Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sưu Tầm
Chủ đề:
Bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ
Tác giả: Trần Xuân Thời
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hầu
hết chúng ta đã tham dự các cuộc bầu cử tự do tại Việt Nam trước
1975 và tại các quốc gia tự do mà chúng ta đang cư ngụ sau năm
1975. Trong các quốc gia tự do, dân chủ, phương thức bầu cử được
áp dụng trong các cơ chế công quyền và các hiệp hội tư nhân để
chọn người đại diện.
Tại Hoa Kỳ, các chính quyền tiểu bang
đảm trách tổ chức bầu cử các viên chức công cử tiểu bang và liên
bang. Thể thức bầu cử được quy định bởi các đạo luật do chính
quyền tiểu bang ban hành, do đó có một số khác biệt về kỹ thuật
tổ chức giữa các tiểu bang.
1. Quyền bầu cử
Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 không quy định quyền bầu cử cho mọi
công dân Hoa Kỳ. Vì thế các Tu chính án thứ 15 ban hành năm 1870
quy định thêm quyền bầu cử cho người Mỹ thiểu số. Tu chính án thứ
19 ban hành năm 1920 công nhận quyền bầu cử cho cử tri nữ giới.
Hiến pháp quy định bẩu cử Tổng Thống Hoa Kỳ cứ bốn năm một lần
vào ngày Thứ Ba sau ngày thứ hai tuần thứ nhất tháng 11.
2. Ghi danh bầu cử
Mọi công dân hội đủ
điều kiện đều được ghi danh bầu cử: 18 tuổi, công dân Hoa Kỳ,
không can án hay bị tước quyền bầu cử, phải là cư dân hợp lệ tại
tiểu bang nơi bầu cử hay ứng cử, cử tri có thể ghi danh trước
hoặc tại phòng phiếu trước khi bầu cử, hoặc theo thủ tục do tiểu
bang ấn định.
Năm 1965, Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành đạo luật
“Voting Rights Act” bãi bỏ các điều kiện cử tri phải biết đọc,
biết viết (literacy tests), đóng thuế bầu cử (poll taxes). Các
điều kiện này thường được áp dụng tại các tiểu bang miền Nam Hoa
kỳ gọi chung là “Jim Crow Laws”.
3. Chứng Minh Thư
(ID)
Đến nay 2016, khoảng 30 tiểu bang buộc phải xuất
trình căn cước (ID) trước khi cho ghi danh bầu cử. Khoảng 20 tiểu
bang chưa có luật buộc phải xuất trình căn cước. Hai đảng CH và
DC có hai đường lối khác nhau về vấn đề này.
Đảng Cộng Hoà
ủng hộ tiểu bang cấp căn cước cho cử tri nhằm tránh sự gian lận
như bầu cử nhiều lần, không đủ điều kiện bầu cử vẫn được đi bầu
cử, không phải là công dân, di dân bất hợp pháp, người chết đi
bầu... Vấn đề gian lận bầu cử (election fraud) đã được nêu lên
trong nhiều cuộc bầu cử.
Đảng dân chủ chủ trương ngược lại
để cho mọi người được bầu cử tự do không cần chứng minh thư (ID)
vì lý do nhiều người không có giấy tờ tùy thân. (Eric Holder, US
AG, Obama Administration).
Sự tranh chấp này khiến cho Tối
Cao Pháp Viện (US Supreme Court) phải phân xử. Năm 2008 Tối Cao
Pháp Viện công nhận luật tiểu bang Indiana đòi hỏi cử tri phải có
căn cước. Các tiểu bang khác như Texas, Tennessee, Rhode Island,
Kansas, Georgia... năm 2012 đã thông qua luật đòi hỏi cử tri phải
có căn cước. Tuy nhiên một số tiểu bang khác còn lại vẫn còn
tranh cãi về luật ID card. Trong năm 2016, 17 tiểu bang đã ban
hành luật đòi hỏi phải xuất trình khai sinh, chứng chỉ nhập
tịch... nhưng vẫn gặp khó khăn khi áp dụng.
4. Các
chức vụ dân cử
Có rất nhiều loại chức vụ dân cử
tiểu bang và liên bang tại mỗi tiểu bang. Mỗi tiểu bang như một
tiểu quốc có đầy đủ cơ chế dân cử: Lập Pháp với lưỡng viện Quốc
hội, Hành Pháp với Thống Đốc và các Bộ, Phủ và Tư pháp với một hệ
thống toà án. Có tiểu bang như Nebraska... chỉ có một viện
(unicameral), không có lưỡng viện Quốc hội (bicameral) như các
tiếu bang khác.
Nghị sĩ Liên bang (US
Senator): Mỗi Tiểu bang đồng đều có 2 Nghị sĩ Liên bang,
nhiệm kỳ 6 năm.
Dân biểu Liên bang
(US Representative): Có nhiều Dân biểu Liên bang cho mỗi
tiểu bang tùy theo dân số của tiều bang, nhiệm kỳ 2 năm. Từ khi
lập quốc, khoảng 30,000 dân được bầu một Dân biểu. Ngày nay số
Dân biểu gia tăng theo dân số căn cứ trên bảng thống kê dân số cứ
10 năm thăm dò dân số một lần. Một Dân biểu hiện nay có thể đại
diện cho trên nửa triệu dân. Tiểu bang nhỏ nhất có 1 Dân biểu và
2 Nghị sĩ. Tiểu bang lớn nhất nhu CA có 52 Dân biểu và 2 Thượng
Nghị sĩ.
5. Phân khu bầu cử
Vì dân
số gia tăng nên có vấn đề tái phân chia khu bầu cử (Congressional
redistricting). Khi phân khu như vậy có thể sẽ gây thất lợi cho
một trong hai đảng Dân Chủ hay Cộng Hoà. Sự tái phân cử tri là
nhiệm vụ của chính quyền tiểu bang và có ảnh hưởng đến vấn đề bẩu
cử Dân biểu liên bang và các viên chức công cử tiểu bang nên
thường tạo nên các cuộc tranh luận sôi nổi trong quốc hội tiểu
bang. Sự tranh giành vấn đề tái phân ranh giới và cử tri lợi cho
khu bầu cử, có trường hợp phải nhờ Tối Cao Pháp Viện HK phân xử.
Trường hợp có nhiều cử tri cùng chung khuynh hướng chính trị
được tái phân vào một khu bầu cử tạo nên hiện tượng “Vote
packing”, có lợi cho vị Dân biểu đương nhiệm (incumbent). Ngược
lại vị Dân biểu đương nhiệm có thể bị thất cử nếu có nhiều cử tri
thuộc các khuynh hướng khác chiếm đa số hoặc cử tri thường hỗ trợ
dân biều đương nhiệm bị phân tán “Vote cracking”. Vấn đề tranh
cãi là phải phân khu như thế nào để dung hoà các khuynh hướng
chính trị trong điạ phương liên hệ.
6. Vấn đề tài
trợ các cuộc vận động bầu cử
Ứng cử mà thiếu tài
chánh thì không có hy vọng đắc cử. Mặt trái của vấn đề vận động
tài chánh là các ứng cử viên, sau khi đắc cử, có thể lo “ơn đền,
nghĩa trả” cho những người đóng góp tài chánh bằng cách thoả mãn
nhu cầu của những người tài trợ, “Pay and play” tiền trao cháo
múc, những nhóm quyền lợi (interest groups) thay vì dùng thì giờ
hay công khố để phục vụ công ích (conflict of interest). Vì thế
năm 1907 đạo luật Tillman Act được ban hành để cấm các đại công
ty đóng góp tài chánh cho các cuộc vận động bầu cử các viên chức
liên bang và ấn định mức chi tiêu tối đa cho mỗi ứng cử viên.
Luật Federal Corrupt Practices Act được ban hành năm 1925 ấn
định mức đóng góp.
Luật Federal Election Campaign Act được
ban hành năm 1971 bắt buộc các ứng cử viên tường trình số tiền
đóng góp nhận được.
Năm 1974, Quốc Hội thành lập cơ quan
Federal Election Commission (FEC) do 3 Ủy viên Cộng Hoà và 3 Ủy
Viên Dân Chủ kiểm soát tài chánh của các cuộc tranh cử.
Năm 1976, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tuyên bố giới hạn mức chi tiêu
là bất hợp hiến (unconstitutional) vi phạm Tu chính Án thứ Nhất
của Hiến Pháp Hoa kỳ.
Năm 2002, Quốc Hội ban hành luật
McCain – Feingold chấm dứt vấn đề đóng góp cho văn phòng của hai
đảng Cộng Hoà (National Republican Committee) và Dân Chủ
(National Democratic Committee).
Dù luật lệ có quy định
nhưng trên thực tế các nhóm áp lực vẫn đóng góp tài chánh cho các
ứng cử viên để được hưởng lợi lộc sau khi các ứng cử viên được
đắc cử qua nhiều phương thức khác nhau.
7. Các Ủy
Ban Hoạt Động Chính Trị
Chúng ta thườngg nghe nói
đến danh từ PAC. PAC là Political Action Committee. Các ủy ban
vận động chính trị được thành lập tại các tổ chức, công ty lớn
đảm trách vấn đề gây quỹ đóng góp cho các cuộc vận động tranh cử
như GOPAC (Republican leadership PAC). Nhiều đoàn thể chính trị
tại các tiểu bang cũng thành hình các ủy ban vận động chính trị.
Những nhóm này được thành lập theo Section 527 của Internal
Revenue Code/IRS Code. (Luật Thuế Liên Bang HK)
Trong cuộc
bầu cử năm 2004, có cơ quan Swift Boat Veterans for Truth vận
động tài chánh để ủng hộ George W. Bush và bài bác John Kerry và
ngược lại Cơ quan America Coming Together (ACT) ủng hộ Kerry
chống Bush. Cả hai cơ quan này đều bị phạt bạc triệu vì hoạt động
ngoài sự kiểm soát của Federal Election Commission.
Al
Gore khi làm Phó Tổng Thống cũng bị khiếu nại vì dùng điện thoại
của văn phòng PTT vận động tài chánh cho ứng cử viên của đảng DC
và Tổng Thống Clinton cũng bị báo chí phanh phui khi mời các mạnh
thường quân (donors) đến nghỉ ngơi tại Toà Bạch Ốc. Thống Đốc
Illinois Ron Blagojevich, Đảng DC, bị tù vì bán chức Thượng Nghị
sĩ của Barack Obama để trống của tiếu bang Illinois để lấy tiền
tranh cử.
Trong vụ án Citizens United vs. Federal Election
Commission, (2011) Tối Cao Pháp viện cấm không được hạn chế sự
đóng góp của các nghiệp đoàn, công ty thương mãi cho các cơ quan
bất vụ lợi. Đồng thời xác nhận các hiệp hội vụ lợi và bất vụ lợi
có tư cách pháp nhân (không những là legal entity và cũng là
legally persons) nên có quyền nhận đóng góp như quyền tự do ngôn
luận dành cho mọi người! Phán quyết này cũng gây nên sự kinh ngạc
cho một số người. Kết quả, các PAC có quyền nhận sự đóng góp vô
giới hạn của tư nhân cũng như của các hiệp hội, các công ty
thương mãi và được mệnh danh là Super PACs, rồi sau đó Super PAC
tha hồ nhận tiền đóng góp để hỗ trợ cho ứng cử viên gà nhà...
khiến cho Lawrence Lessig, giáo sư tại Trường Luật Harvard, viết
cuốn sách “Republic, Lost: How Money Corrupts Congress – and a
Plan to Stop It” để chống đối sự nhũng lạm do tiền tài gây nên
tại Washington để ngăn cấm thành viên của chính quyền, Hành Pháp,
Lập Pháp chỉ lo vân động tài chánh để tranh cử chứ không còn thì
giờ lo cho quốc sự...
Nhiêm vụ của Tối Cao Pháp Viện rất
quan trọng trong tiến trình hình thành hệ thống pháp lý Hoa Kỳ.
Chánh nhất Hughes (1862–1948) đã nhận xét rằng ý nghĩa của Hiến
pháp do Tối cao pháp viện giải thích. Tổng Thống Woodrow Wilson
so sánh Tối cao pháp viện như là một “Quốc Hội Lập Hiến thường
trực” vì vai trò của Tối cao pháp viện như là người cuối cùng
giải thích Hiến pháp, nói khác đi giải thích Hiến pháp của Tối
cao pháp viện có tính cách chung thẩm.
Theo Tổng Thống
Thomas Jefferson, giao trọng trách giải thích Hiến pháp cho Tối
Cao Pháp Viện là một tập tục nguy hiểm. TT Jefferson cho rằng
quyền của nhân dân Hoa Kỳ phải để cho nhân dân Hoa Kỳ định đoạt
hơn là chấp nhận sự giải thích có tính cách khống chế của riêng
một cơ quan.
Nhiều vấn đề khó khăn được bàn cãi hiện nay
với ý kiến chống đối như vấn đề phá thai, đạo và đời, tự do cá
nhân, vấn đề nhân quyền, vấn đề tự do kết liễu sinh mạng... Theo
quan niệm của một số giới chức, Tối Cao Pháp Viện đi hơi xa trong
vấn đề giải thích Hiến Pháp, do đó hai đảng cố gắng thay đồi
chiều hướng giải thích Hiến pháp theo quan điểm của mỗi đảng.
Cộng Hoà chủ trương Hiến pháp phải được giải thích theo ý chí của
những bậc khai quốc công thần đã đại diện nhân đân Hoa Kỳ soạn
thảo Hiến pháp năm 1787. Dân Chủ thì muốn thay đổi một số quan
điểm cho nên hai đảng phải tranh cho được chức vụ Tổng Thống mới
có thẩm quyền bổ nhiệm các vị Thẩm Phán TCPV theo khuynh hướng
của mỗi đảng.
8. Đề cử đại biểu
Thủ tục thông thường cho các đảng chính trị:
1. Tuyển chọn các đại biểu (delegate) từ các phiên
hội sơ bộ (caucus) tại các precinct (khu tuyển cử) trong các
thành phố;
2. Các đại biểu được các precinct bầu
sẽ tham dự đại hội cấp County
[Quận]
(County Convention) để bầu đại biểu tham dự đại hội cấp tiểu bang
(State Convention);
3. Đại hội cấp tiểu bang sẽ
họp để bầu đại biểu tham dự Đại hội Toàn Quốc (National
Convention). Tuy vậy, thủ tục có thể thay đổi tùy theo tiểu bang.
Đảng Dân Chủ chọn ứng viên từ các cuộc bầu cử sơ bộ tại cấp
tiểu bang. Các đại biểu cấp tiểu bang sẽ tham dự đại hội toàn
quốc để chọn ứng cử viên đại diện cho đảng ra tranh cử Tổng
Thống. Số đại biểu đảng Dân Chủ thay đổi trong mỗi kỳ bầu cử,
khoảng trên dưới 4000 đại biểu được chọn để tham dự Đại hội đảng
toàn quốc. Cứ 4 năm một lần để bầu đại diện ra ứng cử Tổng Thống.
Các ứng cử viên chỉ cần đa số phiếu tương đối (simple majority)
để được chọn làm đại diện đảng ra tranh cử Tổng Thống. Các đại
biểu này được gọi là đại biểu có cam kết “Pledged delegates”. Họ
thuờng đã gặp các ứng cử viên tại các phiên hội tại các Precinct,
County và State convention hay National Convention. Ngoài ra, các
đại biểu chọn từ cấp tiểu bang, cấp lãnh đạo đảng chọn thêm một
số đại biểu khác làm “Superdelegates” trong số các Dân biểu, Nghị
sĩ, Thống đốc của đảng. Trong cuộc vận động bầu cử TT năm 2016,
bà Clinton có nhiều Superdelegates và Ông Sanders tỏ ra bất bình
về vấn đề phe phái này.
Năm 2008, Đảng DC có đến 796
Superdelegates, là những người có chức vụ, quyền thế và có ngân
quỹ, có khả năng hỗ trợ cuộc bầu cử. Đa số là thành viên của nhóm
Establishment, “Áo xiêm buộc trói lấy nhau”, tạo thành một thành
trì bảo vệ quyền lợi của đảng.
Đảng Cộng hoà cũng chọn đại
biểu từ cấp Precinct, County, State Conventions, để tham dự
National Convention, nhưng chọn khoảng trên dưới 2000 đại biểu
mỗi kỳ bầu cử. Đảng CH cũng chọn thêm các đại biều từ các đại hội
tại các tiểu bang và từ giới lãnh đạo đảng, nhưng không dùng danh
xưng “superdelegates” mặc dù một số delegates được chọn từ trong
giới lãnh đạo đảng CH, hay những thành viên của nhóm
Establishment của đảng CH.
Các cuộc bầu cử sơ bộ
thường được tổ chức qua ba hình thức:
1. Họp
sơ bộ khoáng đại (open primary) trong đó không phân biệt Dân
chủ hay Cộng hoà. Đảng viên CH có thể bầu cho ứng viên DC hoặc
ngược lại;
2. Họp sơ bộ bán khoáng đại (semi–open
system) trong đó các cử tri độc lập (independent voter) có
thể bầu cho ứng viên DC hoặc CH;
3. Họp sơ bộ kín
(closed primary) chỉ dành cho cử tri ghi danh vào đảng mới
được tham dự bầu cử.
9. Vận động tranh cử
Trong tiến trình chọn ứng cử viên từ hàng chục người
(contender) của các đảng ghi danh tranh cử đến khi chọn được ứng
cử viên chính thức đại diện đảng ra tranh cử kéo dài khoảng 2
năm. Trong cuộc bầu cử Tổng Thống HK, nhiệm kỳ 2016–2020, theo
danh sách ứng viên ghi danh với Federal Election Commttee có 37
người ghi danh dự tranh và trên phiếu bầu Tổng Thống Hoa Kỳ 2016,
có ghi danh ứng cử Viên của chín (9) đảng ra tranh cử.
Trong cuộc chạy đua vào Toà Bạch Ốc, đa số ứng viên đã lần lượt
rút lui sau những lần vận động tại một số tiểu bang mẫu như Iowa,
New Hampshire và South Carolina... và sau các cuộc tranh luận “so
tài” do các cơ quan ngôn luận tư nhân tổ chức và đặc biệt dựa
trên kết quả của các cuộc bầu cử sơ bộ tại các tiểu bang.
Ngoài các tiểu bang đông dân cư, có một số tiểu bang không phải
là những tiểu bang đông dân số, nhưng là những tiểu bang tiêu
biểu cho các khuynh hướng của cử tri và có tính cách thử thách
các ứng viên xem thử các ứng viên có được các tiểu bang nhỏ ủng
hộ, như Iowa tiêu biểu cho cử tri ngành nông nghiệp.
Từ
năm 1976, năm đầu tiên mà chúng tôi có dịp quan sát cuộc bầu TT
HK, Jimmy Cater thắng hạng nhì tại cuộc bầu cử sơ bộ tại Iowa,
sau đó đắc cử Tổng Thống. Đảng DC xem sự thành công sơ khởi tại
IOWA là một dấu hiệu tốt cho sự thành công trên toàn quốc.
Thử thách thứ hai thường được thực hiện tại New Hampshire,
nơi đây đa số cử tri không thuộc DC hay CH mà đa số là cử tri độc
lập (independent voter) là một địa bàn tốt thử thách các ứng viên
xem thử họ có khả năng thuyết phục các cử tri độc lập? Ngoài hai
tiểu bang nêu trên, đảng CH cũng xem tiểu bang South Carolina là
một thí điểm tốt để đo lường tâm lý của cử tri.
Các đại
hội sơ bộ thường do các tiểu bang tổ chức theo thời gian và điạ
điểm thuận tiện. California đổi đại hội sơ bộ từ tháng 6 qua ngày
5 tháng 2. Michigan và Florida tổ chức vào tháng 1. Các đại hội
sơ bộ được tổ chức vào ngày thứ ba trong tuần của nhiều tiểu bang
được mênh danh “Super Tuesday”. Trong trường hợp không có ứng
viên được đa số phiếu cấp bầu cử sơ bộ ấn định để được đại diện
đảng ra tranh cử TT, Đại hội đảng toàn quốc sẽ bỏ phiếu quyết
định theo phương thức “Brokered Convention” như đảng CH đã bàn
đến trước đây, nếu UCV Trump không đủ phiếu tín nhiệm ở cấp sơ
bộ.
Hiến pháp Hoa Kỳ ấn định cuộc bầu cử Tổng Thống được
tổ chức vào NGÀY THỨ BA sau ngày thứ Hai đầu tiên của tháng 11.
Các tiểu bang có tính cách phụ trợ quyết định thắng cử như New
Hampshire, Iowa, Ohio, Michigan, Pennsylvania, Florida, New
Mexixo là những Swing states mà các ứng cử viên cần tranh thủ cử
tri ngoài những tiểu bang có số cử tri tương đối cố định như các
“green states” bầu cho ứng viên Dân chủ hay “Red states” thường
bầu cho ứng viên Cộng hoà. Ứng viên đảng DC thường thắng phiếu
tại các tiểu bang Minnesota, Washington State, Oregon,
California, New York. Đảng CH thường thắng phiếu tại các tiểu
bang tại Trung và Đông Mỹ. Có những tiểu bang “yellow” là những
tiều bang có nhiều cử tri độc lập hay “swing state”, các ứng cử
viên Dân Chủ hay Cộng Hoà cần nỗ lực tranh thủ để thắng.
10. Thể thức đầu phiếu
Bầu phiếu phổ
thông được áp dụng cho hầu hết các cuộc bầu cử cấp tiểu bang và
liên bang theo thể thức bầu cử phổ thông (popular), đa số tương
đối (simple majority), trực tiếp (direct) và kín (secret). Đa số
tương đối có nghĩa là ứng cử viên nào được nhiều phiếu phổ thông
thì được đắc cử.
Tuy nhiên, đắc cử vào chức vụ Tổng Thống
Hoa Kỳ không chỉ căn cứ vào phiếu phổ thông (popular vote) mà còn
căn cứ vào phiếu của Cử tri đoàn (Electoral vote). Thông thường,
ứng cử viên nào thắng phiếu phổ thông thì thắng luôn phiếu cử tri
đoàn. Nhưng thỉnh thoảng có những trường hợp thất cử dù thắng
phiếu phổ thông nhưng thua phiếu cử tri đoàn. “Thi
không ngậm ớt thế mà cay”!
Trong cuộc bầu cử Tổng
Thống Hoa Kỳ năm 2000, ứng cử Viên Albert “AL” Gore có 600,000
phiếu phổ thông cao hơn phiếu phổ thông của ứng Cử Viên George W.
Bush. Tuy nhiên ứng cử viên George W. Bush thắng phiếu tại
Florida nên số phiếu cử tri đoàn cao hơn Al Gore.
Al Gore
khiếu nại và Tối Cao Pháp Viện tuyên bố George W. Bush đắc cử
Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2000–2004, không phải vì thắng phiếu
phổ thông mà nhờ được thắng phiếu cử tri đoàn. Muốn hiểu rõ thêm
trường hợp này xin đọc thêm án lệ (Bush vs. Gore, 531 US 98
(2000).
Sự kiện này cũng cho chúng ta thấy vai trò của Tối
Cao Pháp Viện quan trong như thế nào. Tân Tổng Thống nhiệm kỳ
2016–2020... sẽ có cơ hội bổ nhiệm các thẩm phán Tối Cao Pháp
Viện có cùng khuynh hướng chính trị trong thời gian 4 hay 8 năm
tới vì hiện nay có 3 vị thẩm phán Tối Cao pháp Viện trên 78 tuổi.
11. Phiếu Phổ Thông và Phiếu Cử Tri Đoàn
(Popular vote & Electoral vote)
Mỗi tiểu bang có
một số cử tri đoàn bằng 2 Nghị sĩ Liên bang và một số Dân biểu
Liên bang tùy theo dân số. Hoa Kỳ có 538 phiếu cử tri đoàn gồm
có: 100 Nghị sĩ Liên bang (US Senator) và 438 Dân biểu Liên bang
(US House of Representatives). California có 2 Nghị sĩ và 52 Dân
biểu, phiếu cử tri đoàn là 54. Số Dân biểu có thể được điều chỉnh
tùy theo dân số...
Muốn đắc cử Tổng Thống, ứng cử viên
phải hội đủ 270 phiếu cử tri đoàn trên 538 phiếu. Nghĩa là ít
nhất phải hơn đối thủ 2 phiếu. Ứng cử viên nào thắng phiếu phổ
thông tại tiểu bang sẽ thắng luôn phiếu của cử tri đoàn tại tiểu
bang đó. Trong lịch sử bầu cử Tồng Thống Hoa kỳ có vài trường hợp
bất thường xảy ra. Năm 1787 Quốc Hội Hoa Kỳ đã tranh luận về vấn
đề bầu cử Tổng Thống và để dung hoà hai ý kiến: Tổng thống do
Quốc hội bầu hay do dân chúng bầu?
Quốc hội đã biểu quyết
dùng cả hai phương thức. Ngoài phiếu phổ thông, Tiểu bang có
nhiệm vụ chọn đại biểu vào Cử tri đoàn (Electoral College) cho
mỗi tiểu bang. Tổng số đại biểu của cử trì đoàn Hoa Kỳ bằng tổng
số Dân biểu và Nghị sĩ liên bang của 50 tiểu bang. (100 US Nghị
sĩ + 438 US Dân biểu = 538)
Lịch sử bầu Tổng Thống Hoa Kỳ
cũng đã ghi lại năm 1800, ứng cử viên Thomas Jefferson và ứng cử
viên AAron Burr mỗi người nhận 73 phiếu của Cử Tri đoàn. Sự kiện
này đã được trình Hạ Nghị Viện chiếu Hiến Pháp Hoa Kỳ để quyết
định, và Jefferson đã đắc cử. Cuộc bầu cử năm 1824 và 1876 cũng
do Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ quyết định mặc dù ứng cử viên trong hai
cuộc bầu cử này không nhận được đa số phiếu phổ thông.
Năm
2000, Tối Cao Pháp Viện phán xét cho George W.Bush đắc cử chức vụ
Tổng Thống nhờ có phiếu cử tri đoàn cao hơn phiếu cử tri đoàn của
Al Gore, nhưng phiếu phổ thông của Al Gore cao hơn phiếu phổ
thông của George W. Bush.
Hiện nay có khoảng 200 triệu
người ghi danh bầu cử trên toàn quốc Hoa Kỳ. Ứng cử viên Tổng
Thống nào thắng đa số phiếu phổ thông (popular vote) sẽ thắng
(winner–take all) phiếu cử tri đoàn (electoral vote) tại tiểu
bang đó. Muốn thắng cử, UCV Tổng Thống phải đạt được 270 phiếu cử
tri đoàn trên 538 phiếu.
Vấn đề sai biệt giữa phiếu cử tri
đoàn và phiếu phổ thông có thể xảy ra vì sự sai biệt dân số và cử
tri đoàn giữa các tiểu bang không thể quân phân chính xác với số
Dân biểu và Nghị sĩ của các tiểu bang. Do đó đã xảy ra trường
hợp, một ứng viên có đa số phiếu phổ thông nhưng lại không có đủ
số phiếu cử tri đoàn như trường hợp Al Gore năm 2000.
Tất
cả các khiếu nại, nếu có, về bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ sẽ được
chung quyết bởi Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (US Supreme Court) nếu
các biện pháp hành chánh không đạt được kết quả.
Trần Xuân Thời
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Danh sách những Bài viết của Tác giả Trần Xuân Thời
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Trần Xuân Thời chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, July 13, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang