Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
30T4Đ
Tác giả:
Vũ Đình Hiếu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu:
Kính gởi đến quý niên trưởng, quý vị và các bạn bài viết về cuộc
lui quân của Quân đoàn II vào tháng 3 năm 1975 dưới góc nhìn của
mũ nâu Vũ Đình Hiếu. MN Vũ Đình Hiếu không viết theo tài liệu đã
đăng tải nhưng viết bằng những ký ức, những tâm tư, những chia sẻ
với đồng đội, đồng bào mà anh đã cùng họ trên “đoạn đường chiến
binh” từ Kontum về đến Tuy Hòa.
Đây là một cuộc rút quân
đầy máu và nước mắt của tất cả binh sĩ và đồng bào tham dự, và
binh chủng Biệt Động Quân của chúng ta đã chịu một tổn thất vô
cùng bi đát vì phải lo mở đường và chận hậu, cộng với một oanh
kích yểm trở lầm vào quân bạn đã làm một Tiểu đoàn BĐQ gần như
xóa sổ. Đọc để nhớ Tháng Tư Đen, Tỉnh Lộ 7, một “Đại Lộ
Kinh Hoàng” thứ hai, trong những ngày cuối của cuộc
chiến. Kính mời.
MN Lê Minh Tuấn – Canada
Vào những tháng cuối
của năm 1974, tình hình trên Quân đoàn II bắt đầu sôi động, địch
quân gia tăng áp lực để chuẩn bị cho những trận đánh lớn sắp đến.
Đặc biệt trên vùng này chỉ có hai sư đoàn bộ binh, Sư đoàn 22 bảo
vệ các tỉnh miền duyên hải, Bình Định, Phú Yên. Sư đoàn 23 chịu
trách nhiệm trên vùng cao nguyên, Ban Mê Thuột, Pleiku, v.v. Tuy
nhiên Bộ tư lệnh Quân đoàn còn có năm Liên đoàn Biệt Động Quân,
sau đó còn được Bộ Tổng Tham Mưu tăng cường thêm hai Liên đoàn 4
và 6 BĐQ (Tổng trừ bị).
Hai Liên đoàn này khi ra đến Quân
khu II, được tăng phái cho Sư Đoàn 22 BB, hành quân tại mặt trận
Tam Quan, Bồng Sơn, phía bắc tỉnh Bình Định. Đến gần cuối năm 74,
lo ngại cho mặt trận trên vùng cao nguyên sắp bùng nổ, Bộ tư lệnh
Quân đoàn ra lệnh cho hai Liên đoàn Biệt Động Quân (4 và 6) quay
trở lại vùng cao nguyên để phòng thủ. Trước khi mặt trận Ban Mê
Thuột bắt đầu, các đơn vị Biệt Động Quân trên Quân đoàn II được
phối trí như sau:
– Bộ chỉ huy BĐQ/QK II dời lên trên
Kontum gọi là Bộ tư lệnh chiến trường Kontum.
– Liên đoàn
4 BĐQ: Tiểu đoàn 44 đóng quân gần Pleiku làm thành phần trừ bị.
Tiểu đoàn 42 đóng tại Plei Bau Can trên quốc lộ 19, phía đông
quốc lộ 14. Tiểu đoàn 43 nằm với Bộ tư lệnh Sư Đoàn 23 BB trong
căn cứ Hàm Rồng.
– Liên đoàn 6 BĐQ: Hai Tiểu đoàn 34 và 35
nằm giữ phía đông và đông bắc thành phố Kontum. Tiểu đoàn 51 tăng
phái cho Liên đoàn 25 BĐQ trong quận Thanh An, tỉnh Pleiku.
– Liên đoàn 21 BĐQ: Tiểu đoàn 96 trấn giữ đèo Chu Pao (ở giữa
Pleiku và Kontum). Tiểu đoàn 72 nằm trừ bị trong Kontum. Tiểu
đoàn 89 tăng phái cho Liên đoàn 6 BĐQ giữ mặt đông nam thành phố
Kontum. (Liên đoàn 21/BĐQ sau khi rút khỏi Ban Mê Thuột đã về
TTHL/BĐQ Dục Mỹ, để bổ sung quân số rồi đưa ra phòng tuyến Khánh
Dương trên QL2, giúp Nhảy Dù chận địch từ Ban Mê Thuột tràn
xuống. Tại nơi đó, Tiểu đoàn 96 BĐQ được tách ra để tăng phái cho
mặt trận Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.)
– Liên đoàn 22 BĐQ: Tiểu
đoàn 95 đóng tại làng Trung Nghĩa phía tây Kontum. Tiểu đoàn 88
đóng trên núi Ngok Bay tây bắc Kontum và Tiểu đoàn 62 nằm ở Ngô
Trang làm trừ bị.
– Liên đoàn 23 BĐQ (Đơn vị tổng trừ bị
cho QĐII&QK II): Ba Tiểu đoàn 11, 22, 23 đóng quân trên phía bắc
Kontum, dọc theo quốc lộ 14.
– Liên đoàn 24 BĐQ: Tiểu đoàn
63 đóng tại tỉnh lỵ Gia Nghĩa. Tiểu đoàn 81 đóng quân về phía nam
quận Kiến Đức. Tiểu đoàn 82 đóng tại quận lỵ Kiến Đức thuộc tỉnh
Quảng Đức.
– Liên đoàn 25 BĐQ: Cả ba Tiểu đoàn 67, 76 và
90 nằm trong phạm vi quận Thanh An, thuộc tỉnh Pleiku.
Tóm
lại, trước khi mặt trận phía nam cao nguyên (Ban Mê Thuột, Quảng
Đức) bùng nổ, trên Kontum; tỉnh xa nhất trên vùng cao nguyên có
gần bốn
(4)
Liên đoàn Biệt Động Quân (21, 22, 23 và 6). Liên đoàn 24 BĐQ đã
được điều động về bảo vệ tỉnh Quảng Đức, phía nam Ban Mê Thuột.
Trong tỉnh Pleiku có hai Liên đoàn 4 và 25 Biệt Động Quân.
Khoảng đầu tháng 3/1975, LĐ 22 BĐQ được (biệt phái hành quân) một
phi cơ quan sát L19 bay bao vùng trong khu vực hành quân của Liên
đoàn. Đến gần trưa, bỗng nhiên viên phi công L19 gọi Trung Tâm
Hành Quân/LĐ và thông báo là “... được lệnh bay về Pleiku” tức là
sẽ ra khỏi hệ thống chỉ huy của Liên đoàn 22 BĐQ.
Thông
thường, vị sĩ quan ban 3 nào đang trực tại Trung Tâm Hành Quân/LĐ
sẽ yêu cầu L19 nán lại một chút để trình lên Liên đoàn trưởng và
trưởng ban 3. Trong trường hợp của ngày hôm đó, vị sĩ quan trực
phải tuân hành thượng lệnh vừa được phi công thông báo vì (như
ông nói) “Quân đoàn cho mình xử dụng... Bây giờ họ đòi lại. Mình
phải để chiếc L19 bay về ngay...”
Vài ngày sau, tôi được
ra phố chơi, thăm hai người bạn làm nghề dậy học ở Kontum và được
đưa đi ăn cơm trưa (hai ông nhà giáo độc thân, xa nhà, ăn cơm
tháng). Hôm đó, bàn bên cạnh có mấy ông phi công trực thăng cũng
đang ăn cơm; tôi hỏi thăm và được biết, chiếc L–19 bay bao vùng
cho đơn vị tôi mấy hôm trước, thay vì quay về Pleiku, đã được
lệnh bay thẳng về hướng Ban Mê Thuột để điều động các phi tuần
phản lực A–37 bắn phá, thả bom đoàn xe chở quân của quân đội Bắc
Việt. Hai ông phi công trực thăng nói thêm “... mình bắn cháy
được khoảng 80 chiếc Molotova của địch!”
(Sau này, tôi có
tìm tài liệu nghiên cứu thêm. Được biết đó là đoàn xe Molotova
chở Sư Đoàn 10, tức F10 quân đội Bắc Việt; di chuyển từ phía bắc
Kontum, xuống phía nam Ban Mê Thuột, chuẩn bị đánh quận Đức Lập
của tỉnh Quảng Đức, cắt quốc lộ 14 nơi hướng nam và cô lập thị xã
Ban Mê Thuột. Sư đoàn 320 sẽ di chuyển vào vị trí cắt quốc lộ 14
nơi hướng bắc. Mũi dùi chính đánh vào thị xã Ban Mê Thuột sẽ do
Sư Đoàn 316, từ miền Bắc vào đảm trách, với sự trợ lực của Sư
Đoàn F10).
Tuy QLVNCH đã khám phá cuộc chuyển quân của
địch (Sư Đoàn F10) và ra tay làm cú ngoạn mục (bắn cháy 80 xe chở
quân Molotova của địch) nhưng đỡ không nổi với ba sư đoàn chính
quy Bắc Việt 320, 316, 10, cùng với Trung Đoàn 25 CSBV, cộng thêm
hai trung đoàn biệt lập, trong nỗ lực cắt quốc lộ 21 từ Ban Mê
Thuột đi Nha Trang. Trong khi đó, Trung Đoàn 95 cùng với Sư Đoàn
3 Sao Vàng cắt quốc lộ 19 Pleiku – Qui Nhơn.
Ban Mê Thuột
mất khoảng ngày 10, 11 tháng 3/1975. Sau khi Liên đoàn 21/BĐQ rút
đi, trên Kontum còn ba Liên đoàn: 22, 23 và LĐ 6 BĐQ. Ngày
14/3/1975, Tướng Nguyễn Văn Phú, Tư Lệnh QĐII & QKII bay ra Cam
Ranh họp với Đại tướng Cao Văn Viên, Đại tướng Trần Thiện Khiêm
và Trung tướng Đặng Văn Quang.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
ra lệnh cho Tướng Phú đem tất cả các đơn vị “chủ lực” về Nha
Trang (để phản công, tái chiếm Ban Mê Thuột) còn toàn thể Địa
Phương Quân của các tiểu khu đều không được lệnh di tản. Lúc đó,
trên vùng cao nguyên vẫn còn Sư Đoàn 23 BB (–) với hai Trung Đoàn
44 và 45, cùng với Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, cộng thêm toàn bộ lực lượng
của BĐQ.
Để chuẩn bị cho việc di tản, Liên đoàn 6 BĐQ được
lệnh rút về Pleiku. Liên đoàn này là một trong 3 đơn vị BĐQ tổng
trừ bị, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu (hai Liên đoàn còn lại là LĐ4
và LĐ7 BĐQ). Liên đoàn 6 BĐQ nhận nhiệm vụ dẫn đầu đoàn quân di
tản, đồng thời bảo vệ cho lực lượng Công Binh sửa đường và bắc
cầu). Trên Kontum còn lại hai Liên đoàn 22 và 23 BĐQ.
Một
hai ngày sau, đến phiên Liên đoàn 23/BĐQ rút đi. Kontum lúc đó
chỉ còn Liên đoàn 22 BĐQ cô đơn, là đơn vị chủ lực quân duy nhất,
cùng với các Tiểu đoàn địa phương quân. Liên đoàn 23 BĐQ (tức
Liên đoàn 2 cũ, chủ lực của QĐII và QKII) có định mệnh riêng. Tôi
có mấy người bạn cùng khóa ở đơn vị này. Trên đường di tản, gặp
lại bạn, tôi chỉ biết đưa tay vẫy mấy cái như chào từ biệt...
mạng ai nấy lo... trời gọi ai, người đó dạ!
(1)
Trong Bộ Chỉ Huy hành quân Liên đoàn 22/BĐQ, mọi sinh hoạt
vẫn giữ dáng vẻ bình thường ở bề ngoài. Có lần, trong bữa cơm
chiều (sĩ quan ăn cơm chung), có người nêu lên vấn đề (câu hỏi)
“Các Liên đoàn BĐQ bạn đã rút đi khỏi Kontum để về Pleiku. Khi
nào mới đến đơn vị mình!?” Không một ai có câu trả lời! Hình như
có ai đó nói “Không lẽ họ (cấp cao hơn) để mình lại làm con chốt
thí!?”.
Cuối cùng thì Liên đoàn 22 BĐQ cũng nhận được lệnh
rút ra khỏi Kontum. Lệnh cho Liên đoàn rất khẩn cấp, không đầy 24
tiếng đồng hồ, cả Liên đoàn phải di chuyển. Tất cả các toán tiếp
liệu (Liên đoàn, ba Tiểu đoàn, đại đội trinh sát BĐQ, pháo đội
(ĐĐ Pháo Binh BĐQ)) phải đem vào vùng hành quân thực phẩm, thêm
một cấp số đạn cho tất cả quân nhân trong đơn vị trực thuộc, và
phải tiếp tục, kể cả khi trời đã tối. Do đó mới có chuyện các
toán tiếp liệu ra chợ Kontum thu mua thực phẩm làm cho người dân,
kể cả các làng Thượng gần thành phố báo động.
Riêng bản
thân tôi “kẹt” hơn nữa, vì tôi có hai người bạn học cũ đang dạy
học trên Kontum. Căn nhà hai ông bạn thuê trở thành “hậu trạm”
cho đám BĐQ, đặc biệt mấy sĩ quan trẻ cùng lứa thuộc Đại Đội 22
Trinh Sát (thường đóng quân bảo vệ BCH/HQ của Liên đoàn). Đôi
khi, những người lính cũ thuộc Tiểu đoàn 95/BĐQ mà tôi từng phục
vụ, có dịp ra phố, thường hay đến nhà mấy ông thầy giáo tìm tôi,
nên mấy ông thầy giáo tỉnh lẻ cũng quen biết họ. Nhờ đi theo BĐQ
mà hai ông bạn này thoát chết trong những ngày di tản, rồi về đến
Sài Gòn an lành.
Trong Bộ Chỉ Huy hành quân LĐ 22 BĐQ có
Thiếu úy Trần Thiện Danh K4/72 Thủ Đức và tôi làm việc trong
Trung Tâm Hành Quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thiếu tá
Phước, Trưởng Ban 3. Tôi và Danh rất thân, đi lính cùng lúc
(K6/72 là khóa 4/72 rớt lại), cùng gốc Tiểu đoàn 95/BĐQ, nên cũng
“thân” luôn với hai ông thầy giáo.
Sáng sớm hôm sau, tôi
ra phố sớm lại nhà hai ông thầy giáo nói họ chuẩn bị hành trang,
những gì gọn gàng có thể đem theo... Lúc đó tôi cũng chẳng biết
dặn dò gì thêm, sĩ quan “nhí” như tôi không biết gì hơn... lệnh
là lệnh, chỉ biết ra khỏi Kontum, còn đi hành quân nơi đâu hoàn
toàn không được biết. Dặn dò hai người bạn xong, tôi chạy vào hậu
cứ B–15, căn cứ của Nha Kỹ Thuật (Lôi Hổ, sau khi bàn giao cho LĐ
22 BĐQ, B–15 được đổi tên là trại Đinh Bộ Lĩnh) coi tình hình ra
sao?
Bên trong hậu cứ, mọi người đang tập họp nhận lệnh,
tôi cũng bước vào đứng trong hàng cuối cùng để nghe Thiếu tá Tể,
chỉ huy hậu cứ, ban lệnh “Tôi nói thẳng cho anh em biết, mình bỏ
Kontum cho thằng cộng sản... Tất cả đều phải di tản, các anh em
không được cho thường dân đi theo, nếu không mình không đủ xe...
và sẽ bị bỏ rơi!”. Sau khi tan hàng, mọi người trở về chuẩn bị di
tản, những gì không đem theo được đốt phá hết...
Tôi nghĩ
thầm... Như vậy là “rồi...”, những lần trước, đơn vị đi hành quân
ở Pleiku hay những nơi khác, hậu cứ vẫn “dậm chân tại chỗ” vì là
nơi lo chuyện hành chánh, giấy tờ. Theo lệnh của vị sĩ quan chỉ
huy hậu cứ, không được cho thường dân đi theo, có nghĩa là rất
nghiêm trọng... Đang phân vân lo cho hai ông bạn thầy giáo, đúng
lúc mấy chiếc GMC chở Đại Đội Trinh Sát về đến hậu cứ.
Tôi
đến chào Đại úy Đình, ĐĐT rồi nói chuyện với Thiếu úy Biên ĐĐP.
Ông này học khóa 7/72 Đồng Đế, cũng có thể nói là quen biết (cùng
lứa). Tôi hỏi thăm chuyến ĐĐ/TS 22 BĐQ về Sài Gòn ứng chiến dịp
Tết vừa qua, rồi nói cho Biên biết về trường hợp hai ông bạn nhà
giáo. Biên rất sốt sắng nói cứ đưa vào, rồi rủ tôi cùng mấy sĩ
quan trong đại đội lên một xe Dodge chạy trở vào trong thành phố
Kontum (Đại Đội Trinh Sát 22 BĐQ có 7, 8 sĩ quan, quân số nhiều
hơn một đại đội thường, có mấy ông làm trưởng toán viễn thám).
Thật không ngờ, tôi mới vào trong hậu cứ khoảng hơn nửa tiếng
đồng hồ, quốc lộ 14 từ Kontum đi về hướng nam (Pleiku) chật cứng
người tỵ nạn, đàn ông, đàn bà, trẻ con, người gìa xách tay nải,
bọc quần áo dắt nhau chạy giặc. Tôi nhìn trong đám đông, nhận ra
hai ông nhà giáo Hạnh, Vinh cũng đeo túi Air Việt Nam, bước đi
như chạy theo đoàn người... xuôi nam. Tôi nói tài xế ngừng lại,
rồi nhảy xuống xe chạy lại, lôi hai ông thầy giáo đẩy lên xe.
So với Pleiku và Ban Mê Thuột, Kontum nhỏ hơn và buồn hơn
nhiều (thật ra, chỉ con đường chính Lê Thánh Tôn là có nhiều cửa
hàng buôn bán. Phố xá còn lại rất thưa thớt). Từ Kontum theo quốc
lộ 14 lên hướng Bắc sẽ đi ngang qua những địa danh nổi tiếng
trong chiến sử; đặc biệt là căn cứ Charlie, nơi cố Đại tá Nhảy Dù
Nguyễn Đình Bảo đã hy sinh, rồi trại LLĐB Ben Het (TĐ 95/BĐQ),
Tân Cảnh, Dakto (nơi Đại tá Lê Đức Đạt tư lệnh sư đoàn 22 BB đền
nợ nước năm 1972), Dak Seang (TĐ 90/BĐQ) và cuối cùng là căn cứ
Dak Pek (TĐ 88/BĐQ). Lên nữa, sẽ đến quận Ba Tơ, thuộc tỉnh Quảng
Ngãi.
Trở vào trong hậu cứ, mọi người đã bắt đầu di tản.
Khung cảnh hỗn loạn, không còn lính canh gác cổng. Có mấy người
Thượng đẩy xe chở đồ (không có động cơ) vào bên trong hôi của...
Như đã trình bày ở phần trên, sau chuyến tái tiếp tế khẩn cấp cho
các đơn vị trong Liên đoàn 22 BĐQ; người dân Kontum đã biết bị bỏ
rơi, nên khi trông thấy mấy chiếc GMC chở Đại Đội Trinh Sát đi
ngang qua phố, người dân Kontum bắt đầu bồng bế dắt díu nhau ra
đi (đi bộ...). Còn người Thượng thì “tự động” đẩy xe chở đồ vào
hậu cứ của Liên đoàn để... dọn dẹp!
Lính của Đại Đội Trinh
Sát được lệnh bố trí xung quanh doanh trại, đợi lệnh rồi cùng di
chuyển một lượt với Bộ Chỉ Huy/LĐ và 3 Tiểu đoàn tác chiến trực
thuộc. Tôi cùng với hai ông giáo Hạnh, Vinh và mấy ông sĩ quan
trẻ ĐĐ/TS nói chuyện bàn tán vẫn chưa biết rút đi đâu? Hành quân
nơi đâu? Mọi người chỉ đoán mò “Chắc là kỳ này tới phiên Liên
đoàn 22 BĐQ nhảy vào chiến trường Ban Mê Thuột...” Còn có một
nguồn dư luận khác cho rằng “... Mình (VNCH) cắt đất cho cộng
sản... nhưng cắt tới đâu, chẳng ai biết!”
Hai ông thầy
giáo Hạnh, Vinh thuê nhà cùng dãy có mấy ông cảnh sát, sĩ quan
Địa Phương Quân tiểu khu Kontum. Hạnh nói với tôi “Hàng xóm đã ra
đi từ đêm qua, lúc ở nhà đợi ông, bọn tôi nóng cả ruột. Rồi khi
nhìn ra cửa thấy người dân bồng bế ra đi liên tục, nên cứ đi
theo. Không ngờ được lính ông lôi lên xe, để vào trong hậu cứ
Liên đoàn”.
Lúc đó có Trung sĩ Nê trung đội phó của tôi
hồi tôi còn ở Tiểu đoàn 95 BĐQ (Nê thỉnh thoảng ra Kontum ghé tìm
tôi nên cũng quen với hai ông giáo). Tôi hỏi Nê kiếm cho hai ông
thầy giáo bộ đồ bông (quân phục BĐQ) để dễ dàng đi chung. Nê cởi
ngay áo mình đang mặc đưa cho Hạnh còn mình khoác lên người áo
giáp, sau đó một BĐQ đem lại cho tôi cái áo giáp mới toanh và
khẩu M–16.
Lúc đó, Trung sĩ Minh, một BĐQ rất dễ thương,
lúc nào cũng cười, dễ hòa hợp với mọi người. Minh thuộc thế hệ
đàn em, cũng đi lính năm 1972, thụ huấn khóa Hạ Sĩ Quan cùng với
hai “trung sĩ trẻ” trong trung đội tôi
(2). Minh
cũng thường ra nhà hai ông thầy giáo tìm tôi, và sau khi quán cơm
tháng đóng cửa (nhiều người dân Kontum di tản trước Tết năm 1975
sợ đánh lớn như Tết Mậu Thân vào năm 1972), Minh mua gạo trong
đơn vị cho vào ba lô đem lại nhà tiếp tế hai ông thầy giáo.
Minh nói với tôi và hai ông bạn Hạnh, Vinh, là có một GMC
(chiếc cuối cùng) sắp di chuyển nên cứ đưa Hạnh và Vinh đi theo.
Nghe Minh nói rất hợp lý (vì đi với ĐĐ/TS thế nào cũng có
chuyện... gay cấn). Do đó, tôi nhờ với Biên nhắn lại với Danh
(Ban 3), là tôi kẹt hai người bạn (Danh cũng biết), sẽ gặp lại
nhau trên đường di tản...
Hậu cứ Liên đoàn 22/BĐQ (B–15
cũ) chia đôi, nằm hai bên quốc lộ 14. Hướng tây có nhiều dãy nhà
đặt làm văn phòng cho Liên đoàn (và cả 3 Tiểu đoàn trực thuộc).
Chúng tôi vừa băng qua đường thì gặp anh chàng Quới (Tôi, Danh và
Quới là ba trung đội trưởng, Đại đội 1 Tiểu đoàn 95/BĐQ). Hắn
cũng muốn đi theo chúng tôi.
Chiếc xe GMC chở những người
lính còn lại (các ban ngành ở hậu cứ), có thêm thường dân, toàn
là những người quen biết khá thân (họ mở hàng quán, tiệm may vá
ngay bên cạnh hậu cứ) và hai ông bạn nhà giáo Hạnh, Vinh. Tôi và
Quới leo lên buồng lái ngồi cạnh tài xế.
Xe vừa ra khỏi
cổng trại, trên quốc lộ 14 về hướng Pleiku, dân chạy giặc tay
sách, tay mang, dắt nhau, bồng bế trẻ con đi bộ hai bên đường
thành hai hàng dài như vô tận, có gia đình đánh xe bò chở theo
nhiều đồ đạc, hòa nhập vào trong dòng người. Tôi ngồi lặng yên,
đoàn người di tản hy vọng tìm gặp người thân ở Pleiku, họ vẫn
chưa biết Pleiku cũng di tản, chuyến đi tìm tự do của họ sẽ kéo
dài mãi mãi và nhiều người sẽ không bao giờ đến...
Xe tiếp
tục chạy trên quốc lộ 14. Nhìn trước sau tôi mới biết là có hàng
trăm chiếc xe đủ loại, quân xa lẫn dân sự, nối đuôi nhau. Khi đi
ngang qua thành phố Pleiku, sắp đến Hàm Rồng, một căn cứ rộng
lớn, người Mỹ để lại, (hai Sư đoàn bộ binh 22, 23 lên hành quân
trên vùng cao nguyên thường đặt Bộ tư lệnh tiền phương) đoàn xe
bắt đầu đi chậm lại.
Tôi nhìn dọc theo lề đường bên phải,
một hàng dài Thiếu Sinh Quân (trường Thiếu Sinh Quân Cao Nguyên ở
gần Hàm Rồng, tôi nhớ không lầm gần đó có một trại cùi). Các em
vẫn quần áo trắng, bí tất trắng cao gần đầu gối, mũ beret đỏ, đeo
ba lô trên lưng gói ghém tất cả hành trang, lặng lẽ đi bộ thành
hàng dài. Tôi quay trước, quay sau, nói với chính mình (cả Quới
lẫn ông tài xế đều nghe)... “Trường Thiếu Sinh Quân di tản... Cấp
chỉ huy nhà trường đâu? [tại] sao để các em đi bộ?”
Lúc đó
bỗng dưng tôi “nổi hứng gió sương” nói với bác tài xế như ra lệnh
“Tấp vào lề!” (sau này nghĩ lại, mình không có quyền, chỉ là
người đi nhờ xe, còn đem theo hai người bạn... Vì thế, tôi xin
dành những dòng chữ này thay cho lời xin lỗi muộn màng. vđh). Bác
tài nghe lời tôi tấp xe vào lề (có lẽ cũng vì lòng yêu thương các
em Thiếu Sinh Quân. Trong cuộc chiến này các em đã mất mát nhiều
rồi...).
Cả ba người đều nhảy ra khỏi xe, tôi nói bác tài
và Quới thấy xe GMC nào còn trống vẫy lại nhờ (yêu cầu) họ chở
giùm các em Thiếu Sinh Quân. Chúng tôi phải đỡ từng đứa, đưa lên
xe... Mặt trời sắp lặn, xâm xẩm tối, vẫn còn các em TSQ rảo bước
từ phía xa (có lẽ đã thấm mệt), Quới bước đến bên tôi nói nhỏ
“Mình đi... Chuyện ai nấy lo!”
Tôi lại nổi nóng “Tao chưa
nhận được lệnh [bỏ] chạy!” (nghĩ lại thì đó cũng là điều không
hợp lý, cho dù trong ba ông trung đội trưởng, tôi về Tiểu đoàn 95
BĐQ trước Danh và Quới. Danh khóa đàn anh nhưng từ trong vùng 3
thuyên chuyển ra. Cả ba chúng tôi là bạn ngang hàng!).
Anh
chàng Quới chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ ra đường đón được xe Jeep
của một đơn vị nào đó, leo lên... biến mất. Bác tài lúc đó bước
lại nói nhỏ với tôi “Thôi mình đi...” (sau này, tôi nghe ai đó
trong đơn vị kể lại, chiếc xe chở theo Thiếu úy Quới, bon chen
chạy ẩu (liều mạng vọt lên trước) nên bị rớt xuống vực sâu... Âu
cũng là số phận. Mong bạn tha thứ cho tôi vì những lời lẽ “lớn
lối” không hay, không đúng!(vđh).
Lúc sắp sửa lên xe, tôi
được biết có một phụ nữ có con nhỏ, đã quá mệt mỏi vì trong thùng
xe chật chội, nên tôi xách súng, áo giáp leo lên mui ngồi để
nhường chỗ cho mấy mẹ con. Khi chiếc GMC rẽ vào liên tỉnh lộ 7B
(vốn đã bị bỏ hoang từ lâu) thì xe cộ dồn lại chật cứng. Cả đoàn
xe cứ nhích lên từng chút. Khi trời sụp tối, đoàn xe bật đèn sáng
đi thêm một đoạn nữa rồi nằm im, tắt đèn.
Mọi người trên
xe đã ngủ vì quá mệt mỏi, nhưng tất cả đều phải ngủ ngồi (tại
chỗ), không một ai dám xuống xe, vì có thể bị xe cán, đường rất
xấu, rất hẹp. Đoàn xe có thể di chuyển bất cứ lúc nào (khi xe
trước nổ máy tiến lên, thì xe kế tiếp cũng phải chạy nối theo sau
để có chỗ trống cho những xe đi sau nữa)...
Đoàn xe kéo
dài như vô tận. Đám đàn ông trên xe cũng thấm mệt, ngồi co ro vì
lạnh. Tôi khoác chiếc áo giáp vào để chống lạnh rồi cũng ngủ gà
ngủ gật. Đó là đêm đầu tiên trên liên tỉnh lộ 7B của một xe GMC
hậu cứ Liên đoàn 22 BĐQ. Những chiếc GMC khác của các Tiểu đoàn
đều đã chạy lạc nhau (vì không có ai chỉ huy).
Trong khi
đó, tại thành phố KonTum, Dân và Quân vẫn tiếp tục di tản. Xe
Jeep của Trung tá Bùi Văn Huấn, cùng với xe của mấy sĩ quan tham
mưu, khi ra đến Kontum, họ chạy một vòng quanh thành phố trước
khi vào hậu cứ B–15. Trên phòng hành quân vẫn còn sĩ quan Ban 2,
Thiếu tá Phước trưởng Ban 3, và Thiếu úy Trần Thiện Danh, cùng
mấy người lính truyền tin.
Nhóm người này phải ở lại để
theo dõi các cuộc rút lui của 3 Tiểu đoàn Biệt Động Quân trực
thuộc sau khi bàn giao cho các đơn vị Địa Phương Quân tiểu khu
Kontum. Chuyện bàn giao phòng tuyến có thể mất cả ngày, nếu không
làm gấp và nhanh chóng. Một lần Đại Đội 4 (đại đội đầu tiên tôi
phục vụ, sau đó mới đổi qua đại đội 1) nằm trên đồi Ba Chấm, một
vị trí chiến lược nằm về hướng tây thành phố Kontum. Trung đội
tôi được lệnh ở lại cuối cùng, chờ một đại đội ĐPQ lên bàn giao.
Khi họ lên đến nơi thì đã hơn 2 giờ chiều, Trung sĩ Cơ còn
phải dẫn mấy người lính ĐPQ xuống một cái chốt để thay cho BĐQ,
rồi trung đội tôi mới bắt đầu di chuyển ra khỏi khu vực trách
nhiệm. Cả trung đội xuống đến chân đồi Ba Chấm thì còn một chiếc
GMC duy nhất, đang kiên nhẫn chờ. Lúc đó đã hơn 4 giờ chiều! Trên
vùng cao nguyên, mặt trời đi ngủ sớm.
Lần này, theo thứ tự
rút quân từ Kontum, thì sau Đại Đội Trinh Sát 2 BĐQ, Pháo đội
22/PB/BĐQ sẽ rút tiếp theo, rồi đến Tiểu đoàn 88 ở xa nhất (núi
Ngok Bay), tới Tiểu đoàn 62, cuối cùng là Tiểu đoàn 95 BĐQ. Tuy
nhiên, khi Tiểu đoàn 95 BĐQ từ làng Trung Nghĩa rút ra đến quốc
lộ 14, thì không thấy có xe tới đón. Các đại đội tự động cho lính
di chuyển dọc theo con đường, súng chỉa ra hai bên, sẵn sàng
chiến đấu... và cứ thế mà lết vào đến phố Kontum.
Trong
khi đó, đoàn xe chở Bộ Chỉ Huy Liên đoàn, ĐĐ/TS, Pháo Đội 22/BĐQ,
cùng hai Tiểu đoàn 88 và 62 BĐQ, đã đến đèo Chu Pao. Trong trận
Kontum năm 1972, quân cộng sản đóng chốt dầy đặc, cắt quốc lộ 14
không cho tiếp tế, để chúng tấn công, dứt điểm thành phố Kontum.
BĐQ được lệnh đánh chốt không được lấy xác, chôn tại chỗ (trong
đó có Thiếu tá Hòa TĐT/TĐ 35, Liên đoàn 6/BĐQ tử thương vì trúng
đạn pháo kích. Sau đó gia đình ông mới lên Kontum tìm xác đem
về).
“Chu Pao ai oán, hờn trong gió!
Mỗi tấc khăn tang,
một tấc đường.”
Lúc đó, sau khi Thiếu tá Nguyễn Thanh Vân,
TĐT TĐ 95 BĐQ báo cáo cho Liên đoàn trưởng về tình trạng xe cộ,
Trung tá Bùi Văn Huấn báo cáo lên cho Tướng Phạm Duy Tất và được
trả lời là trước tình thế này, Liên đoàn 22/BĐQ phải tiếp tục di
chuyển (tức là đành phải bỏ rơi TĐ 95/BĐQ). Nhưng Trung tá Huấn
không chịu bỏ rơi thuộc cấp, ông đã trả lời Tướng Tất: “Tất cả
cùng đi hoặc cùng chết”.
Là đơn vị di tản sau cùng, LĐ 22
BĐQ đã gặp rất nhiều chuyện rủi ro. Rất ít trong số chúng tôi về
đến miền duyên hải. Định mệnh bắt những ai kém may mắn phải nằm
xuống, một cách tức tưởi, trong cánh rừng xa xăm hay trên vùng
cao nguyên đất đỏ nào đó.
(3)
Trở lại liên tỉnh lộ 7B, trời đã sáng, đoàn xe vẫn kẹt cứng,
không di chuyển được. Con đường được biết đã không sử dụng từ
nhiều năm qua, rất xấu, nhiều đoạn bị lở, bong nhựa đường chỉ còn
đá xanh, đoạn khác không còn gì trở nên con đường đất cát bụi
bậm. Tôi nhìn xung quanh quan sát (tại sao xe cộ kẹt dữ vậy?...),
phong cảnh rất đẹp, đồi núi trùng điệp... dân cư thưa thớt nên
bảo tồn được thiên nhiên.
Con đường rất hẹp, với một bên
là núi rừng, còn bên kia là vực sâu, hay thung lũng. Lái xe không
cẩn thận, rơi xuống vực là kể như xong! Dọc theo bìa rừng bên kia
đường, tôi nhận ra một đơn vị bạn. Quân phục rằn ri đã gần như
biến thành màu đỏ (bết bụi trường chinh).
Nhìn là biết
lính của Liên đoàn 23/BĐQ, đơn vị chủ lực, tổng trừ bị của Quân
đoàn II. Tên cũ là Liên đoàn 2/BĐQ, đơn vị này đã tham dự hầu hết
các trận đánh lớn trên vùng cao nguyên như Ben Het, Dakto,
Pleime, Dak Sang... Phía xa có hai quân nhân Biệt Động Quân và
một máy truyền tin PRC–25. Có lẽ là một trung đội trưởng và người
mang máy của anh. Đơn vị cấp đại đội này (có thể là cả tiểu đoàn)
đang rải quân ra giữ an ninh trật tự, bảo vệ một đoạn đường trên
liên tỉnh lộ 7B.
Bất ngờ có tiếng súng bắn chỉ thiên. Mọi
cặp mắt nhìn về hướng một người lính BĐQ, một tay cầm súng hướng
lên trời, tay kia chỉ vào một xe vận tải đang tìm cách len lỏi đi
ngược trở lại. “Bác tài. Ngừng xe lại, không tôi bắn bây giờ!”
Bác tài xuống xe, giải thích, phân bua gì đó, người lính BĐQ vẫn
phải làm theo lệnh cấp chỉ huy “Đại đội trưởng của tôi ra lệnh,
không cho bất cứ một chiếc xe nào quay trở về Pleiku!”
Tiếp theo có tiếng còi xe inh ỏi, tôi quay đầu lại nhìn, một
chiếc xe Jeep vừa bóp còi xe, vừa lách chạy lên (cũng có thể từ
phía dưới, binh sĩ BĐQ điều khiển trật tự xe cộ, để cho chiếc xe
Jeep này quyền ưu tiên chạy lên trước). Người ngồi trước bên cạnh
tài xế đeo hai bông mai đen (ngụy trang), người ngồi một mình
trên băng ghế sau (quay ngược lại như xe của VIP) nhận ra tôi,
cùng lúc tôi cũng nhận ra người bạn cùng khóa 6/72 là Thiếu úy Lê
Quyền, sĩ quan không trợ LĐ 23/BĐQ. Cả hai đưa tay lên vẫy chào
nhau, chiếc xe Jeep chạy nhanh vượt xa ra khỏi tầm mắt. (Anh
chàng này đô con nên cấp chỉ huy thích có người như anh ta tháp
tùng)
(4).
Trong tác phẩm “Sự Thật Cuộc Triệt Thoái Quân đoàn II” tác giả Đỗ
Sơn có cho biết Liên đoàn 6/BĐQ và một đơn vị hỗn hợp, rút ra
khỏi Kontum trước, về Pleiku để đi đầu đoàn quân triệt thoái, bảo
vệ một phần liên tỉnh lộ 7B từ Cheo Reo đến sông Ba cho Liên đoàn
20 Công Binh làm đường, sửa chữa cầu cống. Nhóm rút quân đầu tiên
này gồm có Liên đoàn 6/BĐQ, Thiết Đoàn 19 Kỵ Binh và Liên đoàn 20
Công Binh. Các đơn vị này rời Pleiku ngày 16 tháng 3 năm 1975.
Nhóm thứ hai rời Pleiku ngày 17/3/1975 gồm có Bộ tư lệnh hành
quân triệt thoái của Quân đoàn II (Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm chỉ
huy), Lữ đoàn 2 Kỵ Binh (Đại tá Đồng), Liên đoàn 23/BĐQ (tăng
phái cho Lữ Đoàn 2 KB), Liên đoàn 7/BĐQ (dưới quyền chỉ huy của
Đại tá Nguyễn Kim Tây vừa được bộ TTM đưa lên Quân đoàn II), 3
Tiểu đoàn Pháo Binh và 2 đại đội cơ giới. Liên đoàn 23/BĐQ bảo vệ
thị trấn Cheo Reo (tỉnh Phú Bổn), Liên đoàn 7/BĐQ bảo vệ đèo Tu
Na.
Cuối cùng, nhóm thứ ba gồm 3 Liên đoàn BĐQ (4, 22, và
25), Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh và một đơn vị Pháo Binh rời Pleiku ngày
18/3/1975 (do Chuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy). Cả 3 Liên đoàn
BĐQ trong nhóm này đều bị thiệt hại nặng nề lúc giao tranh với
địch trên đường rút theo đoàn quân di tản.
(5)
Buổi chiều ngày 17/3/1975, đoàn xe chở Liên đoàn 22/BĐQ di chuyển
vào đến liên tỉnh lộ 7B rồi nhập vào đuôi đoàn xe di tản rồi dừng
lại, lo chuyện ăn uống sau hơn một ngày phơi nắng. Cái đuôi của
đoàn xe di tản này tiếp tục kéo dài ra đến ngã ba nối với quốc lộ
14. Nơi đó, có hai tiểu đoàn còn lại của Liên đoàn 4/BĐQ, cùng
với thành phần còn lại của Liên đoàn 25/BĐQ (kẹt trong quận Thanh
An, Pleiku bị địch tấn công, bám sát không cho rút).
Người
lớn tản mát ra, đi tìm người thân quen, hỏi thăm nhau, bàn tán,
lo âu. Trên đường có một xe Jeep để mui trần chạy tới, một Thiếu
tá BĐQ đứng trên xe (không nhớ có phải Thiếu tá Khôi trưởng phòng
3 BCH/BĐQ/QKII hay không?) dùng loa phát thanh nói lớn ra lệnh
“Theo lệnh của Tư Lệnh Chiến Trường Kontum, Chuẩn tướng Tất, bắn
bỏ tại chỗ sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ vô kỷ luật không tuân
lệnh cấp chỉ huy!”, sau đó chiếc xe Jeep đi đến đơn vị khác dọc
theo con đường ban lệnh của vị tư lệnh chiến trường
(6).
Cũng buổi chiều đó, hai ông thầy giáo Hạnh, Vinh gặp lại nhóm nhà
giáo ở Pleiku di tản trên một xe hàng chở đồ, biến cải vừa chở
đồ, vừa chở người. Trông thật kinh khủng, vì cái gì cũng chồng
chất bỏ lên xe. Từ phía dưới đoàn xe, Thiếu úy Danh sĩ quan Ban
3/LĐ 22/BĐQ lững thững đi dọc theo lên phía trước tìm tôi. Gặp
lại “bạn hiền” của nhau, chúng tôi mừng quá. Cứ thế mà hai đứa
tôi, với cả hai ông thầy giáo tha hồ hỏi thăm, trao đổi tin tức.
Danh kể cho tôi nghe, trên đường đi phải dừng lại nhiều lần
để đợi đơn vị (rất nhiều xe dân sự đã chen vào các đoàn xe quân
sự). Nhờ vậy, Thiếu úy Sĩ, sĩ quan tiếp liệu của một TĐ/ĐPQ thuê
nhà cạnh mấy thầy giáo, di tản bằng xe Honda, đã gặp Danh. Anh ta
mừng quá, ghé lại xin cho ít xăng. Thiếu tá Phước (trưởng ban 3
LĐ 22/BĐQ) cũng dễ dãi nói tài xế cho anh ta đầy bình xăng (bình
xe Honda 50cc thời đó chỉ chứa khoảng 2, 3 lít xăng).
Sau
cuộc hàn huyên Danh nói cứ lo cho hai ông thầy giáo còn bạn (bắt
buộc không còn chọn lựa) phải đi theo Ban 3 Liên đoàn. Khi biết
đã hơn một ngày ba đứa tôi (Hiếu, Hạnh, Vinh) phải ăn cơm ké dân
chạy giặc, tối hôm đó, Danh lần mò trong bóng tối tìm tôi, đưa
cho mấy lon đồ hộp.
Đêm 17/3/1975, có chạm súng xung quanh
thị trấn Cheo Reo. Các đơn vị CS Bắc Việt thuộc Trung đoàn 48/SĐ
320 di chuyển vào vị trí tấn công, đụng phải các chốt của Liên
đoàn 23/BĐQ đang rải quân ra xung quanh Cheo Reo. Về hướng đông,
từ đèo Tu Na, Tiểu đoàn 9, thuộc Trung Đoàn 64/SĐ 320 CSBV, được
lệnh di chuyển gấp rút về hướng liên tỉnh lộ 7B, đóng chốt không
cho đoàn xe di tản đi qua.
Ở cuối đoàn xe, đường xá bị kẹt
cứng. Nhiều người dân chạy giặc lo sợ, nên đã bỏ xe, bồng bế con
nhỏ, dắt dìu nhau đi bộ dọc theo con đường thành từng hàng dài,
các bà mẹ lo nắm tay trẻ con sợ bị lạc. Cứ thế, đoàn người di tản
đi bộ suốt đêm.
Lúc nào mệt, họ ngồi lại bên đường, nghỉ
lấy sức, rồi lại tiếp tục di chuyển. Đàn ông, đàn bà đều thấm
mệt, nhưng vẫn nhìn thẳng về phía trước, rảo bước. Tội nghiệp
những đứa trẻ cố gắng bước nhanh theo chân mẹ, có lẽ chúng không
còn sức để nói “Mẹ ơi! Đi chậm lại...”
Sáng hôm sau, khi
linh cảm sự nguy hiểm đang gần kề, tôi nói hai ông giáo Vinh,
Hạnh nên đi trước, theo xe (dân sự) của mấy người bạn đồng
nghiệp. Hạnh còn ngần ngừ, tôi khuyên cứ đi trước, tôi sẽ lo liệu
(cho bản thân mình) sau. Nhờ vậy, họ đi thoát. Khi về đến Tuy
Hòa, hai bạn tìm được người bạn học năm xưa (P. Đ. Cường) đang
làm việc cho ngân hàng Việt Nam Thương Tín trong thị xã, nhờ giúp
đỡ (mượn tiền mua vé máy bay về Sài Gòn). Cường rất hiền lành, ăn
ở rộng rãi với bạn bè.
Khung cảnh quanh khu vực thị trấn
Cheo Reo buổi sáng hôm đó, phải nói là kinh hoàng! Đoàn người đi
bộ vào đến khu vực, lem luốc vì mồ hôi, bụi đường. Nhiều người đi
chân đất. Họ trải chiếu ngồi tụm lại từng gia đình nghỉ mệt, hoặc
cứ ngồi, nằm trong một góc khuất nào đó để tránh bị xe cán.
Ký giả Nguyễn Tú báo Chính Luận, cho biết “chuyện buồn nhất
là hàng ngàn người phải đi bộ... Suốt đêm, hàng dài người kéo
nhau, lê lết đi bộ đến Cheo Reo. Khi ánh mặt trời lên, sức nóng
làm cho họ thấm mệt nhanh chóng... đàn bà, người già và trẻ em
không còn một giọt nước để uống.” Ông ký giả sợ rằng nhiều người
sẽ chết vì khát. Ký giả Nguyễn Tú đã chứng kiến nhiều cuộc di
tản, kể cả cuộc di tản khỏi Quảng Trị trên quốc lộ 1 (“đại lộ
kinh hoàng” năm 1972), nhưng lần di tản trên Quân đoàn II lần này
“kinh hoàng” hơn nhiều.
(7)
Sau khi
một ít xe dân sự qua khỏi đèo Tu Na, phần còn lại của Trung đoàn
64 CSBV vào đến chiến trường, phối hợp với Trung đoàn 48 BV tấn
công các vị trí của Liên đoàn 23/BĐQ và Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh. Bộ
Tổng Tham Mưu QLVNCH bắt được công điện của Sư Đoàn 320 CS chuẩn
bị tấn công tiêu diệt đoàn quân di tản ở Cheo Reo, nên vội vã báo
tin ngay cho Tướng Phú.
Ông tướng lập tức bay lên Cheo
Reo, ra lệnh cho Đại tá Đồng, sử dụng Liên đoàn 7/BĐQ phối hợp
với thiết giáp, tấn công lên đèo Tu Na. Biệt Động Quân đi trước
mở đường cho chiến xa và đoàn xe GMC theo sau, tiến lên đèo. Liên
đoàn 7/BĐQ đánh xuyên qua phòng tuyến, phá các chốt của Tiểu đoàn
9/Trung đoàn 64 Bắc Việt dễ dàng để cho đoàn xe tạm thời lưu
thông được, để băng qua đèo Tu Na đến Cung Sơn.
Rồi chuyện
xui xẻo cũng đến với Liên đoàn 7/BĐQ! Mấy phi tuần A–37 bay yểm
trợ, thả bom lầm vào phòng tuyến BĐQ, gây tổn thất nhiều cho lính
Mũ Nâu. Trong đó có một vị Tiểu đoàn trưởng (Thiếu tá Võ Mộng
Thủy TĐT 32/LĐ 7 BĐQ, cựu TĐT/TĐ30 BĐQ (thuộc LĐ 32, tên cũ là LĐ
5 BĐQ)). Thiếu tá Thủy tướng tá ngon lành cao lớn, đẹp trai, lúc
chết vẫn còn anh hùng. Ông đã nhờ người dân chạy giặc, nói lại
với các binh sĩ BĐQ là đừng đi tìm ông... (lúc đó, có rất nhiều
dân chạy giặc trong khu vực giao tranh). Trong trận này, Đại úy
Hiệp, Tiểu đoàn Phó TĐ 58/BĐQ (số cũ là TĐ 41) của Liên đoàn
7/BĐQ cũng bị thương.
Sau khi đánh xuyên qua các chốt địch
trên đèo Tu Na, Liên đoàn 7/BĐQ đã mở đường và bảo vệ cho một số
xe thiết giáp, GMC, xe dân sự đi thoát về Cung Sơn. Trung đoàn 64
Bắc Việt được lệnh tấn công lên đèo, nhưng BĐQ giữ vững phòng
tuyến, nên trung đoàn này đóng quân dọc theo liên tỉnh lộ 7B,
khóa chặt không cho phần còn lại di tản tiếp tục (thoát khỏi Cheo
Reo).
Trong khi đó, pháo binh Bắc Việt đã sẵn sàng, bắt
đầu pháo kích vào thị trấn Cheo Reo, một thị trấn rất nhỏ, kẹt
cứng với hàng trăm xe đủ loại, và hàng ngàn thường dân. Hỗn loạn
cùng với sự kinh hoàng xảy ra. Nhiều xe bị trúng đạn hư hại, bốc
cháy. Thường dân lại phải dắt nhau, bồng bế trẻ em, bỏ chạy khắp
nơi tránh đạn pháo kích.
Theo ký giả Nguyễn Tú “Tiếng đạn
đại bác xé gió bay vào thành phố, tiếng đạn nổ, tiếng súng tiểu
liên AK, M–16 (phòng tuyến Liên đoàn 23/BĐQ thu nhỏ lại, sát vòng
đai thị trấn), tiếng la hét, tiếng than khóc người bị thương,
tiếng trẻ em vừa khóc vừa gọi cha mẹ nghe như tiếng gào từ dưới
điạ ngục.”
Liên đoàn 23/BĐQ cầm cự đến 5 giờ chiều, rồi
rút vào bên trong thị trấn Cheo Reo, chỉ còn lại những túi kháng
cự nhỏ. Đến gần 12 giờ đêm, Trung đoàn 48/SĐ 320 CSBV hoàn toàn
thanh toán những ổ kháng cự cuối cùng của BĐQ. Trước đó, Trung
đoàn 9/SĐ 320 tấn công phía cuối đoàn xe trên liên tỉnh lộ 7B.
Ba Liên đoàn BĐQ đi sau, đã bị tổn thất trước đó, đang trải
dài trên con đường, là mục tiêu rất tốt cho các loại súng của
địch như B–40, AK–47, đại bác không giật, hỏa tiễn tầm nhiệt
chống chiến xa AT–3 Strella. Trong khi pháo binh BĐQ đã xếp càng
để kéo đi theo, không thể bắn yểm trợ quân bạn, thì pháo binh Bắc
Việt cùng với các ổ súng cối 61, 82ly tha hồ làm tình làm tội và
gây tổn thất đáng kể cho BĐQ.
Các Tiểu đoàn thuộc Liên
đoàn 22/BĐQ nằm chịu trận trên đường, không liên lạc được với
nhau, cả hàng dọc lẫn hàng ngang. Thiếu úy Đỗ Tường Chin (K6/72)
sĩ quan truyền tin Tiểu đoàn, kiêm ĐĐP Công Vụ kể lại “Tao bị
thương, trốn được hai ngày trong rừng mới bị bắt. Tội nghiệp vợ
chồng Đại úy Ngọ Tiểu đoàn phó, cả hai ông bà bị trúng miểng đạn
pháo kích chết. Vợ ông Ngọ bất ngờ từ Sài Gòn ra thăm chồng, rồi
phải đi theo đoàn quân di tản!”
Thiếu úy “Toàn Mát” một
thời là ĐĐP của tôi, thoát được với hơn 10 người lính. Một tay
“gangster” của Tiểu đoàn là Thiếu úy Sú A Sam, người dân tộc
thiểu số, gốc Thiếu Sinh Quân, bị bắt rồi bị lính Bắc Việt bắt
cởi đôi giầy để khỏi trốn (đó là một nhược điểm quan trọng). Sam
kể cho tôi nghe “lúc phi cơ lên oanh kích, tụi nó lính quýnh...
tao dọt luôn!”. Khi về đến Dục Mỹ đôi bàn chân của chàng sưng rất
to, chỉ mang đôi bí tất, đi cà nhắc. Một tay súng khác là Thiếu
úy Sang (K9/72), chỉ vào cái địa bàn buộc trên sợi dây đeo cổ
“Bản đồ hành quân không có... (vì trên đường di tản), tao chỉ còn
cái này dắt hơn một chục người lính (đủ các Liên đoàn), băng rừng
vượt suối về đến Nha Trang.”
Đại Đội Trinh Sát 22/BĐQ
chiến đấu rất anh dũng. Họ chấp nhận hy sinh để bảo vệ Bộ Chỉ Huy
của Liên đoàn. Các sĩ quan tham mưu chạy lạc khắp nơi, kể cả bác
sĩ, y sĩ trưởng. Trong số đó, có bạn Danh di tản cùng với Thiếu
tá Phước, trưởng Ban 3. Tháng Ba trên vùng cao nguyên, nắng cháy
da người. Khát nước khô cổ họng, đôi môi nứt nẻ. Đó là điều ký
giả Nguyễn Tú lo sợ, dưới sức nóng của ánh mặt trời, không còn
một giọt nước, nhiều người kiệt sức, đặc biệt trẻ em có thể chết.
Danh kể lại “Ông Phước đi hết nổi, đã phải uống nước tiểu cho
đỡ cơn khát. Khi đến một khoảng đất trống đủ rộng để trực thăng
đáp xuống, hai người ngồi nghỉ mệt, bất chợt nghe tiếng trực
thăng bay ngang đầu, Ông Phước cầm tấm panô (một mặt mầu xanh,
một mầu cam để cho phi cơ nhận diện) chạy ra giữa khoảng đất
trống (lúc đó con người không còn sợ chết nữa). Rồi ba thằng lính
Bắc Việt cầm AK từ trong bìa rừng phía bên kia bước ra khỏi hàng
cây... Tao quay trở lại dọt lẹ!”.
Đến chiều ngày
19/3/1975, có thể nói trận chiến trên liên tỉnh lộ 7B chấm dứt.
Sau khi Trung đoàn 64/SĐ 320 CSBV thanh toán các ổ kháng cự cuối
cùng của BĐQ tại Cheo Reo, Không Quân chiến thuật của Quân đoàn
II được lệnh bắn phá, tiêu hủy tất cả các chiến cụ hạng nặng mà
quân đội VNCH bỏ lại trên liên tỉnh lộ 7 đầy “máu và nước mắt”.
Bên trong thị trấn Cheo Reo, khu vực xung quanh thung lũng
đầy xác người, thường dân nhiều vô số kể. Xác đàn bà, trẻ em
thường nằm cạnh nhau trông rất thương tâm. Trên Kontum, bên cạnh
nhà hai ông thầy giáo bạn tôi, có ba ông dạy trường Nông Lâm Súc
Kontum, nên tôi cũng quen biết vài người, trong đó có Toàn,
Hoàng, và Tiền. Lúc bắt đầu di tản, tôi có hỏi ông bạn Hạnh “Còn
mấy ông Nông Lâm Súc tính sao?” Hạnh trả lời, mấy ông Nông Lâm
Súc quen với một tay làm việc cho tòa lãnh sự (tôi quên mất tên),
sẽ cho ba ông thầy Nông Lâm Súc đi theo.
Cuối cùng, họ lại
bị bỏ rơi, phải chạy theo đoàn người di tản bằng đường bộ và định
mệnh đuổi kịp họ trong thung lũng Cheo Reo. Tôi gặp ông tên Tiền
ở Nha Trang, anh vừa khóc vừa kể lại câu chuyện “Thằng Toàn trúng
đạn chết tại chỗ, Hoàng bị thương, tôi cũng bị thương nhẹ nơi
chân vẫn còn đi được. Tôi cố dìu Hoàng lết đi theo đoàn người,
rồi Hoàng kiệt sức, không có thuốc men, băng bông và cũng không
có nước uống. Nó nói tôi bỏ nó lại, nó chỉ muốn nằm ngả lưng, đi
hết nổi rồi...”
Trong lúc nhiều đơn vị bị tản mác, các đơn
vị của BĐQ không phân biệt Liên đoàn; gom lại thành từng nhóm
nhỏ, cố gắng vượt qua đèo Tu Na bằng cách đi vòng. Tôi gặp Thiếu
úy Sĩ, sĩ quan tiếp liệu ĐPQ, lúc đó cũng đã vất bỏ chiếc Honda
để chạy bộ. Hai chúng tôi đến một xóm làng nhỏ phía bên kia chân
đèo. Cả hai thấm mệt, tôi cởi áo giáp gấp đôi lại làm gối, ngả
lưng trên nền đất. Ông bạn Sĩ cũng nằm xuống tâm sự... “BĐQ đi
rồi, cả thành phố Kontum vắng tanh... tôi liên lạc với TĐT (ĐPQ)
báo cáo, ông ta nói tôi... Nếu có chuyện gì, cứ chạy vào (nơi
đóng quân của TĐ/ĐPQ) với ông ta...”.
(Theo tài liệu của
địch, Sư Đoàn 968 Bắc Việt –một sư đoàn nhẹ chỉ gồm có hai trung
đoàn– cho quân tiến vào tiếp thu hai thành phố Pleiku và Kontum.
Họ ra lệnh cho một đơn vị tiền phương tiến nhanh lên cắt quốc lộ
14 đoạn nối Pleiku – Kontum, bắt được viên Tỉnh trưởng cùng mấy
sĩ quan tham mưu của ông ấy trên đường đi về Pleiku. Hôm đó là
sáng ngày 17/3/1975).
Sáng hôm sau, Sĩ đi mất tiêu từ lúc
nào không biết. Còn một mình, tôi đi dọc theo bìa rừng, tránh
ngôi làng và cứ tiếp tục đi vòng chân núi, hy vọng gặp lại đoàn
xe chạy trước sau khi Liên đoàn 7/BĐQ đã đánh xuyên qua các chốt
chặn của Trung đoàn 64 Bắc Việt cho một số quân xa và xe dân
chính đi thoát qua bên kia đèo Tu Na đến Cung Sơn. Tôi đi đến xế
trưa thì thấy cánh rừng đã thưa ra, không nhiều cây cối như trên
lưng đèo. Có một con đường đất đỏ, hẹp đủ rộng cho một chiếc xe
đi qua (có lẽ dân khai thác gỗ làm cho xe “Be” chạy).
Cảm
thấy an toàn và hy vọng Liên đoàn 7/BĐQ vẫn còn trấn đóng trên
đỉnh đèo Tu Na, tôi đi bộ dọc theo con đường đất được một quãng
thì trông thấy một bà già và một cô cháu gái nhỏ chừng 12, 13
tuổi đang dừng chân nơi một con lạch nước (suối) nhỏ, chỉ rộng
khoảng 1, 2 thước rất cạn, nhìn thấy đáy.
Hai bà cháu đã
uống nước, lấy một túi (bọc nylon) lấy thêm nước cột lại để đem
theo. Thật mừng rỡ, tôi cũng đi lại cúi xuống, lấy hai tay tạt
nước vào mặt, lên đầu ướt hết áo. Đã cơn khát, tôi ngước lên nhìn
hai bà cháu cũng đang ngừng tay nhìn người lạ (tôi). Nhìn xuống
dưới chân họ, cả hai bó hai bàn chân bằng những tấm vải cột lại
(trong lúc chạy cho mạng sống, giầy dép vứt bỏ cho nhanh). Thật
buồn, thấy mình cũng chẳng giúp gì được hai bà cháu, cũng không
biết mở miệng chào hỏi đôi câu, nên tôi lặng lẽ bỏ đi.
Tôi
vừa đi và chạy, trên người tôi chỉ mỗi bộ quần áo, một khẩu súng
M–16 và một băng đạn, đủ bảo vệ sinh mạng của mình, chẳng giúp
được ai. Nhớ lại ánh mắt hai bà cháu nhìn tôi mà cảm thấy xấu hổ
và mang mặc cảm tội lỗi, vì không làm tròn bổn phận của một quân
nhân. Được một quãng, tôi thấy có cặp vợ chồng trẻ, người đàn ông
mặc quần áo lính màu xanh (treillis). Có lẽ anh là lính Địa
Phương Quân của tiểu khu Phú Bổn, cũng có thể là của Phú Yên vì
Cung Sơn đã thuộc về Phú Yên.
Vì đi một mình, tôi băng qua
mặt hai vợ chồng trẻ nhanh chóng. Chợt nghe tiếng xe, tôi quay
đầu lại trông thấy một xe Jeep Công Binh cũng đang chạy trên con
đường đất nhỏ, tôi đưa tay vẫy cho xe ngừng lại. Ở phía dưới, hai
vợ chồng trẻ ôm con chạy lên xin quá giang. Trên xe đã chật, mấy
ông sĩ quan Công Binh chỉ cho mình tôi lên xe, còn hai vợ chồng
chỉ cho lên xe được một người.
Lúc đó tôi nhìn kỹ, họ bế
theo một đứa con sơ sinh quấn trong mấy tấm vải, tã lót. Người
chồng mừng rỡ xin cho vợ con đi theo còn mình đi bộ... Nhớ đến
đây, tôi cảm thấy xấu hổ, sao mình hèn quá, chỉ biết lo cho bản
thân... Tại sao không nhường chỗ cho người chồng, để cặp vợ chồng
trẻ đi chung với nhau?
Xe Jeep chạy đến khoảng 4 giờ
chiều, thì gặp lại đoàn xe di tản đã thoát qua khỏi thung lũng tử
thần Cheo Reo và đèo Tu Na. Tài xế ngừng lại, tôi leo xuống rồi
bắt đầu đi bộ dọc theo đoàn xe, tìm người quen trong số mấy chiếc
xe GMC chở hậu cứ Liên đoàn 22/BĐQ đi trước.
Một anh trung
sĩ phục vụ trong Liên đoàn, có lẽ là nhân viên Ban 1 nhận ra tôi.
Anh hỏi thăm rồi dẫn tôi đến chiếc xe GMC chở mấy quân nhân trong
ban Truyền Tin, và các Ban khác trong đơn vị. Chỉ mới hơn một
ngày, có lẽ thấy tôi đã “xuống sắc”, anh trung sĩ Ban 1 đem lại
cho tôi một tấm chăn đắp để muỗi không “làm thịt”. Đúng là ở
hiền, gặp lành nên được nhiều người trong Liên đoàn nhận ra tôi
dù chưa tiếp xúc với nhau lần nào.
Trong đoàn xe này rất
nhiều xe dân sự được trưng dụng. Tôi nhận thấy có một toán Lôi
Hổ. Họ từ chiến trường Ban Mê Thuột về đến Pleiku thì được biết
đơn vị mình và cả Quân đoàn II di tản, nên lấy xe chữa lửa trong
phi trường đi luôn theo đại quân. Phía trước vẫn còn kẹt đoàn xe
lại dậm chân tại chỗ. Không thấy xe hàng dân sự chở mấy ông thầy
giáo, tôi mừng thầm và cầu cho họ được đi thoát.
Bộ tư
lệnh chiến dịch (Tây Nguyên) Bắc Việt điều động ba Tiểu đoàn địa
phương cấp tỉnh (như ĐPQ của QLVNCH) từ khu vực hoạt động ở hướng
bắc, di chuyển xuống đóng chốt trên liên tỉnh lộ 7B, không cho
đoàn xe chạy thoát về Tuy Hòa. Một đơn vị du kích xâm nhập quận
Phú Túc, chiếm đóng bộ chỉ huy Chi Khu đêm 18/3/1975. Đêm đó, một
đơn vị thuộc Liên đoàn 7/BĐQ cũng rút về đó. Sáng hôm sau
(19/3/1975) họ đánh đuổi đám du kích này chạy trở vào rừng.
Cùng lúc đó, Tiểu khu Phú Yên được lệnh đánh giải tỏa mấy
chốt VC, nhưng không xong, nên đoàn xe phải nằm chờ... Một đoàn
người thiếu kiên nhẫn, nóng lòng đẩy mấy chiếc Honda lên phía
trước đoàn xe. Họ chở vợ con, vali đựng quần áo, chạy về hướng
Tuy Hòa. Không đầy nửa tiếng đồng hồ sau, có tiếng súng nổ. Chỉ
một phụ nữ chạy trở lại, vừa chạy vừa la hét thất thần “Tụi nó
(du kích VC) bắt chồng tôi rồi... Họ bắt chồng tôi tôi rồi...”
Tôi la lớn “Nắm bà đó lại!”. Hai người lính BĐQ nắm hai tay
giữ người đàn bà. Trước ngực bà đeo một túi vải đựng đứa con nhỏ
(cột vào người cho dễ chạy, hai tay được tự do). Đứa bé bị
thương, máu thấm ra ướt tấm vải cột nó dính vào người mẹ. Một
người đàn ông mặc quần áo dân sự lại tiếp tay, cởi túi vải lấy
đứa bé ra. Nhưng đã quá trễ để cứu đứa bé. Người mẹ được dìu ngồi
xuống đất, khóc lu bu, vẫn chưa biết con mình đã chết. Hai chân
bà ta, cũng như nhiều người đi bộ khác, được bó nhiều lớp vải
(như hai bà cháu tôi đã gặp) để dễ dàng di chuyển.
Đoàn xe
lại phải chờ thêm một ngày nữa. Cuối cùng BĐQ phải gánh trách
nhiệm đánh mấy chốt của quân du kích Phú Yên. Như đã nói trong
phần đầu, Liên đoàn 6/BĐQ đi đầu đoàn quân di tản và bảo vệ Liên
đoàn 20 Công Binh sửa chữa đường xá, cầu cống, nên ít bị thiệt
hại.
Chuẩn tướng Phạm Duy Tất ra lệnh cho Liên đoàn 6/BĐQ
(lúc đó Trung tá Trương Khánh làm Liên đoàn trưởng, thay cho Đại
tá Cao Văn Ủy lên làm phụ tá cho Tướng Tất) đưa TĐ 34/BĐQ do
Thiếu tá Trịnh Trân làm Tiểu đoàn trưởng, cùng với Thiết Vận Xa
M113 quay trở lại liên tỉnh lộ 7B để “nhổ” chốt địch.
Sáng
20/3/1975, một chiếc xe Honda (phải dùng Honda mới luồn lách đi
dưới ruộng) chở một người bị thương vào đùi, máu chảy không cầm
được vì không có thuốc men, băng bông, chạy dọc theo đoàn xe tìm
bác sĩ hay y tá. Nhưng người bị thương đã kiệt sức, gục đầu vào
lưng người lái xe Honda. Anh được chôn cất ngay bên vệ đường,
trên ngôi mộ có hai miếng gỗ làm dấu thánh giá ghi tên họ người
vắn số, hy vọng sau này thân nhân của anh tìm thấy được.
Đến buổi trưa, có một đoàn người đi bộ, bồng bế dìu nhau đi tới.
Có lẽ Trung đoàn 64 CSBV tấn công dữ dội vào tuyến phòng thủ của
LĐ 7/BĐQ đang bảo vệ đoạn hậu cho đoàn xe di tản, nên dân lành
phải chạy lên phía đầu đoàn xe. Họ đi ngang qua đoàn xe nào,
người đi trong đoàn xe đó tự động lên xe để khỏi mất chỗ và xe
phải chuẩn bị di chuyển.
Trong đám ruộng, ngang chỗ xe GMC
của Liên đoàn chúng tôi đang đậu, có hai người lính Địa Phương
Quân ở lại. Một trong hai người đã bị thương, nằm khóc khi biết
bạn mình sắp bỏ đi. Đoàn người tỵ nạn tiếp tục đi ngang qua,
người lính ĐPQ vẫn chưa nỡ bỏ bạn mình và vẫn ngồi bên cạnh. Còn
anh kia vẫn nằm đó than khóc. Lúc đó, trên một chiếc xe, có một
sĩ quan trợ y BĐQ (tôi không biết thuộc đơn vị nào) lấy trong ba
lô một mũi morphine chích cho người lính ĐPQ kém may mắn ấy.
Trong khi đó, TĐ 34/BĐQ (Liên đoàn 6) vẫn còn đang đánh mấy
chốt của địch. Đám du kích VC chịu không nổi bỏ chốt chạy về
hướng đoàn xe. Chúng bắn lung tung, làm cho mọi người trên xe
nhảy xuống ruộng (đã khô vì mùa hè, thấp hơn mặt đường) tránh
đạn. Đằng trước xe GMC của Liên đoàn là một xe Pháo Binh Phòng
Không, trên xe có ổ súng đại bác phòng không 40ly bốn nòng, bất
ngờ bỏ chạy.
Theo phản ứng tự nhiên, tôi nhảy lên bửng xe
GMC, một tay nắm kính chiếu hậu, tay kia thủ khẩu M–16, vừa chỉ
tay vào chiếc xe Pháo Binh, hét vào tai bác tài “Chạy theo xe
kia!” (tôi tin hỏa lực của bốn khẩu đại bác 40ly, có thể che chở
cho xe mình). Bác tài nghe lời tôi cho xe chạy ngay. Giữa hai
chiếc xe (Pháo Binh và xe BĐQ) là hàng trăm người đàn ông, quân
lẫn dân chạy bộ theo xe.
Du kích VC lại bắn ra, đoàn người
đang chạy bộ vội nhảy xuống ruộng. Trên liên tỉnh lộ 7B chỉ còn
xe cộ tiếp tục chạy. Tôi vẫn chưa thấy một tên du kích nào xung
phong vào đoàn xe, nên nhắm vào những bụi cây bóp cò súng. Khẩu
M–16 hết đạn nhanh chóng (tôi chỉ có một khẩu súng và một băng
đạn).
Thật ra, tôi cũng không thể ráp đạn được, một tay
vẫn phải nắm chắc kính chiếu hậu xe GMC để khỏi rơi xuống xe. Tôi
đưa khẩu súng lên lên trên, nói lớn “đưa khẩu súng khác”. Trên xe
có Trung sĩ Sơn chuyền xuống cho tôi khẩu AK–47 và tôi cũng bắn
hết đạn cả hai khẩu. (xem hình. Trung sĩ Sơn là người đeo khẩu
AK–47, tôi đội mũ lưỡi chai, trên đùi là áo giáp vừa đỡ đạn vừa
làm gối ngủ)
Trên đường, những người chạy bộ đi
trước, bị BĐQ chận lại vì có chốt đánh chưa xong. Họ tấp vào một
hiên nhà tránh nắng, rồi có tiếng lựu đạn nổ. Người chết và bị
thương nằm lại, ai may mắn không bị gì chạy tản mác ra (đám VC
chịu không nổi BĐQ tấn công, truớc khi bỏ chốt, chúng gài lựu
đạn, kết quả như thời xa xưa... chết dân lành vô tội). Tôi thấy
bên phải con đường, một trung đội BĐQ đang dàn hàng ngang, chuẩn
bị xung phong băng qua liên tỉnh lộ 7B.
Một người lính y
tá đang cúi đầu chạy dưới ruộng lôi một BĐQ bị trúng đạn đang nằm
bên lề đường, xuống dưới ruộng để tránh đạn. Qua khỏi chỗ đó đến
một khúc đường khác, một trung đội BĐQ khác đã băng qua đường,
vào tránh đạn trong một căn nhà. Gần đó một BĐQ khác trúng đạn
đang nằm dẫy dụa. Một BĐQ đứng trước cửa căn nhà, đưa hai tay xua
qua lại làm dấu cho trên xe chúng tôi đừng bắn (trúng quân bạn).
Anh ta la lớn chúc mừng “Từ đây ra đến quốc lộ 1 (Tuy Hòa) không
còn chốt nào nữa... Hẹn gặp các bạn ở Sài Gòn!”
Đoàn xe đi
qua gần đến quốc lộ 1, người dân Tuy Hòa ra vẫy tay chào đón. Có
một bà cụ thắp hương khấn vái như tạ ơn trên đã cứu đoàn xe (còn
sót lại). “Đoạn đường chiến binh từ Kontum về đến Tuy Hòa” của
một quân nhân Liên đoàn 22/BĐQ đến đây có thể nói là kết thúc.
Chiều hôm đó, tôi vào đến Tuy Hòa, tìm gặp ông bạn P. Đ.
Cường. Anh này được mọi nhân viên làm việc trong ngân hàng Việt
Nam Thương Tín, chi nhánh Tuy Hòa thương mến, cho tôi ở lại đi
với họ về Sài Gòn bằng Air Việt Nam (họ bao nguyên chuyến bay).
Tôi cảm ơn nhưng từ chối. Tôi vẫn còn đơn vị, còn bạn bè, vẫn
còn chiến hữu... sống chết với tôi.
Fort Hay State University
Department
of Computer Science
Dallas, Texas April 22, 2021
vđh
GHI CHÚ:
(1) Thiếu úy Lê Quyền, Tiểu đoàn 11, Liên
đoàn 23/BĐQ (Liên đoàn 2 BĐQ cũ), Khóa 6/72 Thủ Đức, sau khi đi
học Không Trợ về làm sĩ quan Ban 3 cho Liên đoàn. Gặp nhau trên
liên tỉnh lộ 7B, tôi đi theo cánh quân Liên đoàn 22/BĐQ (đi sát
vào nhau vì sợ lạc, lúc đó xe cộ, thường dân đã xen kẽ vào với
đoàn xe quân đội, gây trở ngại lớn cho các đơn vị BĐQ trong vấn
đề liên lạc, điều quân vào vị trí chiến đấu), Quyền ngồi băng sau
xe Jeep của Trung tá Lê tất Biên LĐT 23/BĐQ đi ngang qua. Chúng
tôi nhận ra nhau, nhưng cả chỉ biết đưa tay vẫy...
(2) Hai Trung
sĩ trẻ là Bi (Nguyễn Bá Bi) và Khánh. Cả hai ở Sài Gòn, nhà Bi
trong xứ An Lạc trên đường Lê Văn Duyệt (quân vụ Thị Trấn SG).
Tôi có bạn trong xứ đạo này, SVSQ Hoàng Thanh Hiệp, lúc đi chiến
dịch tháng Giêng năm 1973, bị thương giải ngũ (trong truyện ngắn
Anh Đi Chiến Dịch. vđh). Năm 1972 (Mùa Hè Đỏ Lửa) là năm khởi đầu
cho những chuyện buồn, tiếc thương.
Khi nhận trung đội,
tôi rất ngạc nhiên khi có hai viên trung sĩ rất trẻ, chỉ đáng
tuổi em trai tôi. Trong khi các bạn cùng khóa 6/72 với tôi, đa số
sinh năm 1952 đang học năm thứ nhất các phân khoa đại học Sài
Gòn, thì Bi và Khánh kém ba tuổi (sinh năm 1955) đang học lớp 10.
Họ vừa đúng 17 tuổi (nhưng đã trễ 1 năm học), bị động viên học
lớp Hạ Sĩ Quan (chưa có bằng Tú Tài).
Sau đó trung đội có
nhận ba trung sĩ nữa là Trung sĩ Nê (có đề cập đến trong bài viết
ở trên), Trung sĩ Cơ, ông này thăng tiến từ hàng binh sĩ, và
Trung sĩ Gabriel Pip (Tây lai, có nói đến trong bài viết Nơi Biên
Cương. vđh) Sau trận Kon Sơ Lu, giữa tháng ba năm 1974, cả hai Bi
và Khánh... mất tích!
(3) Theo lời Thiếu tá Nguyễn Thanh Vân kể lại
trong dịp về Dallas dự đại hội BĐQ/Dallas năm 2000, và
BĐQ/Houston năm 2001. “Tôi phải cám ơn Trung Tá Huấn”.
(4) Khoảng
năm 2015, tôi có dịp về VN, cùng đi với mấy người bạn đồng khóa
6/72 lái xe thăm miền trung, nhân dịp đó đã ghé thăm người bạn
đồng môn, cùng binh chủng là BĐQ Lê Quyền. Quyền làm ruộng trong
một làng nhỏ từ Nha Trang đi lên Tuy Hòa. Nhìn ông bạn già hom
hem, không còn là một sĩ quan trẻ đô con, tôi hơi bị sốc. Không
dè người bạn năm xưa “xuống” dữ vậy!
Tôi thuộc loại đàn
ông “ế kinh niên!” một năm cô đơn đủ bốn mùa, có con rất trễ. Hôm
đó, ôm đứa con 6 tuổi, tôi nói với cháu mà như thì thầm với chính
mình “Con thương bác Quyền không con? Bố buồn quá! Hồi xưa bác
Quyền to con, tướng tá ngon lành...”
Quyền nói cho tôi
biết, sáng hôm gặp nhau trên liên tỉnh lộ 7B, người ngồi trước là
Trung tá Lê Tất Biên, LĐT LĐ/23/BĐQ. Hôm sau nữa Liên đoàn 23/BĐQ
chiến đấu rất anh dũng, bị thiệt hại nặng. Bộ Chỉ Huy Liên đoàn
và Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 2 Kỵ Binh bị địch tràn ngập. Quyền kể tiếp
“Tao bị bắt cùng với Liên đoàn trưởng và Đại tá Đồng của Lữ Đoàn
2 Kỵ Binh. Trung tá Liên đoàn phó đi theo cánh Bravo (cánh B, bộ
chỉ huy nhẹ) tử trận.”
(5) “Sự Thật Cuộc Triệt Thoái Cao
Nguyên”, Đỗ Sơn, trang 69.
(6) Trưởng phòng 3 BĐQ/QKII cùng các sĩ
quan trực thuộc đi theo đoàn quân di tản trên bộ để phối hợp các
đơn vị, bị địch tấn công (cả đoàn xe kẹt cứng nằm phơi lưng trên
liên tỉnh lộ 7B. Bị địch tấn công ai, người đó hứng chịu. Rất khó
di chuyển, hay điều quân. Pháo binh không còn yểm trợ (vì tất cả
đều xếp càng để di chuyển).
Theo quyển Mùa Hè 1975, tác
giả Jay Veith (vđh dịch thuật), đơn vị địch tấn công khúc cuối
đoàn xe di tản là Trung Đoàn 9/SĐ 320 Bắc Việt. Đơn vị này đóng
quân gần biên giới hai tỉnh Darlac, Pleiku, được lệnh di chuyển
lên hướng bắc, tấn công đoạn cuối đoàn xe, tại nơi quốc lộ 14 rẽ
vào liên tỉnh lộ 7B.
Khi về đến Nha Trang, Phòng 3 Bộ Chỉ
Huy BĐQ/QKII không còn sĩ quan. Tôi và Danh được lệnh của Trung
tá Bùi Văn Huấn đến trình diện Thiếu tá Hoè (ông này làm trưởng
Phòng 2, lúc đó phải kiêm luôn Phòng 3...). Ông Hoè giữ tôi lại
làm việc trong Trung Tâm Hành Quân với một đại úy (thuộc một đơn
vị BĐQ nào đó cũng trình diện như tôi) cho đến ngày Nha Trang di
tản.
(7)
Mùa Hè 1975 (Jay Veith – vđh) trang 96 – 97
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Huy Văn chuyển
Đăng ngày Thứ Tư,
April 28, 2021
thư ký dù
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang