Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
trại llđb khâm đức
Tác giả:
LLĐB/HK
Người dịch:
Vũ Đình Hiếu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trại Lực Lượng Đặc Biệt Khâm
Đức (A–105) nằm về hướng tây tỉnh Quảng Tín. Trong mùa Xuân năm
1968, nó là căn cứ biên phòng duy nhứt còn đứng vững trong vùng I
chiến thuật. Đơn vị nhận lãnh trách nhiệm yểm trợ, tiếp ứng cho
trại LLĐB Khâm Đức được trao cho Sư đoàn 23 (Americal) Bộ Binh
Hoa Kỳ đóng trong căn cứ Chu Lai nơi bờ biển.
Liên đoàn 1 LLĐB/HK đến Việt Nam trong
tháng Chín năm 1963, đưa một toán A/LLĐB đến thám sát khu vực và
cho rằng, Khâm Đức đã có sẵn một phi đạo cũ, là một điạ điểm lý
tưởng để theo dõi, bảo vệ đường biên giới Việt–Lào. Trại LLĐB
Khâm Đức được xây dựng trong một thung lũng, trên một khu đất
phẳng, với cỏ tranh, xung quanh là rừng núi âm u, dường như không
có người bén mảng đến. Ngôi làng nhỏ duy nhứt trong khu vực nằm
bên kia phi đạo, là nơi ăn ở, sinh sống, vợ con đơn vị dân sự
chiến đấu, được tuyển mộ phòng thủ căn cứ.
Về hướng tây trại LLĐB là rặng núi Ngok
Peng Bum, phiá đông là rặng Ngok Pe Xar. Từ trên núi có nhiều
thác, nước chảy rất mạnh xuống suối chia đôi màu xanh thẫm của
rừng núi. Dòng sông Dak Mi, chảy ngang qua, khu vực trại LLĐB
khoảng một dặm, dưới bóng mát rặng núi Ngok Pe Xar. Dọc theo dòng
sông Dak Mi khoảng năm dặm về hướng nam có một căn cứ hành quân
tiền phương Ngok Tavak. Tại đây có 113 dân sự chiến đấu thuộc Đại
đội 11 xung kích, tiếp ứng Mike Force cùng với 8 quân nhân LLĐB
Việt–Mỹ và ba cố vấn LLĐB (SAS) Úc Đại Lợi trấn đóng. Vì căn cứ
Ngok Tavak nằm ngoài tầm yểm trợ của pháo binh bạn, nên được tăng
cường một Trung đội 33 quân nhân Pháo Binh TQLC/HK, thuộc Pháo
đội D, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 12 TQLC với hai khẩu đại bác
105ly. Đại úy Christopher J. Silva chỉ huy Toán A–105 LLDB/HK đáp
trực thăng vào căn cứ Ngok Tavak ngày 9 tháng Năm 1968 để xem xét
lại việc phòng thủ, vì ông ta đã được biết quân đội Bắc Việt đưa
thêm quân vào trong khu vực trại LLĐB Khâm Đức. Vấn đề này làm
Đại úy Silva lo ngại, một trận tấn công sắp xảy ra. Hôm đó thời
tiết xấu, trực thăng không vào đưa ông ta trở về trại LLĐB Khâm
Đức. Tiếp theo là một trung đội dân sự chiến đấu từ Khâm Đức, đi
tuần bị phục kích cũng chạy đến căn cứ Ngok Tavak. Sau này mới
biết trung đội này đã bị địch quân gài người vào làm nội tuyến.
Khoảng 3:15g sáng ngày 10 tháng Năm,
quân đội Bắc Việt mở trận tấn công căn cứ Ngok Tavak. Căn cứ bị
pháo kích bằng súng cối và đại bác không giật, bắn thẳng từ những
sườn núi bao quanh căn cứ. Khi địch quân bắt đầu tấn công bằng bộ
binh, các dân sự chiến đấu từ trại LLĐB Khâm Đức, bỏ phòng tuyến
chạy vào bên trong la lớn “Đừng bắn. Quân bạn”, rồi bất ngờ ném
lựu đạn vào ụ súng đại bác 105ly.
Bị vố bất ngờ, quân trú phòng bị tổn
thất nhưng giết tất cả mấy tên nội tuyến. Quân đội Bắc Việt được
lợi thế, từ trên các sườn đồi bắn đại liên xuống làm cho đơn vị
xung kích Mike Force không ngóc đầu lên bắn trả được. Địch quân
sử dụng súng phun lửa đốt kho chứa đạn làm cháy sáng cả đêm. Binh
sĩ LLĐB/HK Harold M. Swicegood và Trung đội trưởng TQLC/HK, Thiếu
úy Adams bị thương nặng được đưa vào hầm chỉ huy (trung tâm hành
quân) của căn cứ. Đúng lúc đó Y tá Blomgren chạy vào báo cáo nhân
viên trong khẩu đội súng cối đã bỏ vị trí. Đại úy Silva chạy ra
áp dụng khẩu súng cối 4.2ly, sau đó bị thương. Khoảng 5:00g sáng,
Trung sĩ Glen Miller chạy ra ụ súng đại bác 105ly, bị trúng đạn
vào đầu chết ngay tức khắc.
Quân đội Bắc Việt chọc thủng phòng
tuyến hướng đông căn cứ Ngok Tavak, di chuyển các khẩu đại liên
vào sát hàng rào phòng thủ. Trong tình thế cấp bách, căn cứ yêu
cầu phi cơ “Hỏa Long” AC–47 tác xạ xung quanh tuyến phòng thủ căn
cứ và ụ súng đại bác, mặc dầu có thể còn quân bạn, chỉ bị thương
chưa ra khỏi ụ súng đại bác. Cuộc tấn công của địch khựng lại,
hai bên chỉ nằm thủ, ném lựu đạn qua lại cho đến sáng.
Khi trời bắt đầu sáng, hai sĩ quan cố
vấn LLĐB Úc Đại Lợi, Cameron, Lucas, có thêm Blomgren, chỉ huy
dân sự chiến đấu (Mike Force) phản công đẩy lui địch quân ra khỏi
căn cứ, chiếm lại khẩu đại bác 105ly. Pháo binh TQLC Hoa Kỳ bắn
hết chín quả đạn còn lại rồi phá hủy khẩu súng. Sau đó trực
thăng tản thương được các trực thăng võ trang yểm trợ bay đến căn
cứ di tản các thương binh, trong đó có Đại úy Silva và Swicegood.
Một lực lượng xung kích tiếp ứng Mike
Force, khoảng 45 người thuộc Đại đội 12 Mike Force do Đại úy
Eugene E. Makowski chỉ huy được hai trực thăng CH–46 (giống như
CH–47 Chinook) của TQLC/HK đưa vào căn cứ Ngok Tavak thay thế số
quân nhân bị chết và bị thương. Một chiếc trực thăng bị trúng đạn
nơi ống dẫn xăng, phải đáp xuống, chiếc thứ hai trúng hỏa tiễn nổ
tung, rơi trên bãi đáp. Những quân nhân bị thương còn sót lại
được một trực thăng chỉ huy đang bao vùng đáp xuống căn cứ, di
tản.
Binh sĩ
lực lượng xung kích, xuống tinh thần, kiệt sức, đạn dược, nước
uống cũng đã gần cạn, trong khi địch quân vẫn tiếp tục pháo kích
bằng súng cối vào căn cứ. Cấp chỉ huy trong căn cứ yêu cầu được
rút lui (di tản), nhưng được trả lời “Giữ vững phòng tuyến...
Quân tiếp viện đang trên đường đến căn cứ”. Đến giữa trưa vẫn
không thấy quân tiếp viện đến. Nếu tình trạng kéo dài đến tối,
địch quân sẽ tràn ngập căn cứ. Một tiếng đồng hồ trôi qua, cấp
chỉ huy trong căn cứ quyết định rút bỏ tiền đồn Ngok Tavak.
Thomas Perry, một y tá LLĐB, được đưa
đến căn cứ lúc 5:30g sáng để chăm sóc thương binh. Anh ta vừa lo
cho người bị thương vừa ra trám vào tuyến phòng thủ khi lệnh “rút
bỏ căn cứ” được thông báo. Khi những quân nhân sống sót bắt đầu
bỏ vị trí chiến đấu, di chuyển ra khỏi căn cứ, Perry được nhìn
thấy lần cuối cùng bởi Trung sĩ Cordell J. Matheney Jr. đứng cách
Perry khoảng 20 thước. Lúc đó Đại úy LLĐB Úc Đại Lợi John White
đang cho quân tập họp một hàng dọc bên lớp hàng rào phòng thủ
tuyến ngoài. Như vậy có thể tin là Perry sẽ nhập vào đoạn cuối
đoàn quân triệt thoái. LLDB.
Trước khi rút lui, quân trú phòng vội
vã gom tất cả vũ khí, quân dụng nặng không mang theo được, bỏ vào
hầm chỉ huy rồi đốt bỏ. Chiếc trực thăng bị trúng đạn nơi ống dẫn
xăng không bay được, cũng được phá hủy bằng hỏa tiễn M–72. Xác
chết Trung sĩ Miller cũng phải bỏ lại. Sau khi đoàn quân đi được
khoảng một cây số, họ mới biết được không có Perry. Một toán mười
một quân nhân thuộc Pháo đội D được lịnh quay trở lại tìm Perry
và Miller (đã chết). Toán quân mười một người này về đến chu vi
phòng thủ căn cứ, bị địch tấn công, không một người trở lại, xác
của họ cũng biến mất cùng với Perry và Miller. Họ gồm có:
– Binh nhứt Thomas Blackman,
– Hạ sĩ Joseph Cook,
– Binh nhứt Paul
Czerwonka,
– Hạ sĩ Thomas Fritsch,
– Binh nhứt Harry Hempel,
– Hạ sĩ
Raymond Heyne,
– Hạ sĩ nhứt Gerald King,
– Binh nhứt Robert Lopez,
– Binh nhứt
William McGonigle,
– Hạ sĩ Donald
Mitchell, và
– Hạ sĩ James Sargent.
Những người sống sót còn lại được trực
thăng cứu trong một bãi đất trống khoảng giữa căn cứ Ngok Tavak
và trại LLĐB Khâm Đức lúc 7:00g tối ngày 10 tháng Năm 1968.
Trong khi tiền đồn Ngok Tavak bị tấn
công, quân đội Bắc Việt đồng thời pháo kích bằng súng cối và đại
bác không giật, bắt đầu từ lúc 2:45g sáng vào trại LLĐB Khâm Đức.
Những đợt pháo kích kéo dài cả ngày. Sư đoàn Americal đã đưa lên
tăng cường trại LLĐB một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn Bộ Binh Nhẹ 196,
thêm vào đó một Đại đội xung kích tiếp ứng Mike Force, nhưng tình
hình trại LLĐB đã trở nên bết, binh sĩ xuống tinh thần, và quân
đội Bắc Việt càng ngày càng gia tăng áp lực. Quân tăng viện được
đưa lên nhưng không thấy có hiệu quả.
Trước các đợt pháo kích, nhiều binh sĩ
dân sự chiến đấu sợ hãi, bỏ phòng tuyến, chạy vào bên trong các
hầm trú ẩn. Họ không còn tuân theo lịnh cấp chỉ huy nữa. Hệ thống
chỉ huy trại LLĐB gần như rối loạn sau khi Đại úy Silva đi xuống
tiền đồn Ngok Tavak rồi bị thương, được trực thăng di tản. Đến
buổi tối, trực thăng Hoa Kỳ đưa một đơn vị xung kích khác (Đại
đội 137) từ trại LLĐB Hà Thanh lên hoán đổi cho hai Đại đội 11 và
12. Hai Đại đội Mike Force này được đưa về Đà Nẵng, và sau đó...
(vô kỷ luật, hèn nhát...)
Trời mờ sáng ngày 12 tháng Năm, Trung
đoàn 1, Sư đoàn 2 Bắc Việt bắt đầu siết chặt vòng vây trại LLĐB
Khâm Đức. Khoảng 4:15g đến 4:30g sáng, địch quân bắt đầu
[tấn
công] các tiền đồn xung quanh căn cứ. Tiền đồn 7 bị tấn công,
tràn ngập nhanh chóng, các Tiền đồn 1, 3, 5 được quân thuộc Lữ
đoàn 196 vào trấn đóng, cầm cự được đến 9:30g.
Tiền đồn 1 có Binh nhứt Harry Coen,
Binh nhứt Andrew Craven, Trung sĩ Joseph Simpson, và Hạ sĩ Julius
Long thuộc Đại đội E, Tiểu đoàn 2. Tiền đồn này bị tấn công từ
lúc 4:15g sáng, Binh nhứt Coen và Hạ sĩ Long sử dụng khẩu đại
bác không dật 106ly bắn chận địch, sau đó bị trúng đạn súng B–40.
Những quân nhân sống sót từ tiền đồn này chạy về báo cáo, hầm của
họ bị bắn sập bằng đại bác không giật ngay từ lúc đầu.
Binh nhứt Craven cùng với hai đồng đội
rút khỏi tiền đồn lúc 8:30g. Khi ra khỏi chừng 50 thước họ nghe
được tiếng nói địch quân đã tràn vào tiền đồn. Đến khoảng 11:00g
sáng, họ về gần đến tuyến phòng thủ của tiểu đoàn, đụng phải địch
quân. Craven là người đi đầu nổ súng, địch quân bắn trả lại trúng
Craven mấy viên vào ngực, ngã gục. Hai người còn lại không đủ thì
giờ lấy xác bạn, bỏ chạy. Lần cuối cùng họ trông thấy Craven, gục
ngã trong vị thế nằm ngửa gần chu vị trại LLĐB.
Trong Tiền đồn 2 có Trung úy Frederick
Ransbottom, Hạ sĩ Maurice Moore, Binh nhứt Roy Williams, Binh
nhứt Danny Widner, Binh nhứt William Skivington, Binh nhứt Imlay
Widdison, Binh nhứt Lloyd, và Hạ sĩ nhứt John Stuller. Những quân
nhân sống sót trở về kể lại, có lẽ Binh nhứt Widdison và Hạ sĩ
nhứt Stuller đã tử trận, tuy nhiên điều này không được kiểm chứng
chính xác.
Chỉ có tin tức về Trung úy Ransbottom, Hạ sĩ Moore, Binh nhứt
Lloyd, và Binh nhứt Skivington. Trung úy Ransbottom liên lạc trên
vô tuyến với Binh nhứt Widner, Binh nhứt Williams đang thủ trong
căn hầm thứ ba, nói rằng, ông ta bắn gục mấy tên định xung phong
vào căn hầm của ông ta.
Hạ sĩ Juan Jimenez, một khinh binh
trong Đại đội A, bị thương nặng ở lưng trong tuyến phòng thủ vì
đạn súng cối. Anh ta được báo cáo tử trận bởi y sĩ tiểu đoàn vào
lúc sáng sớm hôm 12 tháng Năm, sau đó được đem ra bãi trực thăng
chờ di tản. Tuy nhiên vì bãi đáp nhỏ hẹp, nên chỉ ưu tiên cho
những quân nhân bị thương nặng và xác của Jimenez bị bỏ quên...
Đến trưa, quân Bắc Việt mở đợt tấn công
lớn vào căn cứ chính trại LLĐB. Đợt tấn công của địch bị chận lại
bởi các Phi tuần thả bom Napalm, và bom chống biển người
(cluster) ngay trên lớp hàng rào phòng thủ cuối cùng của căn cứ.
Sau đó, bộ tư lệnh Sư đoàn Americal quyết định di tản trại LLĐB
Khâm Đức ngay tức khắc.
Ngay khi lịnh di tản vừa được ban ra,
tình hình trong căn cứ rất phức tạp, gần như hỗn loạn. (Bộ Binh,
LLĐB, Dân Sự Chiến Đấu, Mike Force, vợ con dân sự chiến đấu).
Chiếc trực thăng đầu tiên bay vào căn cứ trúng hỏa tiễn, nổ tung
trên phi đạo làm binh sĩ công binh thuộc Đại đội A, Tiểu đoàn 70
công binh phải dùng xe ủi đất để khai thông phi đạo cho phi cơ
đáp xuống. Thêm tám phi cơ đủ loại bị bắn rơi trong cuộc di tản.
Binh nhứt Richard E. Sands thuộc Đại
đội A, Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 196 Bộ Binh Nhẹ, được trực thăng
Chinook CH–47 vào “bốc”. Chiếc trực thăng mang số (67–18475) lúc
bay lên cao khoảng 1500, 1600 bộ (feet) bị trúng nhiều đạn đại
liên 50. Sand ngồi gần xạ thủ đại liên nơi cửa bị trúng một viên
vào đầu. Chiếc trực thăng bị hư hại, bốc cháy và phải đáp xuống
khẩn cấp trong rừng. Trong lúc mọi người vội vã chạy ra khỏi
chiếc trực thăng đang bốc cháy, bốn người và một y tá xác nhận
Sands đã chết ngay tức khắc khi bị trúng viên đạn đại liên vào
đầu. Xác của binh nhứt Sands bị bỏ lại trong chiếc trực thăng
đang bốc cháy, sắp nổ tung. Những người sống sót được một trực
thăng khác đến cứu. Vấn đề di tản gặp rất nhiều khó khăn, quân
đội Bắc Việt đem súng phòng không vào bố trí trong các tiền đồn
đã chiếm được. Khó chỉ huy binh sĩ dân sự chiến đấu (họ là người
Thượng, chỉ nghe lịnh của “cấp chỉ huy” của họ. Một Đại đội dân
sự chiến đấu bị ép buộc bằng vũ khí ra nằm nơi giao thông hào vì
sợ họ chạy vào gây hỗn loạn trên phi đạo.
Theo chương trình di tản, Đại đội A,
Tiểu đoàn 1/46 được đi trước. Binh sĩ Bộ Binh xô đẩy thường dân,
vợ con binh sĩ dân sự chiến đấu qua một bên để lên phi cơ
Lockheed C–130 Hercules. Nhiều binh sĩ khác cũng thuộc Sư đoàn
Americal cũng tràn lên. Điều này làm quân nhân LLĐB nổi nóng
nhưng cũng chẳng làm được gì.
Phi hành đoàn trên chiếc C–130 mang số
(60–0297) của Không Lực Hoa Kỳ gồm có: phi công trưởng, Thiếu tá
Bernard Bucher, Trung sĩ cơ khí Frank Hepler, Thiếu tá John
McElroy phi hành (navigator), Trung úy Steven Moreland phi công
phụ, George Long vận chuyển, Đại úy Warren Orr hành khách đi
theo, và một số thường dân đồng bào Thượng, vợ con binh sĩ dân sự
chiến đấu. LLDB
Khi cất cánh chiếc phi cơ bị trúng
nhiều đạn phòng không. Máy bay quan sát (FAC) đang bao vùng báo
cáo, chiếc C–130 nổ tung trên bầu trời, rơi xuống như quả cầu
lửa cách trại LLĐB khoảng một dặm. Tất cả mọi người trên chiếc
phi cơ trúng đạn, tất cả phi hành đoàn đều tử nạn. Chiếc phi cơ
bị thiêu rụi nhanh chóng, không thâu hồi được tử thi.
Đại úy Orr là hành khách đi theo phi
cơ, quân đội Hoa Kỳ không xác nhận chắc chắn về ông ta. Có người
kể lại trông thấy Đại úy Orr nơi đuôi phi cơ, giúp đỡ thường dân
lên phi cơ. Một thường dân Việt Nam cho biết ông ta có trên phi
cơ, người này nhận diện đúng tấm ảnh của vị đại úy xấu số. Vấn đề
tiếp cứu, thâu hồi tử thi nạn nhân đi trên chiếc phi cơ, lúc đó
không thể thực hiện được vì địch quân vẫn tiếp tục pháo kích vào
trại LLĐB và phi đạo.
Sau khi lịnh di tản được ban ra, Hạ sĩ
Julius Long đang cùng với Coen và Simpson. Cả ba đều bị thương,
tìm cách rút ra tới phi đạo chỉ cách đó khoảng 350 thước. Khi họ
đến được phi đạo, chứng kiến chiếc C–130 cuối cùng cất cánh rời
phi đạo. Binh nhứt Coen, bị thương nơi bụng lúc đó hốt hoảng, vừa
chạy trên phi đạo vừa bắn lung tung. Hạ sĩ Long cố gắng giữ anh
ta lại nhưng không kịp, đó cũng là lần cuối cùng trông thấy anh
ta. Sau đó Long cõng Trung sĩ Simpson (bị thương nặng) lên một
ngọn đồi gần đó, tạm trú qua đêm.
Đêm hôm đó, các phi tuần phản lực Hoa
Kỳ được điều động lên đánh bom phá hủy phi đạo. Hạ sĩ Long bị
trúng thêm hai mảnh bom nữa vào lưng và Trung sĩ Simpson đã chết
trong đêm. Sau đó Hạ sĩ Long để xác đồng đội lại, tìm đường đi về
căn cứ Chu Lai. Anh ta bị quân đội Bắc Việt bắt sống và được trả
tự do vào năm 1973.
Lực Lượng Đặc Biệt là nhóm quân nhân
vẫn giữ được kỷ luật, di tản cuối cùng. Khi chiếc trực thăng cuối
cùng đến “bốc” họ, bay thoát lên trời xanh, quân đội Bắc Việt
tràn vào căn cứ lúc 4:33g chiều ngày 12 tháng Năm 1968. Trại LLĐB
Khâm Đức, tiền đồn cuối cùng của LLĐB ngoài vùng I chiến thuật bị
tiêu hủy.
LLĐB
Hoa Kỳ (MACV–SOG) mở hai cuộc hành quân xâm nhập, tìm kiếm, thâu
hồi tử thi vào khu vực Tiền đồn 1, Tiền đồn 2, và những ngọn đồi
xung quanh phi đạo Khâm Đức ngày 18 tháng Bảy và ngày 17 tháng
Tám năm 1970. Các toán biệt kích SOG tìm được, đem về mấy xác
chết (đã rữa) của các quân nhân Hoa Kỳ, được phòng nhận diện xác
nhận đó là xác của các quân nhân: Hạ sĩ Bowers, Binh nhứt Lloyd,
Trung sĩ Sisk, Binh nhứt Guzman Rios, và Trung sĩ Carter. Tuy
nhiên quân đội Hoa Kỳ, các toán biệt kích SOG không thể trở lại
tiếp tục tìm kiếm thêm vì tình hình chiến trường.
Vẫn còn nhiều quân nhân Hoa Kỳ bị báo
cáo mất tích trong cuộc di tản trại LLĐB Khâm Đức. Người duy nhứt
bị bắt làm tù binh và được trả về là Hạ sĩ Long.
LLĐB/HK
Vũ Đình Hiếu dịch
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, March 5, 2025
Ban Kỹ Thuật
Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang