họ đổi bảo sanh
viện Từ Dũ ở Sài Gòn thành “xưởng đẻ Từ Dũ”!
Nói đến đây,vấn
đề đã mở rộng hơn, không còn đơn thuần chỉ là “vấn đề ngôn ngữ”. Dù
là người trong nước hay ở hải ngoại, đại đa số người Việt Nam đã
nhận ra rằng đất nước mình từ hơn 60 năm qua đã được dẫn dắt bởi
nhiều người lãnh đạo dốt nát, tàn ác và không trung thực. Không bàn
sâu về vấn đề chính trị, ở đây chỉ bàn đến khía cạnh họ đã hủy hoại
con người, từ đó hủy hoại văn hóa, hủy hoại ngôn ngữ truyền thống
trong cả xã hội Việt Nam như thế nào.
Thói quen cũng có thói
quen tốt, thói quen xấu. Thói quen có khi được hình thành từ sự bắt
chước theo một đám đông trong xã hội. Ngôn ngữ là con người, bộc lộ
rất nhiều điều từ bản chất bên trong của một con người, một xã hội.
Đã tự bao giờ, người Việt trở thành quen thuộc, nhàm chán với sự
dốt nát trong cách sử dụng ngôn ngữ của giới lãnh đạo? Đã tự bao
giờ, vì đã “nghe quen”, người Việt bắt đầu dùng thường xuyên những
từ ngữ thể hiện sự dốt nát của giới lãnh đạo lúc nào mà không hay?
Dùng một từ sai văn phạm, lẫn lộn với nhiều nghĩa khác nhau là một
biểu hiện của sự ngu dốt, lười suy nghĩ. Phải chăng có một cán bộ
cao cấp nào đó bắt đầu dùng từ “xử lý” một cách tùy tiện, bừa bãi,
để rồi dần dần động từ này được cả xã hội trong nước dùng cho mọi
trường hợp: “xử lý” công việc, “xử lý” văn bản, “xử lý” nước thải,
“xử lý” bài hát... Có mấy ai nhớ lại trong từng trường hợp, tiếng
Việt ngày xưa đã từng có những động từ khác nhau để diễn đạt những ý
tưởng khác nhau: chế biến nước thải, diễn cảm bài hát, giải quyết
công việc...?
Hai từ “vô tư” và “hoành tráng” cũng nằm trong
trường hợp này. Có rất nhiều người trong nước, ban đầu cố tình sử
dụng hai từ này sai chỗ để hàm ý diễu cợt. Nhưng rồi nói mãi, trở
thành thói quen lúc nào không biết! Và dùng từ sai trong câu chuyện
phiếm thì vẫn còn chấp nhận được. Nhưng viết từ với nghĩa sai trên
bài luận văn, báo chí, nói ở những nơi chốn cần sử dụng ngôn ngữ
Việt tiêu chuẩn như trong hội nghị ngoại giao thì đó là biểu hiện
của sự xuống cấp văn hóa, ngôn ngữ của cả một xã hội.
Ngôn
ngữ thể hiện sự dốt nát là vậy. Còn ngôn ngữ thể hiện cái ác của
lãnh đạo? Có lẽ không gì rõ hơn bài thơ của Tố Hữu trong chiến dịch
cải cách ruộng đất:
“Giết,
giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế
mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao
Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”
Ngày nay, ở
trong nước từ “máu” được sử dụng tùy tiện như di chứng của một thời
đại “say máu quân thù” của Tố Hữu: “thằng này rất máu!”, “sao mà máu
thế!”... Chẳng lẽ cách dùng từ “sắt máu” kiểu này trở thành ngôn ngữ
Việt chính thống chỉ vì có nhiều người sử dụng?
Và ngôn ngữ cũng biểu hiện sự gian dối, xảo trá, lươn lẹo của
giới lãnh đạo. Những người ở lại Việt Nam cuối thập niên 70 đầu thập
niên 80 vẫn còn nhớ hai tên gọi trái ngược nhau dành cho những người
vượt biên: nếu vượt biên bị bắt, thì đó là “kẻ phản quốc”; nhưng nếu
vượt biên trót lọt, thì đó là... “Việt kiều yêu nước”! Càng về sau,
ở trong nước càng có nhiều từ thể hiện sự lươn lẹo của chính quyền.
“Tàu lạ” là một từ chỉ có ở Việt Nam, và được sử dụng chính thức bởi
quan chức, giới truyền thông báo chí, để né tránh gọi đích danh tàu
Trung cộng khi chúng tấn công ngư dân Việt. Và mới đây nhất, quan
chức Bộ Giao Thông đã “sáng tạo” ra từ “trạm thu giá” để thay cho
“trạm thu phí”, chỉ vì muốn hợp pháp hóa những trạm thu tiền của dân
một cách vô tội vạ! Chẳng lẽ người Việt hải ngoại cũng phải chấp
nhận dùng những từ ngữ đầy lươn lẹo như vậy, chỉ vì đa số người
trong nước phải chấp nhận chúng?
Khi biết tôi định viết về đề
tài này, một người bạn thân ở trong nước đã khuyên tôi rằng “Ấy chớ!
Đề tài này rộng lắm, và gây tranh cãi dài dài...”. Tôi cũng biết
vậy, và cũng biết mình không phải là một nhà ngôn ngữ học. Tôi cũng
không muốn gây thêm bất hòa trong một thời đại mà dân Việt đã có quá
nhiều điều để gây chia rẽ: chính trị, tôn giáo, Nam-Bắc...
Trong phạm vi chỉ vài trang giấy, tôi chỉ muốn nhắn nhủ đôi điều với
những người Việt đang sinh sống tại hải ngoại. Những người đã bỏ đất
nước Việt Nam ra đi qua nhiều thời kỳ như là những người tỵ nạn
chính trị, kinh tế, giáo dục...
Chúng ta bỏ nước Việt Nam ra
đi khác nhau về hình thức, mục đích, thời gian. Nhưng đa số chúng ta
có cùng một nguyên nhân là do không muốn sống trong một xã hội đang
xuống cấp về mọi mặt, từ kinh tế, chính trị cho đến giáo dục, văn
hóa, đạo đức... Sống trong một xã hội như vậy, chúng ta bị nhiễm
những thói quen xấu mà không hề hay biết, trong đó có thói quen về
ngôn ngữ.
Khi sang đến một xứ sở văn minh như Mỹ, hầu hết
chúng ta sẵn sàng từ bỏ những thói quen xấu trong một xã hội xuống
cấp để hòa nhập vào xã hội mới, thí dụ như đi xe vượt đèn đỏ, không
xếp hàng trật tự... Thói quen sử dụng ngôn ngữ cũng như vậy. Hãy
bình tâm nhận ra những từ ngữ xuất phát từ một xã hội mà sự gian
dối, tàn ác, ngu dốt đang thắng thế. Hãy bỏ qua tự ái mà dần dần từ
bỏ thói quen sử dụng chúng, giống như từ bỏ những thói quen xấu
khác.
Để có thể dẹp bỏ tự ái, xin hãy quan niệm như thế này:
thứ ngôn ngữ Việt Nam đẹp, chuẩn mực không phải là của riêng cộng
đồng người Việt hải ngoại, hay của những người Việt sống ở Miền Nam
trước 1975. Nó là di sản chung của dân tộc Việt Nam, đã có từ thuở
xa xưa, qua những câu hò, tục ngữ, ca dao, qua Hịch Tướng Sĩ của
Trần Hưng Đạo, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, truyện Kiều của
Nguyễn Du, rồi tiếp nối bởi thế hệ hiện đại như Tự Lực Văn Đoàn,
Nhân Văn Giai Phẩm, Sáng Tạo... Mỗi người Việt dù ở trong nước hay ở
hải ngoại đều có sẵn di sản văn hóa ngôn ngữ đó trong tâm hồn. Chỉ
từ khi đất nước gặp kiếp nạn cộng sản, những di sản ngôn ngữ văn hóa
đó mới bị xóa bỏ, lu mờ. Những người ra đi sớm hơn có may mắn không
bị ảnh hưởng bởi một nền văn hóa do những người dốt nát làm hỏng. Họ
chỉ là những người gìn giữ lại cái đẹp của văn hóa, ngôn ngữ do tổ
tiên dân tộc Việt Nam để lại.
Vậy thì những người ra hải
ngoại sau này cũng nên tự điều chỉnh, để rồi cùng tham gia vào một
sứ mạng cao quý: gìn giữ tính Chân-Thiện-Mỹ của ngôn ngữ Việt Nam.
Hãy tưởng tượng hình ảnh một dòng sông đang trôi chảy. Bỗng dưng
có kẻ ngăn sông, biến một khúc quành của dòng sông tạo thành một
vũng ao tù. Không muốn dòng sông không chịu cảnh tù đọng, một nhóm
người khác đã tự khơi một nhánh mới, để nối dòng sông tiếp tục trôi
chảy, không qua khúc quành đã bị chận lại thành ao tù. Sau một thời
gian, một số dòng nước từ ao bắt đầu tìm đường chảy về con sông xưa.
Từ chốn ao tù ra sông, những dòng nước cảm thấy khác lạ khi hòa
nhập. Nhưng vì dòng sông xưa nay vẫn cuồn cuộn chảy, cho nên những
nước ao tù nhanh chóng hòa mình vào dòng nước tự do. Và cũng có thể
một này nào đó, khi những con đập ngăn sông bị phá, cả khúc quành đã
biến thành ao tù sẽ có dịp lại hòa mình vào dòng sông lịch sử.
Một ví dụ tượng hình cho câu chuyện của ngôn ngữ Việt Nam trong
nước và hải ngoại...
Tôi muốn kết thúc bài viết này bằng cách
mời mọi người hồi tưởng lại giọng hát của Thái Thanh qua một ca khúc
bất hủ của Phạm Duy, nói về tình yêu đối với ngôn ngữ, con người,
đất nước Việt Nam. Một tác phẩm văn hóa tuyệt đẹp, đã từng bị cấm
đoán trong nước trong suốt ba thập kỷ:
Tôi yêu
tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi!
Mẹ hiền ru những câu
xa vời, À à ơi! Tiếng ru muôn đời.
Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm
ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt ngàn năm thành
tiếng lòng tôi, nước ơi!...
Dân Việt
Nguồn: Viết Về Nước Mỹ (Việt Báo)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trịnh Tường Vân chuyển BKT Sưu tầm BKT trình bày & Ấn loát
Đăng ngày Thứ Hai,
February 11, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang