Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản mạn nền Giáo dục VN xưa
Chủ đề:
Ngành Đại học VNCH
Tác giả: Trần Xuân Thời
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trường
Quốc Gia Hành Chánh là một trường chuyên nghiệp, không phải là
một phân khoa tự do của Viện Đại Học Sài Gòn như Văn khoa hay
Luật Khoa mở rộng cho sinh viên ghi danh vào học tự do không cần
qua kỳ thi nhập học.
Trường được thành lập do Nghị Định
246–CAB/SG ngày 7 tháng 4 năm 1952, sửa đổi bởi Nghị Định
560/PTT/TTK ngày 22 tháng 8 năm 1954 và đổi danh xưng thành Học
Viện Quốc Gia Hành Chánh bởi Nghị Định 483–TTP/TTK ngày 9 tháng 8
năm 1955.
Học Viện có nhiệm vụ nghiên cứu và đào luyện các
viên chức hành chánh cao cấp cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Hơn
hai ngàn sinh viên đã tốt nghiệp tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh
từ khoá Đốc Sự Đà Lạt nhập học năm 1953 đến năm 1975.
Chương trình huấn luyện gồm 3 ban: Tham sự, 1 năm (5 khóa tốt
nghiệp từ năm 1965–1970); Đốc sự, 3 năm ½ (20 khóa tốt nghiệp từ
1953–1975) và Cao học, 2 năm (8 khóa tốt nghiệp từ 1965–1975).
Muốn nhập học, thí sinh phải có văn bằng Tú tài toàn phần cho
ban Tham sự, Đốc sự và văn bằng Cử nhân hay tương đương cho ban
Cao học.
Tất cả thí sinh dự tuyển phải trải qua một kỳ
khảo hạch, gồm một bài bình luận về các vấn đề văn hóa, xã hội,
kinh tế, chính trị... để lượng giá kiến thức tổng quát, khả năng
suy luận và khả năng diễn đạt tư tưởng của thí sinh.
Đa số
thí sinh bị loại vì bài bình luận. Ban giám khảo chỉ chọn một số
thí sinh có điểm cao về bài bình luận. Sau đó chấm tiếp các bài
khác của các thí sinh đã được chọn, với hệ số thấp hơn, như bài
thi về sử ký hoặc địa lý nhân văn hay địa lý kinh tế và một bài
sinh ngữ, để tuyển chọn 100 thí sinh hằng năm trong hằng ngàn thí
sinh dự tuyển. Tỷ số trúng tuyển khoảng 5% mỗi năm cho các ban.
Bài bình luận với hệ số 4 là một bài trắc nghiệm về khả năng
am hiểu vấn đề, khả năng phân tích và khả năng bình phẩm, tổng
hợp một đề cương.
Thí sinh đã thi thố tài năng qua các bài
bình luận về triết lý trị quốc an dân, các thể chế chính trị hoặc
các định chế kinh tế, xã hội quốc tế. Ví dụ như:
–Đề thi
vào khoá 5 Ban Đốc sự (1957): Anh chị hãy bình luận câu: “Hà
chính mãnh ư hổ dã” (Chính sách hà khắc tàn bạo hơn cọp dữ);
–Đề thi bài bình luận thi vào khoá 11 Ban Đốc sự (1963): “Kỳ
thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh nhi
bất tùng” (Bản thân là chính trực, không ra lệnh người cũng nghe;
bất chính thì có ra lệnh người cũng không nghe);
–Đề thi
vào khoá 12 Ban Đốc sự (1964): “Dân chủ và Độc tài”;
–Đề
thi vào khóa 22 Ban Đốc sự (1974): “Ngày xưa người ta coi công
chức là chi dân phụ mẫu”. Anh chị nghĩ thế nào? Đề thi vào khoá 1
Ban Cao học (1965): “Vấn đề các nước bị chia đôi”;
–Đề thi
vào khoá 3 Ban Cao học (1967): “Chiến tranh và các định chế quốc
tế” hay đề tài kinh tế như đề thi vào khoá 1 Ban Tham sự (1965)
“Chánh sách tái phân lợi tức”....
Đa số các đề thi của các
bài bình luận không mấy liên quan đến chương trình trung học hoặc
đại học, nhằm trắc nghiệm kiến thức tổng quát về văn hoá, xã hội,
kinh tế, chính trị... Kiến thức tổng quát được thủ đắc qua kinh
nghiệm sinh hoạt hằng ngày hay qua các phương tiện truyền thông
như báo chí, các tập san nghiên cứu, truyền thanh, truyền hình mà
chỉ những học sinh hay sinh viên có năng khiếu theo dõi thời
cuộc, lưu tâm đến hiện hình đất nước hay tình hình thế giới mới
nghiên cứu.
Học viện có sứ mệnh đào tạo những thanh niên
nam (90%) và nữ (10%) có kiến văn, khả dĩ am hiểu tình hình xã
hội, văn hoá, kinh tế, chính trị để đảm nhiệm các vai trò quản
trị nền hành chánh công quyền của Việt Nam Cộng Hòa. Học viện
tuyển chọn các thí sinh có năng khiếu sưu tầm, quan tâm đến đời
sống cộng đồng, thiên về sinh hoạt của nhân quần xã hội, hoặc có
khuynh huớng bẩm sinh phục vụ quần chúng.
Truyền thụ kiến
thức thì dễ, nhưng đào luyện ý chí (will) và tâm tưởng
(mentality) để lên khuôn cho hành động của tha nhân để phục vụ
công ích thì rất khó, nếu không chọn đúng đối tượng. Phương pháp
tuyển chọn hữu hiệu là mở khoa thi để tuyển chọn nhân tài, khám
phá những sĩ tử có sẵn căn bản, ước nguyện hay khuynh hướng bẩm
sinh về ngành quản trị công quyền. Năng khiếu của thí sinh thường
được nhận diện qua khả năng thu nhận kiến thức, tinh luyện suy
luận và phát triển sáng tạo được biểu lộ trong bài bình luận vì
“Văn tức là người” (Le style, c’est l’homme).
Bài bình
luận là phương tiện để phát hiện khả năng của thí sinh qua tiến
trình “Ý tại, ngôn ngoại”. Thí sinh có cơ hội bộc phát ý tưởng
sẵn có trong nội tâm để thi thố tài năng qua trường thi trận bút.
Nhờ đó, Học viện có thể khám phá và đào luyện được những sĩ tử có
kiến thức thích ứng cho ngành quản trị qua hệ luận: “Tư tuởng
được thể hiện qua ngôn, từ. Ngôn, từ sẽ phát sinh ra hành động.
Hành động nhiều lần sẽ thành thói quen. Thói quen lâu ngày sẽ trở
thành bản tính, nhân cách, tác phong hành sự.”
“Công tác
giáo dục cũng như công việc của người thợ may”. Trước khi may áo,
người thợ may phải đo kích thước của khách hàng, không phải để
chê bai “Cao chê ngỏng, thấp chê lùn. Béo chê, béo trục béo tròn.
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra”, mà để may cho đúng kích
thước. Cũng vậy, trước khi đào luyên nhân tài, Học Viện cần tìm
hiểu xem thử những sĩ tử nào có khả năng thích ứng để trở thành
chiến sĩ tuyến đầu làm công bộc của dân. (Administrateur
civil/Field administrator) mà người xưa thường gọi là “Chi Dân
Phụ Mẫu”.
Bước chân vào trường thi trận bút mà không có tư
tưởng thì chẳng khác nào ra trận mà không trang bị vũ khí thì làm
sao chiến thắng được đối phương. Đảm nhiệm công tác trị quốc an
dân mà không có tư tưởng thì làm sao chu toàn sứ mệnh “Thứ, Phú,
Giáo”: Làm cho dân ngày càng đông đảo, càng giàu mạnh và nâng cao
trình độ dân trí ngày càng cao.
Một khi đã có tư tưởng thì
tư tuởng lên khuôn cho hành động. Hay nói cách khác, có tri, ắt
có hành. Tri hành thường phải hợp nhất. Một khi tri hành không
hợp nhất thì đúng là “Kỳ thân bất chính, tuy lệnh, nhi bất tùng”.
Không đủ tư tưởng để bình luận một đề thi đáp ứng chủ đích của
Học viện thì thí sinh không đủ tiêu chuẩn để được tuyển chọn theo
học ngành quản trị công quyền.
Những người có khả năng
chuyên khoa về Anh văn, Pháp văn, toán học... hoặc những học sinh
hay sinh viên thích thi ca, “Thức suốt đêm làm thơ rồi đợi chờ”
hoặc luyện chưởng của Kim Dung để viết tiểu thuyết thì khó lòng
mà vượt qua cửa ải của bài bình luận.
Một số thí sinh không
trúng tuyển cho biết cảm tưởng là đề thi không phù hợp với sở
trường của họ nên nạp giấy trắng. Đúng, mỗi người có một sở
trường vì “nhân sinh quý thích chí”. Các thí sinh này thi thử,
nhưng không có duyên với hành chánh nên đã dấn thân và thành công
trong các ngành chuyên khoa khác.
Chương trình huấn luyện
gồm các môn chính trị, kinh tế, tài chánh, hành chánh, kế toán,
tư pháp, luật lao động, soạn thảo công văn, soạn thảo ngân sách,
thuế khóa, phương pháp sưu tầm, xã hội học, ngân hàng, thống kê,
bang giao quốc tế, các vấn đề hành chánh điển hình, luật hành
chánh...
Riêng ban Đốc sự, cuối năm học, sinh viên phải
thi viết 8 môn và thi vấn đáp 4 môn.
Trong năm thứ 2, sinh
viên chọn ngành chuyên môn: Ban Hành Chánh hay ban Kinh Tài...
Việc chọn ban này áp dụng từ khoá Đốc sự Đà Lạt đến khóa 12 Đốc
sự (1964). Chương trình thay đổi từ khóa 13 (1965) đến khóa 22
(1974), tất cả sinh viên học chung một chương trình, không chia
ban hành chánh hay kinh tài và thời gian thực tập cũng không
thống nhất giữa các khóa. Trong chương trình cao học, kể từ năm
1965, khi thi vào, thí sinh đã tự chọn ngành chuyên môn như hành
chánh, tài chánh, kinh tế, ngoại giao, xã hội, thẩm tra kế
toán....
Qua năm thứ 3 sinh viên thường được phân chia đi
thực tập tại các tỉnh địa phương hoặc các bộ, phủ tại trung ương.
Sau đó trở lại Học viện học phần thời gian còn lại của chương
trình trước khi thi tốt nghiệp.
Trong thời gian thực tập,
sinh viên nghiên cứu các vấn đề hành chánh địa phương, trung ương
và gởi tờ trình tam cá nguyệt về Học Viện, đồng thời thu thập tài
liệu để viết luận văn (research paper) cho cuối khoá học. Luận
văn từ 40 đến 60 trang về một trong các đề tài liên quan đến nền
hành chánh công quyền quốc gia hiện hành do sinh viên tự chọn.
Sau khi tốt nghiệp, các tân khoa chọn chỗ để phục vụ tại các
bộ, phủ tại trung ương hay tại toà hành chánh các tỉnh, các thành
phố điạ phương, theo thứ tự xếp hạng sau kỳ thi tốt nghiệp.
Trong thời gian tòng học tại Học viện, các sinh viên được
huấn luyện qua chương trình “Cao Đẳng Quân Sự” hoặc được hoãn
dịch vì lý do học vấn.
Từ năm 1953, sinh viên các khoá 1
Đốc Sự Đà Lạt và các khoá Đốc sự kế tiếp 2, 3, 4, thụ huấn quân
sự tại Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt trong lúc theo học chương
trình hành chánh. Một số cưu sinh viên đã tốt nghiệp khoá I Thủ
Đức như Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn... trước khi nhập học Học Viện
QGHC. Một phần huấn luyện quân sự cho khóa 4 và toàn khoá 5 được
chuyển qua huấn luyện tại Long Hải. Sau khi tốt nghiệp, các tân
sĩ quan được lệnh phuc vụ tại các quân khu trong thời gian sáu
tháng trước khi được biệt phái về đảm nhiệm các chức vụ hành
chánh tại trung ương hay địa phương.
Sinh viên các khoá
Đốc sự 6, 7, 8, từ năm 1958, sau khi mãn khoá, được Bộ Quốc Phòng
động viên vào các khoá sĩ quan tại Trường Sĩ Quan Hiện Dịch Đồng
Đế, Nha Trang.
Sinh viên các khóa Đốc sự 9 đến khóa 16,
sau khi tốt nghiệp và được bổ nhiệm vào các chức vụ trong nền
hành chánh quốc gia tại trung ương và điạ phương, đã lần lượt
được Bộ Quốc Phòng động viên vào các khóa Sĩ Quan Trường Võ Khoa
Thủ Đức từ năm 1964 đến năm 1972.
Số sĩ quan gốc QGHC được
Bộ Quốc Phòng cứu xét, theo yêu cầu của các Bộ, Phủ, cho biệt
phái ngoại ngạch, “chiếu nhu cầu công vụ”, về nhiệm sở cũ để đảm
nhiệm các chức vụ quan trọng tại trung ương và địa phương để điều
hành nền hành chánh quốc gia.
Tại địa phương, cựu sinh
viên hành chánh, tuỳ nhu cầu và căn cứ trên thời gian phụ vụ được
bổ nhiệm vào các chức vụ Phó Quận Trưởng, Trưởng Ty, Phó Tỉnh
Trưởng, Phó Thị Trưởng, Đaị Diện Vùng... Tại trung ương, từ cấp
Chủ sự, Chánh Sở, Giám Đốc, đến Tổng, Bộ Trưởng, Viện Trưởng, Thủ
Tướng trong suốt 20 năm từ 1955–1975.
Việt Nam thoát khỏi
sự bảo hộ của Pháp từ năm 1954 với một nền hành chánh tự trị phôi
thai. Nhằm mục đích thăng tiến nền hành chánh quốc gia, thực hiện
các chương trình phát triển, kinh bang tế thế trong hoàn cảnh khó
khăn về mọi mặt nhất là áp lực về chính trị và quân sự.
Về
chính trị: Ý dân là ý trời. Chính phủ Viêt Nam Cộng Hoà chủ
trương “công tâm vi thượng” đánh lấy lòng dân thay vì gây binh
đao, tấn công ra Bắc để chiếm thành trì, “công thành vi hạ”. Vì
trận chiến tâm lý, “đắc nhân tâm”, phức tạp và khó khăn liên quan
đến mọi khía cạnh của đời sống như văn hoá, xã hội, kinh tế,
chính trị, trong công tác xây dựng tự do, hạnh phúc thực sự cho
nhân dân Việt Nam nên Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã nhờ Đại học
Michigan State University, Hoa Kỳ, bảo trợ chương trình đào luyện
một lực lượng sĩ phu hành chánh mới, thấm nhuần tinh thần quốc
gia và kỹ thuật quản trị khoa học tân tiến.
Về quân sự:
Miền Nam thường trực chịu áp lực hiếu chiến của miền Bắc. Đảng
cộng sản Hà Nội sẵn sàng gây hấn để phục vụ chủ trương của Cộng
sản Quốc tế, nên Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà đã gia tăng quân lực
qua sự hình thành các Trung Tâm Huấn Luyện binh sĩ, hạ sĩ quan và
sĩ quan cho quân lực Việt Nam Cộng Hoà để bảo toàn lãnh thỗ và an
ninh cho miền Nam.
Các viên chức hành chánh tốt nghiệp Học
Viện Quốc Gia Hánh Chánh, hoặc tốt nghiệp thêm các ngành khác như
Văn Khoa, Luật Khoa, Sư phạm hay Khoa học, cũng đồng thời xuất
thân từ các quân trường đào tạo Sĩ quan cho Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà như Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, Trường Sĩ Quan Đồng
Đế và Trường Sĩ Quan Thủ Đức, được trang bị với văn tài và võ
lược hầu có thể đảm nhiệm hữu hiệu công tác trị quốc an dân từ
địa phương đến trung ương.
Các công chức–quân nhân này,
tuy thường được biệt phái nhưng vẫn là quân nhân tại ngũ, nên
được quản trị, thăng thưởng và chế tài bởi hai quy chế: Quy chế
công chức và quy chế quân nhân. Công chức–quân nhân vi phạm kỷ
luật thường bị chế tài về quân kỷ. Lệnh biệt phái bị thu hồi và
được thuyên chuyển ra các đơn vị tác chiến, hay phục vụ tại các
tiểu khu. Trong thời gian thi hành công vụ, một số công chức–quân
nhân xuất thân từ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và các Quân Trường
Sĩ Quan đã hy sinh vì tổ quốc.
Sau năm 1975, dù hoàn cảnh
biến đổi ra sao đi nữa thì áo rách phải giữ lấy lề. Cảnh khổ là
nấc thang cho kẻ anh tài, kho tàng cho người khôn khéo và cũng có
thể là vực thẳm cho người yếu đuối. Cựu sinh viên tốt nghiệp Học
Viện Quốc Gia Hành Chánh cũng như các Quân Trường của Việt Nam
Cộng Hòa vẫn kiên gan cùng tuế nguyệt, trân quý niềm tin vào
chính nghĩa quốc gia, tinh thần tự trọng, và trình độ văn hoá
văn–võ song toàn đặc thù của mình.
“Dù cho mưa, tôi xin
đưa em đến cuối cuộc đời.”
Nền giáo dục văn, võ nói chung
mà mỗi người Việt thủ đắc và bảo tồn trong tâm tưởng thể hiện đặc
trưng của nền văn hoá Việt Nam: Là của hương hỏa, công cha, nghĩa
mẹ, ơn thầy; là gia bảo thiêng liêng của tổ quốc in hình dấu vết
của hồn thiêng sông núi mà người công dân nước Việt Nam Cộng Hoà
luôn hãnh diện, ấp ủ trong hoài bão, tựa bản nhạc vàng ru trọn
đời mình!
Ngày nay, sau hơn ba thập niên viễn xứ, hầu hết
cựu sinh viên tốt nghiệp HVQGHC cũng như các Quân Trường Võ Khoa
tản mác khắp năm châu bốn bể. Nhờ căn bản vốn liếng văn hóa còn
lại “La culture est ce qui reste quand on a tout oublié”, họ đều
đã thành công với tinh thần “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất”, sống xứng đáng với nhân phẩm.
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và các Quân Trường đã đào luyện
nên những con người Việt Nam, tài kiêm văn–võ, đã và đang phục vụ
đất nước với tình đồng hương, nghĩa đồng bào trong dòng sinh mệnh
của dân tộc.
Những gì chúng ta trải qua trong cuộc đời đều
là những hoài niệm đáng nhớ, đáng thương. Những hoài niệm êm đềm
đã ghi sâu trong tâm tưởng về những năm dài, tháng rộng của một
phần đời sinh sống, phục vụ quê hương và một phần đời viễn xứ.
Không tự tôn về quá khứ, mà cũng không tự ty về thân phận của
kiếp sống tha hương.
Cicéro, một nhà hùng biện nổi tiếng ở
thành Rome, năm 46 trước công nguyên, đã nói người lớn khác trẻ
em vì người lớn biết quá khứ, nhớ lịch sử. Dù quá khứ là quá khứ,
“Le passé est le passé”, cũng như tuổi tác “xuân bất tái lai”,
không thể thay đổi hay điều chỉnh được. Chúng ta vẫn giữ thái độ
“Bất oán thiên, bất vưu nhân, hạ học nhi thượng đạt”. Không oán
trời, không trách người, phàm làm người nên biết thời vận. Biết
quá khứ giúp chúng ta am hiểu tình, lý của cuộc đời, tức là biết
lẽ sống.
Cho dù chúng ta không loại bỏ ý niệm siêu hình về
một phần của cuộc đời thường do định mệnh an bài vì chúng ta
không giải hoá được các ẩn số cố hữu. Thế nhưng, thế thượng
thường tình, con người vẫn cố gắng dành phần tự quyết định thân
phận của mình. “Chacun est l’artisan de sa fortune”, hoặc theo
nhân sinh quan trung dung: Có trời mà cũng tại ta. Fais ce que tu
dois, advienne que pourra!
Nhân sinh quan cổ, kim, Đông,
Tây, vẫn là một:
Đông thì quan niệm:
“Thiên hành
kiện,
quân tử dĩ tự cường bất tức.
Cố tài giả bồi chi,
khuynh giả phúc chí”.
Trời hành đạo mạnh mẽ,
cốt giúp
người tự lực, tự cường,
chứ không giúp người biếng nhác.
Tây thì khuyên ta:
“Aide toi, le ciel t’aidera”. Hãy
tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp mình sau.
hoặc
“Creator willed that man should be left in the hand of his own
counsel for his own sake”.
“Khi nên Trời cũng chiều người”.
Tự lực, tự cường vẫn là hoàng đạo. “Nhân
vô viễn lự, tắc hữu cận ưu”. Làm người mà không nhìn
xa, trông rộng, ắt có ngày sẽ gặp phiền phức, âu lo, như quá khứ
đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm đau thương.
Vì thế, dù
sống trong thời gian nào, xã hội nào, chúng ta cũng phải phấn đấu
hết mình, để khuất phục hoàn cảnh, phục vụ nhân quần xã hội,
trước khi phục mệnh.
“Trời
đâu riêng khó cho ta mãi. Vinh nhục dù ai cũng một lần”.
Sống xứng đáng là người Việt cao quý, trong bất cứ tình huống
nào và phục vụ tập thể đồng môn, nói riêng và cộng đồng Việt Nam
hải ngại nói chung, thì cũng như phục vụ chính quê hương mình
vậy.
Trần Xuân Thời
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Danh sách những Bài viết của Tác giả Trần Xuân Thời
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Trần Xuân Thời chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, July 11, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang