Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
SĐTQLC/QLVNCH
Tác giả:
MX Trần Văn Hiển
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Phái Đoàn chính phủ VNCH
thăm và ủy lạo các Chiến Sĩ Tiểu Đoàn 2
Trâu Điên–TQLC tại
Hậu Cứ Tam Bình–Thủ Đức ngày 28 tháng 12 năm 1968.
Giữa :
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu & Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ &
một số
quan chức cùng tướng lãnh VNCH khác.
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt
Nam Cộng Hòa (tiếng Anh: Republic of Vietnam Marine Division,
RVNMD) là 1 đại đơn vị quy mô cấp Sư Đoàn, trực thuộc lực lượng
Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Đây được xem là một trong 4 lực lượng
thiện chiến cơ động nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (3 lực
lượng còn lại gồm Sư Đoàn Nhảy Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, và Lực Lượng Biệt Động Quân Việt
Nam Cộng Hòa).
Nhiệm vụ chính của lực lượng cơ động
Hành Quân Thủy Bộ, kiểm soát vùng biển và sông ngòi Miền Nam, với
địa bàn chiến đấu khắp bốn vùng chiến thuật và mặt trận ngoại
biên.
Đây là
đơn vị được tổ chức, chiến đấu và huấn luyện rập khuôn theo Thủy
Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (USMC), được nhận xét như là đơn vị thiện
chiến dày dặn kinh nghiệm nhất trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Lịch Sử:
Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam
Cộng Hòa có nguồn gốc từ thời kỳ Pháp. Năm 1949, theo Thỏa ước
Pháp–Việt, lực lượng vũ trang của Chính Phủ Quốc gia Việt Nam sẽ
bao gồm lực lượng Hải Quân, với tổ chức và huấn luyện do phía hải
quân Pháp đảm nhiệm. Năm 1951, Pháp đề nghị phương án phát triển
Hải Quân Việt Nam, theo đó sẽ thành lập hai Sư Đoàn Hải Quân, do
Pháp chỉ huy. Tháng 3 năm 1952, Sắc Lệnh số 2 của Đế chế Pháp
chính thức xác lập Hải Quân Việt Nam. Tới năm sau, hai sư đoàn
Hải Quân được thiết lập.
TQLC, Giai Ðoạn Chuyển Tiếp:
Ngay trong năm 1953, hai chính phủ Pháp
và Việt Nam đã thỏa thuận gia tăng Lực Lượng Bộ Binh Việt Nam lên
đến 57 tiểu đoàn hầu đáp ứng nhu cầu hành quân, và mở thêm nhiều
cuộc hành quân đến các vùng duyên hải. Do đó, việc gia tăng lực
lượng Hải Quân cũng được coi là quan trọng. Khi nghiên cứu quyền
chỉ huy các lực lượng hỗn hợp hành quân trong sông ngòi, Ðô Ðốc
người Pháp là Auboyneau đưa ra đề nghị thành lập đơn vị mang tên
là Bộ Binh Hải Quân. Vào năm 1954, khi quân Pháp bắt đầu rút lui
khỏi Việt Nam, thì đơn vị Bộ Binh Hải Quân còn nằm trong tổ chức
của Hải Quân, mới chỉ có một Bộ Chỉ Huy, 4 Giang Ðoàn, và những
Ðại Ðội Biệt Kích (Commando) hành quân biệt lập.
Sau khi Quân Ðội Pháp rút khỏi Viện Nam
vào cuối năm 1954, Chính Phủ và Quân Ðội Hoa Kỳ trực tiếp đóng
vai trò quân viện và trợ giúp Quân Ðội Nam Việt Nam tái tổ chức.
Một sĩ quan TQLC trong Cơ Quan Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ (USMAAG)
là Trung tá Victor J. Croizat, sau nhiều cuộc tiếp xúc và thảo
luận chính thức để xúc tiến việc thành lập Binh Chủng mới với
chính phủ Việt Nam, thì ngày 13 tháng 10 năm 1954, Thủ tướng Ngô
Đình Diệm ký Nghị Ðịnh số 991/NĐ, trong đó, điều 1 và 3 ghi rõ:
Điều 1: Hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 10
năm 1954, thành lập trong Tổ Chức Hải Quân VN, một Binh Chủng Bộ
Binh, đặc trách kiểm soát các thủy trình và những cuộc hành quân
thủy bộ dọc theo bờ biển Nam Hải và trong sông ngòi, mang tên:
“Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến”.
Điều 3: Binh Chủng TQLC sẽ gồm nhiều
đơn vị khác nhau, tùy theo nhiệm vụ, đã có sẵn trong các Quân
Chủng Lục Quân và Hải Quân, hay sẽ được thành lập sau nay, tùy
theo kế hoạch phát triển của Quân Đội Nam VN.
Chiếu theo Nghị Ðịnh này, những Ðại Ðội
Biệt Kích, Ðại Ðội Yểm Trợ, và Giang Ðoàn, từ hai Quân Chủng Hải
và Lục quân được sáp nhập để thành lập Binh Chủng TQLC. Nhiều đơn
vị Biệt Kích Hải Quân, từng hoạt động trong vùng đồng bằng sông
Hồng Hà Bắc Việt tỏ ra rất hữu hiệu. Ðoàn tàu xung kích đó thường
gồm trên 10 chiếc, với những chiến đĩnh chở quân đổ bộ võ trang,
chiến đĩnh yểm trợ hỏa lực, và chiến đĩnh chỉ huy. Một Ðại Ðội
Biệt Kích, quân số khoảng 100 người, đặt dưới quyền điều động của
một BCH Hải Quân. Với lực lượng và hỏa lực như vậy, đoàn tàu xung
kích có khả năng điều động những đơn vị bộ binh tác chiến, đổ bộ
lên những vùng địa thế hiểm trở, với hỏa lực yểm trợ tiếp cận
hùng hậu của dại liên, đại bác trực xạ, và súng cối tầm xa. Những
cuộc hành quân loại này đã đạt được nhiều kết quả trong khu vực
sông Hồng Hà, là nơi có nhiều sông ngòi và có nhiều đơn vị Cộng
sản trú ẩn.
Ðệ
I Tiểu Đoàn Bộ Binh Hải Quân (1er Bataillon de L'infanterie
Marine) đầu tiên được thành lập từ những Ðại Ðội Biệt Kích dưới
quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp, đồn trú tại căn cứ gần Trung
Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Cũng vào thời gian đầu này,
Trung tá Lê Quang Trọng được Thủ tướng Ngô Ðình Diệm bổ nhiệm làm
Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Binh Chủng TQLC và Trung tá Croizat
cũng được USMAAG cử làm Cố Vấn Trưởng đầu tiên. Những thành phần
còn lại của Binh Chủng trong khi đó vẫn còn phân tán ở nhiều nơi,
từ Huế vào đến vùng Châu Thổ sông Cửu Long như: 6 Đại Ðội Giang
Thuyền, 5 Đại Ðội Yểm Trợ Tác Chiến, và 1 đoàn chiến thuyền huấn
luyện. Vì chưa có Bộ Chỉ Huy chính thức, nên Trung tá Trọng gần
như cách biệt với các đơn vị dưới quyền của ông. Với một tổ chức
và tên tuổi mới mẻ, Binh Chủng TQLC đã gặp rất nhiều khó khăn.
Trước nhất, và có lẽ là nguyên do chính, dù đã có nghị định thành
lập của Thủ tướng Diệm, Binh Chủng TQLC thực tế vẫn ở trong vị
thế “bán chính thức”. Một cố vấn HK đã giải thích: “Binh Chủng
TQLC/VN ít được ai biết tới. Họ gồm nhiều đơn vị không đồng nhất,
lại đồn trú rải rác quá nhiều nơi, từ Huế vào đến vùng Châu Thổ
Cửu Long”. Trên thực tế, những đơn vị đồn trú phân tán đó, vẫn do
đạo quân viễn chinh Pháp yểm trợ về tiếp vận tiếp liệu, cho thấy
rõ tình trạng “lệ thuộc” của Binh Chủng. Kế đến, trở ngại đến từ
phía người Pháp. Sĩ quan Pháp vẫn nắm giữ các chức vụ chỉ huy các
đơn vị. Binh Chủng TQLC lại nằm trong hệ thống tổ chức của Hải
Quân. Dưới sự thỏa thuận của Pháp và Hoa Kỳ trong giai đoạn đầu
chuyển tiếp, Hải Quân và Không Quân VN do các sĩ quan Pháp trách
nhiệm tổ chức và huấn luyện. Một vị Ðại tá Pháp giữ 2 nhiệm vụ,
vừa là Trưởng Tiểu Ban Thành Lập và Huấn Luyện Hải Quân, vừa là
Tư Lệnh Hải Quân Nam VN. Điều này đã dành cho vị sĩ quan Hải Quân
Pháp toàn quyền duyệt xét và quyết định những đề nghị đưa lên từ
phía Cố vấn TQLC Hoa Kỳ. Vấn đề thêm phức tạp, Tiểu Đoàn Trưởng
Ðệ I Tiểu Ðoàn Bộ Binh Hải Quân lúc đó lại là Thiếu tá người Pháp
tên là Souquet, TÐP là Đại úy Jean Louis Delayen, Ðại Ðội Trưởng
CH là Đại úy Roger Bùi Phó Chí. Kế hoạch giải ngũ chung trong
quân đội Nam VN theo hiệp định Genève cũng đưa đến nhiều trở ngại
cho Binh Chủng TQLC vào đầu năm 1955. Theo sự thỏa thuận của hai
Chánh phủ HK và Nam VN, quân số của Hải Quân được ấn định là
3,000 người, trong đó TQLC đã có tới 2,400, vừa sĩ quan lẫn binh
sĩ, được lệnh phải giảm xuống còn 1,137 người. Vì Binh Chủng TQLC
chưa có Bộ Chỉ Huy Trung Ương và chưa có thực quyền, ngay cả
nhiệm vụ là tập trung các đơn vị, nên đã xảy ra nhiều vấn đề khó
khăn và phức tạp về quản trị hành chánh. Do đó, việc thành lập và
phát triển Binh Chủng TQLC lúc đầu đã gặp rất nhiều trở ngại.
Binh Chủng TQLC/VN nằm trong tay 3 nhân
vật chính:
–
Thiếu tá Souquet,
– Trung tá Victor J.
Croizat, và
– Trung tá Lê Quang Trọng.
Thời gian đầu năm 1955, về chính trị,
chính phủ Ngô Đình Diệm gặp khó khăn liên tiếp do những tranh
chấp nội bộ, gây tê liệt không ít đến nỗ lực xây dựng một Quốc
Gia chống Cộng do các phe phái tại Nam VN. Vào tháng 2, các nhà
lãnh đạo Giáo Phái Hòa Hảo, Cao Đài, và tổ chức Binh Xuyên bất
mãn với chính phủ của Thủ tướng Diệm vì đã không thỏa mãn những
yêu sách của họ, liên kết thành một tổ chức lấy tên “Mặt Trận
Liên Hiệp Lực Lượng Quốc Gia”. Cuối tháng 3, tổ chức này cảm thấy
lực lượng của họ đủ mạnh để đương đầu với quân chính phủ, đã tạo
ra những cuộc giao tranh quân sự. Lực lượng của Giáo Phái Hòa Hảo
mở những trận đánh du kích vào lực lượng chính phủ trong vùng căn
cứ địa của Giáo Phái ở Châu Đốc, phía Tây Nam Sài Gòn. Ngày 28
tháng 3, Thủ tướng Diệm ra lệnh cho một đơn vị Nhảy Dù tấn công
và chiếm Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, lúc đó Pháp trao quyền
kiểm soát cho Binh Xuyên. Nhiều cuộc chạm súng dữ dội giữa quân
chính phủ và lực lượng Bình Xuyên đã xảy ra trên các đường phố
Sài Gòn và Chợ Lớn. Sau 3 ngày giao chiến, qua sự dàn xếp của
Tướng Paul Ely, quân chính phủ và Bình xuyên ngưng bắn. Ngày 31,
lực lương quân sự Cao Đài của Thiếu tướng Trịnh Minh Thế tuyên bố
ly khai Mặt Trận Liên Hiệp về hợp tác với chính phủ Ngô Ðình Diệm
và sáp nhập các đơn vị võ trang vào quân đội Quốc gia. Cuộc hòa
hoãn giữa quân chính phủ và Bình Xuyên kéo dài không lâu. Ngày 28
tháng 4, cuộc đụng độ quân sự lại tái phát. Tới giữa tháng 5, lực
lượng của quân chính phủ đẩy lui được quân đội Bình Xuyên ra khỏi
Sài Gòn và Chợ Lớn, gây rạn nứt trong hàng ngũ lãnh đạo của tổ
chức này. Tàn quân của Bình Xuyên đã rút lui vào mật khu Rừng
Sát, phía Nam Sài Gòn, vùng rừng cây đước mọc chằng chịt và địa
thế sình lầy dễ lẩn tránh và chiến đấu từng toán nhỏ.
Binh Chủng TQLC đã được chính phủ tin
tưởng sau những chiến thắng khởi đầu cuộc chính biến. Ngày 1
tháng 5 năm 1955, Trung tá Lê quang Trọng thiết lập bản doanh và
Bộ Chỉ Huy chính thức tại Trại Cửu Long, Thị Nghè, sau được dời
về số 15 Lê Thánh Tôn Sài Gòn sau cuộc Cách Mạng lật đổ Tổng
thống Ngô Ðình Diệm tháng 11 năm 1963. Thủ tướng Diệm bổ nhiệm
Đại úy Bùi Phó Chí làm Tiểu Đoàn Trưởng Ðệ I Tiểu Đoàn Bộ Binh
Hải Quân thay thế Thiếu tá Souquet. Các sĩ quan Pháp chỉ còn giữ
chức vụ cố vấn. Vào cuối tháng 6, Thủ tướng Diệm thay thế tất cả
sĩ quan Pháp đang giữ chức vụ chỉ huy trong Hải Quân bằng sĩ quan
VN. Việc thay đổi này đã làm giảm thiểu ảnh hưởng người Pháp
trong Quân Ðội và cũng từ đó, TQLC/VN được điều động bởi Bộ Tổng
Tham Mưu trung ương nhiều hơn. Tại vùng nông thôn phía Nam Sài
Gòn, lực lượng gần 30 tiểu đoàn quân chính phủ, trong đó có Tiểu
Đoàn Bộ Binh Hải Quân, mở những cuộc tấn công vào các đơn vị chủ
lực và bán quân sự của Giáo phái Hòa Hảo. Cuối tháng 6, thủ lãnh
Ba Cụt bị bắt, Năm Lửa quy hàng với trên 8,000 quân và ra lệnh
ngưng các hành động chống đối chính phủ. Ðệ I Tiểu Đoàn Bộ Binh
Hải Quân đã đánh một trận quyết định với lực lượng Hòa Hảo tại
tỉnh Kiên Giang, cách Sài Gòn 120 cây số về phía Tây Nam, chiếm
được bản doanh và tiêu diệt lực lượng này. Đoạn kết của cuộc xung
đột Giáo Phái được đánh dấu bằng cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc
ngày 23 tháng 10 bầu vị nguyên thủ Miền Nam. Kết quả, Thủ tướng
Diệm đạt được tỷ lệ số phiếu 98% so với Cựu Hoàng Bảo Đại. Và,
ngày 26 tháng 10, tân Tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên bố Quốc Hiệu
của Miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa.
Cuối năm 1955, Ðệ I Tiểu Đoàn Bộ Binh
Hải Quân, sử dụng các đại đội Giang Thuyền tấn công những ổ kháng
cự cuối cùng của Bình Xuyên tại Rừng Sát, đánh dấu sự tan rã hoàn
toàn của các lực lượng chống đối chính phủ. Ngày 18 tháng 1 năm
1956, Tổng thống Diệm bổ nhiệm Thiếu tá Phạm Văn Liễu làm Chỉ Huy
Trưởng TQLC, vị CHT thứ 2 của Binh Chủng, thay thế Trung tá Lê
Quang Trọng đi giữ chức Tư Lệnh SÐ Bộ Binh.
Các vị Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ1/TQLC gồm:
– Thiếu tá Souquet (1954),
– Đại úy Bùi Phó Chí (1955),
– Trung
úy Ngụy Văn Thanh (1956),
– Đại úy
Nguyễn Văn Tài (1958),
– Đại úy Lê
Nguyên Khang (1960),
– Trung úy Trần
Văn Nhựt (1960),
– Đại úy Tôn Thất Soạn
(1964),
– Đại úy Phan Văn Thắng (1966),
– Thiếu tá Nguyễn Thành Trí (1969),
–
Thiếu tá Nguyễn Ðằng Tống (1970),
–
Thiếu tá Nguyễn Ðăng Hòa (1972), và
–
Thiếu tá Dương văn Hưng (1975).
Quân Phục và Trang Bị
Từ khởi đầu cho đến năm 1960, TQLC mang
quân phục hỗn hợp tương tự như Hải Quân và như Lục Quân VN, đội
nón beret xanh có hai mỏ neo chéo nhau. Nhưng từ năm 1960 trở đi,
nhằm tạo niềm tự hào Binh Chủng (Esprit de Corps), quân phục tác
chiến của Binh Chủng màu ngụy trang bệt đen và xanh lá cây sóng
biển, còn được gọi là da cọp. Huy hiệu Binh Chủng cũng được dùng
từ thời gian này, lấy mẫu từ huy hiệu của TQLC HK, con Ó đứng
trên quả cầu, mỏ neo bắt chéo, có thêm đặc điểm là ngôi sao đỏ
bên trong có bản đồ VN màu Vàng. Huy hiệu được gắn trên mũ beret
và trên cánh tay áo trái. TQLC cũng dùng mũ lưỡi trai và nón sắt
bọc vải ngụy trang như TQLC HK. Giữa thập niên 1960, huấn luyện
viên quân sự và cơ bản thao diễn tại TTHL/TQLC còn dùng mũ nỉ
vành rộng màu nâu “Smokey the Bear hat”. Quân phục ka–ki vàng,
các loại quân phục dạo phố mùa hè, mùa đông, và đại lễ cũng tương
tự như Hải Quân, nhưng về cấp bậc, thay vì màu Vàng, TQLC dùng
màu kim tuyến Trắng.
Từ khi thành lập cho đến giữa thập niên
1960, TQLC giữ nguyên trang bị các loại vũ khí từ thời Pháp. Ðến
giữa năm 1963, một số súng AR15 và M79 được trang bị cho TQLC
nhưng còn mang tính cách trắc nghiệm. Mãi đến 1967, TQLC mới hoàn
toàn được trang bị súng trường mới M16 cùng với súng phóng lựu
M79, đại liên M60 và hỏa tiễn chống chiến xa M72. Trong trận
chiến Mùa Hè 1972, TQLC còn được trang bi thêm hỏa tiễn điều
khiển TOW chống chiến xa.
Cải Tổ và Phát Triển
Qua năm 1956, quân số của Binh Chủng
giảm xuống còn khoảng 1,800 người, mặc dầu vẫn duy trì hệ thống
tổ chức như lúc đầu, gồm có 6 Ðại Ðội Hải Thuyền, 5 đại đội Yểm
Trợ nhẹ, 1 Tiểu đoàn Bộ Binh, và 1 Bộ Chỉ Huy. Sau hơn nửa năm
nghiên cứu của bộ tham mưu và được các cố vấn HK yểm trợ, ngày 21
tháng 12, Thiếu tá Liễu đệ trình lên Bộ Tổng Tham Mưu kế hoạch
cải tổ mới với 2 điểm đặc biệt là:
–Thành lập thêm 1 tiểu đoàn bộ binh
TQLC mà quân số không quá mức ấn định, và
– Nâng Binh Chủng thành Liên Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Bộ Tổng Tham Mưu chấp thuận những đề
nghị của TQLC đưa lên. Kế hoạch phát triển khởi sự vào tháng 2
năm 1956 khi Tiểu Đoàn 1 Bộ Binh TQLC hoàn tất công tác “dẹp
loạn” trở về hậu cứ Nha Trang. Tất cả những đại đội Hải Thuyền và
Yểm trợ được giải tán. Ba đơn vị tân lập gồm có:
– Tiểu đoàn 2 Bộ Binh TQLC,
– Một Ðại Ðội Trọng Pháo 106ly, tiền thân của Pháo Binh TQLC, và
– Một Đại Ðội Chỉ Huy và Công Vụ Liên Ðoàn, tiền thân của TÐ Tổng
Hành Dinh.
Tiểu đoàn 2 Bộ Binh TQLC: Sau
khi chiến dịch Hoàng Diệu nhằm tảo thanh tàn quân Bình xuyên ở
Rừng Sát chấm dứt ngày 24/10/1955, Đại úy Nguyễn Kiên Hùng, CHT
Liên đoàn Tuần Giang và xung kích số 1, được chỉ định thành lập
Tiểu đoàn 2 Bộ Binh TQLC. Đơn vị tân lập đồn trú tại Long Hải, Bà
Rịa. Ðầu năm 1956, TÐ rời căn cứ về Rạch Dừa–Vũng Tàu. Tháng 6
năm 1957, một lần nữa, TÐ di chuyển bằng đường bộ ra Ba Ngòi,
tiếp nhận căn cứ Cam Ranh của Hải Quân Pháp trao lại, là nơi quân
đội Pháp đã dùng để huấn luyện lực lượng thủy bộ trong giai đoạn
cuối cuộc chiến Đông Dương. Với kết quả cải tổ này, sơ đồ tổ chức
của Tiểu Ðoàn TQLC/VN tương tự như sơ đồ tổ chức của Tiểu Ðoàn
TQLC Hoa Kỳ gồm 3 đại đội tác chiến, 1 đại đội vũ khí nặng, và 1
đại đội chỉ huy và công vụ. Mỗi đại đội tác chiến có 3 trung đội
khinh binh và 1 trung đội vũ khí cộng đồng. Và cũng như vậy, 1
trung đội khinh binh có 3 tiểu đội chiến đấu, mỗi tiểu đội có 3
tiểu tổ 3 binh sĩ (sau này, hệ thống tam chế được cải tổ thành tứ
chế). Vũ khí cá nhân trang bị cho các khinh binh là súng Carbine
M–1, loại vũ khí nhẹ từng được trang bị cho những đơn vị Commando
thời Pháp. Trung đội vũ khí cộng đồng được trang bị 6 khẩu trung
liên BAR (Browning Automatic Rifle). Đại đội vũ khí nặng của tiểu
đoàn gồm 1 trung đội 4 khẩu súng cối 81ly và một trung đội 2 khẩu
đại bác không giật 57ly. Trong khi kế hoạch cải tổ được tiến hành
tốt đẹp, BCH Liên Đoàn khởi sự kế hoạch phát triển Binh Chủng
thành Trung Đoàn. Với kế hoạch này, quân số TQLC sẽ tăng từ 1,837
lên 2,485 người, vẫn không vượt quá mức quân số ấn định của Hải
Quân và của QLVNCH, trong đó, Tiểu Ðoàn Bộ Binh TQLC thứ ba sẽ
được thành lập. Kế hoạch này cũng đề nghị, Binh Chủng TQLC sẽ trở
thành lực lượng Tổng Trừ Bị và được đặt trực tiếp dưới quyền điều
động cùa Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Mặc dù đề nghị này không được
chấp thuận ngay, nhưng đã trở thành kế hoạch phát triển sau đó.
Các vị Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ2 gồm:
– Đại úy Nguyễn Kiên Hùng (11/1955),
– Đại úy Hoàng A Sam (6/1956),
– Đại
úy Lê Nguyên Khang (9/1957),
– Đại úy
Nguyễn Hải Ðằng (5/1958),
– Đại úy
Nguyễn Thành Yên (7/1958),
– Trung úy
Dương Hạnh Phước (6/1960),
– Đại úy
Nguyễn Thành Yên (1/1961),
– Đại úy Cổ
Tấn Tinh Châu (11/1963),
– Đại úy Hoàng
Tích Thông (11/1964),
– Thiếu tá Lê Hằng
Minh (11/1965),
– Đại úy Ngô Văn Ðịnh
(6/1966),
– Thiếu tá Nguyễn Kim Ðễ
XLTV/TÐ (3/1969),
– Thiếu tá Nguyễn Xuân
Phúc (5/1969), và
– Thiếu tá Trần văn
Hợp (5/72–4/1975).
Đầu tháng 8 năm 1956, Tổng thống Diệm
bổ nhiệm Đại úy Bùi Phó Chí, lúc đó đang làm Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 1 Bộ Binh TQLC, kiêm nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Liên
Đoàn TQLC thay thế Thiếu tá Phạm Văn Liễu. Ðến ngày 1 tháng 10,
Thiếu tá Lê Như Hùng được bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng thứ 4 của
Binh Chủng.
Tiểu
Ðoàn 3 Bộ Binh TQLC: Ngày 1/9/1957 Đại úy Lê Nguyên Khang được ủy thác thành lập
Tiểu
Ðoàn 3 Bộ Binh TQLC. Đại úy Trần Trung Ái, XLTV
[xử lý thường
vụ] chức vụ Tiểu đoàn Trưởng một thời gian ngắn rồi được thuyên
chuyển về làm Trưởng ban Tâm lý chiến Liên đoàn và Đại úy Nguyễn
kiên Hùng lên thay. Kể từ năm 1957 đến 1971 Hậu cứ của TĐ3 được
lần lượt qua các nơi như Thủy Xưởng Miền Đông thuộc BTL Hải Quân
đến trại Hoàng Diệu, trại Chương Dương, trại Ngô Xuân Soạn ở Thủ
Đức. Từ Năm 1971, hậu cứ TÐ3 được di chuyển vào Căn Cứ Sóng Thần,
Dĩ An. Sau ngày lễ xuất quân tại Gò Dưa, Thủ Ðức, Tiểu Ðoàn 3 mở
những cuộc hành quân an ninh tại Đức Hòa, Đức Huệ (Hậu Nghĩa),
yểm trợ mở đường xuyên qua khu rừng Cò Mi (sau này là đường xa lộ
từ Dĩ An đến Bình Dương). Rồi TĐ3 bất ngờ đổ bộ lên đảo Phú Quốc,
vùng Đá Bạc (U Minh) để phá tan hậu cần của CS. TÐ3 là đơn vị
tiên phong đột nhập và tiến chiếm Cổ Thành Quảng Trị cùng với các
TÐ khác trong ngày 15 tháng 9 năm 1972.
Tiểu Ðoàn 3/TQLC được chỉ huy bởi các
TÐT sau đây:
–
Đại úy Lê Nguyên Khang (9/1957),
– Đại
úy Trần Trung Ái (1959),
– Đại úy
Nguyễn Kiên Hùng (1959),
– Đại úy Mã
Viết Bằng (1961),
– Đại úy Dương Hạnh
Phước (1962),
– Đại úy Mã Viết Bằng
(5/1963),
– Đại úy Tôn Thất Soạn
(12/1963),
– Thiếu tá Nguyễn Thành Yên
(1/1964),
– Thiếu tá Nguyễn Thế Lương
(12/1964),
– Đại úy Nguyễn Năng Bảo
(6/1966),
– Thiếu tá Phạm Văn Sắt
(5/1969),
– Thiếu tá Nguyễn Năng Bảo
(9/1969),
– Thiếu tá Lê Bá Bình (1971),
– Thiếu tá Nguyễn Văn Cảnh (1972), và
–
Thiếu tá Nguyễn Văn Sử (1974).
Tiểu đoàn 4/TQLC được thành lập tại
trại Cửu Long, Thị Nghè, Gia Định vào đầu tháng 9/1961. Sau khi
hoàn tất huấn luyện, TĐ di chuyển đồn trú hậu cứ tại trại Hoàng
Hoa Thám, đường Lê Lợi, thị xã Vũng Tàu vào đầu tháng 3/1962.
Tiểu Ðoàn Trưởng đầu tiên là Đại úy Bùi Thế Lân và TĐP là Đại
úy Tôn Thất Soạn vừa mãn khóa Tham Mưu Hành quân Thủy Bộ Mỹ trở
về. Lần xuất quân đầu tiên mang tên Sơn Dương 2, những Cọp Biển
TĐ4/TQLC đã thực hiện một cuộc hành quân đổ bộ vô tiền khoáng hậu
trong lịch sử TQLC bằng những ghe đánh cá bằng gỗ và những xuồng
tam bản trong khi biển động. Không có chiến đĩnh yểm trợ và không
có hải pháo dọn bãi, TĐ4 đã hành quân tàn phá mật khu Lê Hồng
Phong ở phía Tây Bắc quận Mũi Né, Phan Thiết, phá hủy toàn bộ các
mật khu Đằng Kia, Ara Salour ở Tây Nam Phan Thiết, các doanh
trại, các khu canh tác, tịch thu nhiều tiếp liệu phẩm từ miền Bắc
đưa vào. Đây là mật khu bất khả xâm phạm từ thời chiến tranh Pháp
trước năm 1954.
Các vị Tiểu Ðoàn Trưởng của Tiểu đoàn
4/TQLC gồm:
–
Đại úy Bùi Thế Lân (1961),
– Đại úy Lê
Hằng Minh (1963),
– Thiếu tá Nguyễn Kiên
Hùng (1964),
– Đại úy Nguyễn Văn Nho
(1964),
– Đại úy Nguyễn Thành Trí
(1965),
– Thiếu tá Ðỗ Ðình Vượng (1968),
– Thiếu tá Võ Kỉnh (1969),
– Thiếu tá
Trần Xuân Quang (1971),
– Thiếu tá
Nguyễn Ðằng Tống (1972),
– Thiếu tá Trần
Ngọc Toàn (1973),
– Thiếu tá Đinh Long
Thành (3/1975), và
– Thiếu tá Trần Ngọc
Toàn (4/75).
Tháng 5 năm 1960, Thiếu tá Lê Nguyên Khang được bổ nhiệm giữ chức
CHT Liên Ðoàn TQLC. Để yểm trợ đặc biệt cho các cuộc hành quân,
các đại đội Yểm Trợ Thủy Bộ, Đại Ðội Vận Tải, Đại Ðội Truyền Tin,
Đại Dội Quân Y, kế tiếp nhau ra đời. Sau ngày Cách Mạng lật đổ
Tổng thống Ngô Ðình Diệm 1 tháng 11 năm 1963, Trung tá Nguyễn Bá
Liên lên giữ chức CHT Liên Ðoàn, Thiếu tá Trần Văn Nhựt giữ chức
Chỉ Huy Phó Liên Ðoàn. Sau cuộc chỉnh lý đầu năm 1964, Ðại tá Lê
Nguyên Khang được tái bổ nhiệm chức vụ CHT Liên Ðoàn TQLC, Thiếu
tá Bùi Thế Lân làm Tham Mưu Trưởng. Ngày 5 tháng 1 năm 1965, Binh
Chủng chính thức tách rời khỏi Quân Chủng Hải Quân, trực thuộc Bộ
TTM/QLVNCH về chỉ huy, điều động chiến thuật và yểm trợ tiếp vận.
Cùng với Nhảy Dù, TQLC là lực lượng Tổng Trừ Bị của Bộ
TTM/QLVNCH. Trong hai tuần lễ diễn biến chính trị đầu tháng 5 năm
này, Thiếu tướng Lê Nguyên Khang được chỉ định kiêm nhiệm chức Tư
Lệnh Hải Quân thay thế Ðề Ðốc Chung Tấn Cang. Sau khi tách rời
khỏi Hải Quân, ngày 1 tháng 10 năm 1965, Liên Ðoàn TQLC được cải
danh thành Lữ Ðoàn TQLC và danh xưng CHT cũng được đổi thành Tư
Lệnh. Ngày 1 tháng 10 năm 1968, ngày Sinh Nhật Binh Chủng TQLC
thứ 14, là ngày Lữ Ðoàn TQLC được nâng lên thành Sư Đoàn TQLC.
Các đơn vị yểm trợ cũng tăng cấp thành Tiểu Ðoàn như: Tiểu Ðoàn
Yểm Trợ Thủy Bộ, Truyền Tin, Công Binh, Quân Y.
Trước đó năm 1964, vì nhu cầu chiến
thuật, hai Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn A và
Chiến Ðoàn B được thành lập
để chỉ huy các TĐ/TQLC tăng phái hành quân tại lãnh thổ các Quân
Khu và Vùng Chiến Thuật. Cuối năm 1964, Trung tá Nguyễn Thành Yên
Chỉ Huy Phó Liên Ðoàn kiêm nhiệm chức vụ Chiến Ðoàn Trưỏng CÐA.
Trung tá Tôn Thất Soạn được bổ nhiệm chính thức chức CÐT/CÐB vào
cuối năm 1965. Cuối năm 1967, sau khi thụ huấn khóa Chỉ Huy Tham
Mưu Trung Cấp Ðà Lạt trở về, Thiếu tá Hoàng Tích Thông được bổ
nhiệm làm CÐT/CÐA thay thế Đại tá Nguyễn Thành Yên lên chức Tư
Lênh Phó Lữ Ðoàn TQLC. Ngày 1 tháng 10 năm 1968, hai BCH/Chiến
đoàn A và B được cải danh thành hai BCH/Lữ đoàn 147 và 258. Sau
cuộc hành quân Lam Sơn 719, tháng 4 năm 1971, Đại tá Hoàng Tích
Thông rời Binh Chủng, bàn giao LÐ147 cho Trung tá Nguyễn Năng
Bảo, lúc BCH/LÐ đang đóng tại khu vực La Vang, Quảng Trị. Tháng 7
năm 1974, Trung tá Ðỗ Hữu Tùng XLTV/LÐT thế Đại tá Bảo theo học
khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Long Bình. Tháng 11/74, Đại tá
Nguyễn Thế Lương sau khi mãn khóa học CHTM Cao Cấp, giữ chức vụ
LÐT/147 thay Trung tá Tùng và chỉ huy LÐ cho đến cuối tháng
3/1975, khi toàn bộ LÐ bị Cộng quân bao vây trên lộ trình triệt
thoái từ Huế về Ðà Nẵng dọc theo bờ biển, bị bắt làm tù binh gần
cửa biển Thuận An, Huế.
Tháng 6 năm 1970, Đại tá Soạn bàn giao
LÐ258 lại cho Trung tá Nguyễn Thành Trí để theo học Khóa Chỉ Huy
Tham Mưu Cao Cấp Ðà Lạt. Sau khóa học, Đại tá Soạn về giữ chức
Trưởng Phòng Tổng Thanh Tra SÐ/TQLC. Ðầu tháng 4/1971, Trung tá
Trí được vinh thăng đại tá. Ðến tháng 7, tại căn cứ hành quân ở
Mai Lộc, Quảng Trị, Đại tá Trí bàn giao LÐ lại cho Trung tá Ngô
Văn Ðịnh vừa mãn khóa CHTM Cao Cấp Ðà Lạt, để du học khóa Command
and Staff College TQLC Hoa Kỳ. Khi trở về, Đại tá Trí được bổ
nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn. Tháng 12 năm 1974, Đại tá
Ðịnh bàn giao LÐ258 cho Đại tá Nguyễn Năng Bảo vừa mãn khóa học
CHTM Cao Cấp, để đi thành lập LÐ468. Đại tá Lê Ðình Quế, giữ chức
vụ Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn từ năm 1970 đến 1975. Trước đó nhiều
năm, ông giữ chức Tham Mưu Phó Hành Quân Tiếp Vận, Chánh Văn
Phòng cho Tướng Tư Lệnh Lê Nguyên Khang và là sĩ quan tham mưu ở
Bộ Chỉ Huy khi Binh Chủng còn là Liên Ðoàn và Lữ Ðoàn.
Vì nhu cầu chiến trường, BCH/LÐ369 được
thành lập vào cuối tháng 11 năm 1969, Trung tá Ngô Văn Ðịnh là vị
LÐT đầu tiên. Thành lập xong vào tháng 4 năm 1970, xuất quân sang
Kampuchia tham dự cuộc hành quân Toàn thắng 42 do Quân Ðoàn IV tổ
chức, thay thế Đại tá Tôn Thất Soạn và BCH/LÐ258 trở về hậu cứ.
Cuối tháng 12, Trung tá Ðịnh bàn giao LÐ cho Trung tá Phạm Văn
Chung để về nước theo học khóa CHTM Cao Cấp Ðà Lạt. LÐ369 chấm
dứt hành quân tại xứ Chùa Tháp cuối tháng 1 năm 1971 trở về nước
tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại vùng Khe Sanh, Quảng Trị. Trung
tá Chung được vinh thăng đại tá tháng 6/1971 sau cuộc hành quân
Lam Sơn 810 tại mật khu Ba Lòng. Tháng 5/1972, Đại tá Chung bàn
giao LÐ cho Trung tá Nguyễn Thế Lương để đảm nhận chức vụ TMT
Hành Quân Sư Ðoàn. Sau chiến dịch tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị,
Trung tá Nguyễn Thế Lương được vinh thăng đại tá. Tháng 7/1974,
Đại tá Lương bàn giao LÐ cho Trung tá Nguyễn Xuân Phúc để về Sài
Gòn theo học khóa CHTM Cao Cấp. Trung tá Phúc LÐT và Trung tá Ðỗ
Hữu Tùng LÐP được ghi nhận là mất tích sau cuộc triệt thoái của
Sư Ðoàn khỏi bãi biển Non Nước, Ðà Nẵng ngày 29 tháng 3/1975.
Tiểu Ðoàn 5/TQLC được thành lập vào
cuối năm 1964, hậu cứ tại Suối Lồ Ô (Dĩ An, Biên Hòa), trước là
Trại Thanh Nữ Cộng Hòa dưới thời Tổng thống Diệm. Vị Tiểu Ðoàn
Trưởng đầu tiên là Thiếu tá Nguyễn Văn Tính. Sau khi huấn luyện
và bổ sung quân số và trang bị tại chỗ theo đúng bản cấp số, TĐ5
được bàn giao cho Thiếu tá Dương Hạnh Phước và bắt đầu tham dự
những cuộc hành quân tại Dakto, Toumorong (Vùng 2 Chiến Thuật),
nhất là trận giải vây trại Lực Lượng Biên Phòng Đức Cơ, nằm sát
biên giới Lào–Việt…
Các vị Tiểu Ðoàn Trưởng của Tiểu đoàn
5/TQLC gồm:
–
Thiếu tá Nguyễn Văn Tính,
– Thiếu tá
Dương Hạnh Phước ,
– Thiếu tá Phạm Nhã
(1967),
– Thiếu tá Trần Văn Hiển (1969),
– Thiếu tá Võ Trí Huệ (1970),
– Thiếu tá
Hồ Quang Lịch (1972),
– Thiếu tá Ðinh
Xuân Lãm (1974), và
– Thiếu tá Phạm văn
Tiền (1975).
Tiểu đoàn 6/TQLC được thành lập vào tháng 8 năm 1966 bởi Thiếu tá
Phạm Văn Chung và Đại úy Trần Văn Hiển làm TĐP. Các Ðại Ðội
Trưởng gồm: Trung úy Nguyễn Ðình Thủy ÐÐ1, Trung úy Nguyễn
Tường Huy ÐÐ2, Trung úy Lê Văn Huyền ÐÐ3, Trung úy Lê văn Cưu
ÐÐ4, và Đại úy Hoàng Trọng Ðộ ÐÐCH, Trưởng Ban 3 là Trung úy
Trần Ðình Thụy. Lễ xuất quân được tổ chức vào cuối Thu 1967. Nơi
thử lửa đầu tiên là vùng sình lầy Ðặc Khu Rừng Sát. TĐ chịu trách
nhiệm bảo vệ an ninh sông Lòng Tào, thủy trình từ sông Sài Gòn ra
cửa Cần Giờ. Tháng 4/1968 Thiếu tá Chung bàn giao TĐ cho Thiếu tá
Nguyễn Xuân Phúc để nhận chức CHT Trung Tâm Huấn luyện TQLC tại
Rừng Cấm, Thủ Đức.
Các vị Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ6 gồm:
– Thiếu tá Phạm Văn Chung (1966),
– Thiếu tá Nguyễn Xuân Phúc (1968),
–
Trung tá Nguyễn Thế Lương (1968),
–
Thiếu tá Ðỗ Hữu Tùng (1969),
– Thiếu tá
Trần Văn Hiển (1972), và
– Trung tá Lê
Bá Bình (1974).
Trung Tâm Huấn Luyện TQLC: Năm 1961, TQLC chỉ có một Trung Ðội
Huấn Luyện đặt tại hậu cứ TÐ2/TQLC ở Cam Ranh. Năm 1962, biến
thành Ðại Ðội Huấn Luyện và di chuyển về Trại Yết Kiêu, Thủ Ðúc.
Ðến năm 1968 theo đà lớn mạnh của Binh Chủng, được cải tổ thành
Trung Tâm Huấn Luyện TQLC, tọa lạc tại khu Rừng Cấm, Thủ Đức, cơ
sở và phương tiện đầy đủ, có khả năng huấn luyện 20 đại đội tân
binh cùng một lúc, cung cấp hàng ngàn tân binh cho các đơn vị tác
chiến sau khi được huấn luyện thuần thục. TQLCVN được tổ chức
tương tự như Binh Chủng TQLC Hoa Kỳ, dùng cùng một phương pháp
huấn luyện và chiến thuật hành quân. Tân binh TQLC trải qua 12
tuần huấn luyện căn bản tác chiến cá nhân như các TTHL tân binh
khác, còn được huấn luyện thêm 4 tuần về hành quân thủy bộ và
trực thăng vận. TTHL/TQLC được coi là quân trường huấn luyện tân
binh gian khổ nhất QLVNCH, tương tự như TTHL Binh Chủng Nhảy Dù.
Về chương trình huấn luyện cán bộ, từ cuối năm 1957, sĩ quan TQLC
được gửi sang HK thụ huấn các khóa Sĩ Quan Căn Bản, Sĩ Quan
Truyền Tin, và Tham Mưu Hành Quân Thủy Bộ ở TTHL TQLC/HK tại
thành phố Quantico, tiểu bang Virginia. Một số hạ sĩ quan được
tuyển chọn gửi qua TTHL HSQ/TQLC tại San Diego tiểu bang
California, để được huấn luyện về vũ khí, tác chiến cá nhân, và
cơ bản thao diễn, trở về làm cán bộ huấn luyện tại TTHL/TQLC. Các
hạ sĩ quan và binh sĩ cũng được gửi đi thụ huấn các ngành chuyên
môn tại các quân trường trong nước. Để tạo niềm kiêu hãnh “Tinh
Thần Binh Chủng” (Esprit de Corps), TQLC/VN chỉ thâu nhận những
quân nhân tình nguyện, từ sĩ quan đến binh sĩ. Các vị CHT Trung
Tâm gồm Đại úy Phạm Văn Chung, Đại úy Ngô Văn Ðịnh, Đại úy
Hoàng Văn Nam, Trung tá Phạm Văn Chung, sau cùng là Trung tá
Nguyễn Ðức Ân.
Bệnh Viện Lê hữu Sanh: Bệnh xá TQLC cũng được nâng cấp. Từ
Bịnh xá Cửu Long đặt tại trại Cửu Long, Thị Nghè, được đổi thành
Bệnh Viện Lê hữu Sanh từ ngày 1/10/1968 lúc thành lập Tiểu đoàn
Quân Y TQLC và được dời về Rừng Cấm vào năm 1969. Vị Tiểu đoàn
trưởng đầu tiên và duy nhất là Y sĩ Trung tá Nguyễn Văn Thế. Các
Y sĩ Trưởng bệnh viện lần lượt là Y sĩ Thiếu tá Trần mạnh Tường,
Trương minh Cường, và Trần công Hiệp. Tuy nhiên, khi thành lập
TÐ1 và TÐ2/TQLC năm 1955, đã có 2 vị bác sĩ tốt nghiệp Trường Ðại
Học Y khoa Hà Nội tình nguyện về TQLC, đó là các y sĩ Trung úy
Nguyễn Văn Hoàng và Nguyễn Văn Chất, là hai anh em ruột. Sau này,
2 ông về lại Quân Y. Trung tá Hoàng làm Trưởng Phòng điện tuyến
TYVCH [tổng y viện cộng hoà], còn Trung tá Chất thì làm Trưởng
Phòng bệnh ngoài da TYVCH. Ông Hoàng ở Canada, còn ông Chất ở
Florida.
Công
Binh TQLC đóng góp rất nhiều trong việc phát triển Binh Chủng qua
hai nhiệm vụ chính là “Chiến đấu và Kiến tạo”. Công Binh TQLC
khởi đầu bằng Ðại đội Công Binh do Trung úy Bùi Văn Phẩm thành
lập năm 1962. Tới năm 1968, Công Binh phát triển thành Liên Ðại
Ðội do Đại úy Cao Văn Tâm làm Liên Ðội trưởng. Theo đà phát
triển của Binh chủng, tháng 4 năm 1971, Tiểu đoàn Công Binh TQLC
được thành hình. Cuối năm 1971, Thiếu tá Ðỗ Văn Tỵ từ Cục Công
Binh thuyên chuyển về Binh Chủng, được bổ nhiệm làm Tiểu Ðoàn
Trưởng. Ngoài những công việc nguy hiểm ngoài hành quân như thiết
lập những bãi mìn chống chiến xa tại căn cứ Phượng Hoàng, đặt mìn
phá cầu Đông Hà, Mỹ Chánh, Tiểu Ðoàn Công binh còn thiết lập và
kiến tạo nhiều công trình lớn trong Binh Chủng như góp phần xây
dựng Bịnh viện Lê hữu Sanh, biến khu căn cứ Dĩ An của SÐ1 Lục
Quân HK giao lại thành Căn Cứ Sóng Thần với những doanh trại của
các Tiểu Đoàn trong Sư Đoàn và còn nhiều công trình khác. Công
binh TQLC có mặt hầu hết trên những vùng tham chiến của Binh
Chủng.
Tiểu
Ðoàn Tổng Hành Dinh được thành lập đầu năm 1969, hậu thân của Đại
Ðội Chỉ Huy và Công Vụ Liên Ðoàn năm 1956, đồn trú tại BTL/SÐ, số
15 Lê Thánh Tôn Sài Gòn. Nhiệm vụ chính là bảo vệ an ninh cho
BTL/SÐ, quản trị quân số, quân lương, quân thực, tiếp liệu cho
quân số cơ hữu BTL, và cho BCH Pháo Binh SÐ, các BCH Lữ Ðoàn. Các
vị TÐT từ ngày thành lập gồm: Thiếu tá Bùi Văn Phẩm (1969), Thiếu
tá Nguyễn Ðức Ân (1970), Trung tá Võ Kỉnh (1971), Trung tá Phạm
Nhã (1972), Trung tá Nguyễn Phán (1974).
Tiểu Ðoàn Công Vụ là hậu thân của Ðại
Ðội Tiếp Liệu, được thành lập vào ngày thành lập Binh chủng 1
tháng 10 năm 1968. Năm 1972, TÐ Công Vụ được cải danh thành TÐ
Yểm Trợ Thủy Bộ. Vị TÐT tiên khởi là Thiếu tá Nguyễn Xuân Phúc
(4/1968), kế tiếp là Trung tá Ngô Văn Ðịnh (5/1969), Thiếu tá
Vương Văn Tài (1/1970), Thiếu tá Phạm Văn Sắt (1972), Thiếu tá
Ngô Nhật Thăng (1974).
Pháo Binh TQLC: Một đơn vị không thể thiếu vắng trong
tất cả các cuộc hành quân của Binh Chủng, đó là Pháo Binh TQLC.
Khởi thủy, cùng thời gian thành lập TÐ2/TQLC cuối năm 1955, Ðại
Ðội Trọng Pháo 106ly được thành lập, đồn trú tại Mỹ Tho, sau dời
về đảo Bình Ba trong Vịnh Cam Ranh. Nhưng đến giữa năm 1961, đon
vị này bị giải thể, được thay thế bằng Pháo Ðội Ðại Bác 75ly Sơn
Pháo. Ðầu năm 1962, Tiểu Ðoàn Pháo Binh TQLC được hình thành với
2 Pháo Ðội 75ly và 1 Pháo Ðội 105ly nòng ngắn do Đại úy Nguyễn
Văn Trước làm TÐT và Đại úy Cao Văn Thinh làm TÐP. Các Trung úy
Đoàn Trọng Cảo coi Pháo Ðội A/75ly, Trung úy Nguyễn Hửu Hạnh
Pháo Ðội B/75ly, Trung úy Nguyễn Hồ Quỳ Pháo Ðội C/105ly. Ðầu
năm 1969, TÐ/PB thứ 2 đuợc thành lập cùng với BCH/PB/SÐ, Thiếu tá
Nguyễn Văn Trước lên làm CHT, TÐT/TÐ1PB là Đại úy Ðoàn Trọng
Cảo, TÐT/TÐ2PB là Đại úy Nguyễn Hồ Quỳ. Sau đó vào năm 1970,
TÐ3/PB được thành lập với Đại úy Trần Thiện Hiệu làm TÐT. Ðầu
năm 1975, cùng với sự thành lập LÐ468, Pháo Ðội P/105ly được
thành lập với Đại úy Nguyễn Văn Vinh Làm PÐT. TÐT/TÐ2PB sau cùng
là Trung tá Nguyễn Trọng Ðạt và TÐ3/PB là Thiếu tá Nguyễn Tấn
Lộc.
Tiểu đoàn
7/TQLC được thành lập ngày 1/6/1969 tại Rừng Cấm, Thủ Đức. Sau đó
TÐ di chuyển huấn luyện bổ túc đơn vị tại TTHL Quốc gia Vạn Kiếp,
Bà Rịa trong vòng 3 tháng. Tiểu đoàn 7/TQLC sẵn sàng tham dự vào
cuộc hành quân đầu tiên với Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ 211 nhằm
thay thế cho Sư đoàn 9 Riverine, rút về nước, trong vùng Kiến
Hòa, Mỹ Tho, Chương Thiện. Vị Tiểu Ðoàn Trưởng đầu tiên là Thiếu
tá Phạm Nhã và Thiếu tá Trần Xuân Quang giữ chức TÐP. Các Ðại Ðội
Trưởng gồm: Đại úy Trần Ba–ÐÐ1, Trung úy Nguyễn Xuân Quang–ÐÐ2,
Trung úy Nguyễn Văn Sử–ÐÐ3, Trung úy Nguyễn Văn Lộc–ÐÐ4, và
Trung úy Nguyễn Văn Hòa–ÐÐCH.
Các vị Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ7 gồm:
– Trung tá Phạm Nhã (1969),
– Thiếu tá Võ Trí Huệ (1971),
– Thiếu tá
Nguyễn Văn Kim (1972), và
– Thiếu tá
Phạm Cang (1974).
Tiểu Ðoàn 8/TQLC được thành lập vào
cuối năm 1969. Thiếu tá Phạm Văn Sắt là vị Tiểu Ðoàn Trưởng dầu
tiên. Sau khi bị thương tại chiến trường Kampuchia, Thiếu tá Sắt
bàn giao Tiểu Ðoàn lại cho Thiếu tá Nguyễn văn Phán. Vị Tiểu Ðoàn
Trưởng sau cùng là Trung tá Nguyễn Ðăng Hòa.
Tiểu Ðoàn 9/TQLC được thành lập vào
tháng 3/1970. Tiểu Ðoàn Trưởng là Thiếu tá Nguyễn Kim Đễ, Đại úy
Dương Văn Hưng TÐP. Các Ðại Ðội Trưởng là: Trung úy Trần Công
Giáo–ÐÐ1, Trung úy Lê Thắng–ÐÐ2, Trung úy Ðoàn Văn Tịnh–ÐÐ3,
Trung úy Nguyễn Mạnh Trí–ÐÐ4, Đại úy Ngô Ðình Lợi–ÐÐCH, và
Trung úy Hoàng Ðôn Tuấn–Trưởng Ban 3. Đơn vị tham dự hành quân
đầu tiên tại Kampuchia với trận giải tỏa đèo Pic Nil. Sau chiến
dịch tái chiếm Cổ Thành và bình định Tỉnh Quảng Trị hoàn tất,
tháng 8 năm 1973, Trung tá Ðễ bàn giao TÐ9 cho Trung tá Huỳnh Văn
Lượm để đảm nhận chức vụ Trưởng Phòng 3/SÐ. Tháng 10 năm 1974,
Thiếu tá Lâm Tài Thạnh thay thế Trung tá Lượm giữ chức Tiểu Ðoàn
Trưởng. Trận đánh sau cùng của TÐ9 đã xảy ra tại bờ biển Mỹ Khê,
Ðà Nẵng vào chiều tối 29 tháng 3 năm 1975 khi SÐ/TQLC đã rút khỏi
nơi này với nhiều tổn thất nặng nề.
Căn Cứ Sóng Thần: Tháng 1/1971, Sư Ðoàn
TQLC tiếp nhận căn cứ của SÐ1 Lục Quân HK tại Rừng Cấm, nằm tiếp
giáp 3 quận Thủ Ðức, Dĩ An, và Lái Thiêu, cải danh thành
Căn Cứ
Sóng Thần. Căn Cứ có phi trường cho phi cơ vận tải C–123 đáp được
và bãi đậu trực thăng cho 1 phi đoàn. Các đơn vị đồn trú, luôn cả
Trại Gia Binh, Chợ Sóng Thần, và trường Trung Học Quân Ðội, Bệnh
Viện Lê Hữu Sanh, có TT Huấn Luyện, Sân Bắn, hậu cứ các
BCH/LÐ147, 258, 369, và 468. Các TÐ1, 2, 3, 5, 6, 7, 8, 9, 14,
16, 18, và 3 TÐ Pháo Binh, TÐ Công Binh, TÐQY, TĐYTTB, và Ðại Ðội
Thủy Xa LVT–5. Căn Cứ còn có 1 pháo đội 105/TQLC thường trực để
yểm trợ cho cả 3 Quận Lái Thiêu, Dĩ An, và Thủ Ðức cho đến ngày
30/4/1975. Riêng hậu cứ TÐ4 vẫn ở Vũng Tàu.
Các vị CHT Căn Cứ gồm:
– Thiếu tá Trần Ngọc Toàn (1/1971),
– Trung tá Lê Bá Bình (8/1972),
– Đại tá
Nguyễn Năng Bảo (11/1974),
– Thiếu tá
Trần Vệ XLTV (12/1974), và
– Trung tá
Nguyễn Ðức Ân (1975).
Đầu năm 1975, thực hiện kế hoạch tăng
cường lực lượng Tổng Trừ Bị của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, Sư Đoàn
TQLC đã tiến hành việc thành lập Lữ Ðoàn 468 với các Tiểu đoàn
14, 16, 18. Ðể thành lập các tiểu đoàn trên, từ những tháng cuối
năm 1974, mỗi tiểu đoàn TQLC thành lập thêm một đại đội thứ 5 để
đưa qua các tiểu đoàn tân lập. Đến đầu tháng 1/1975, việc thành
lập Lữ Ðoàn 468 và 3 Tiểu Ðoàn TQLC tân lập bắt đầu thành hình.
Các sĩ quan sau đây đã được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy: Đại
tá Ngô Văn Định Lữ Ðoàn Trưởng. Trung tá Nguyễn Văn Cảnh,
TÐT/TÐ14. Thiếu tá Đinh Xuân Lãm, TÐT TÐ/16. Thiếu tá Trần Ngọc
Toàn, TÐT/TÐ18. Đại úy Nguyễn Văn Vinh, Pháo Ðội Trưởng Pháo Ðội
P/105ly. Sau đó toàn bộ Lữ Đoàn được không vận và thủy vận về
tiếp nhận hậu cứ trong Căn Cứ Sóng Thần, Dĩ An. Tháng 2/1975 Lữ
Đoàn được tăng phái cho Tiểu Khu Long An, mở những cuộc hành quân
càn quét, tìm và tiêu diệt địch tại quận Bến Lức. Tháng 3/1975 Lữ
Đoàn được không vận ra Đà Nẵng, gia nhập với SĐ/TQLC đang hành
quân tại đây. Tiếp tục hoàn tất việc thành lập TĐ18/TQLC. Lữ Đoàn
được lệnh thay thế Lữ Đoàn I Nhảy Dù phòng thủ khu vực đèo Hải
Vân. TÐ18 chưa hoàn tất thành lập đơn vị thì xảy ra biến cố SÐ di
tản chiến thuật khỏi Vùng I cuối tháng 3/1975.
Với khả năng chiến đấu hữu hiệu trên
mọi chiến trường và mọi địa thế, với nghệ thuật lãnh đạo và chỉ
huy vững vàng của hệ thống cán bộ các cấp trong Binh Chủng, nên
từ đầu năm 1974, Bộ TTM/QLVNCH có kế hoạch thành lập thêm một Sư
Ðoàn TQLC thứ hai, nhưng chưa thực hiện được vì cuộc tổng tấn
công của Cộng quân vào đầu năm 1975. Tuy nhiên, SÐ/TQLC đã thành
lập được 4 Lữ Ðoàn và các đơn vị Yểm Trợ và Hậu Cứ, quân số có
lúc đã lên đến gần 16,000 người.
Đoạn Kết
Có thể nói, giai đoạn thành lập Binh
Chủng TQLC/VN, từ năm 1954 đến 1959, là khoảng thời gian đầy khó
khăn và thử thách. Được thành lập ngay sau ngày đất nước bị chia
đôi bởi hiệp định Genève và trong giai đoạn xáo trộn chính trị
tại Miền Nam, TQLC/VN đã tồn tại giữa những khó khăn để phát
triển với sự yểm trợ của Cố Vấn HK. Khi các đơn vị còn đồn trú
rải rác, TQLC đã cấp thời được sử dụng trong các cuộc hành quân
tảo thanh các lực lượng võ trang Giáo phái và Bình Xuyên.
Các vị Chỉ Huy Trưởng và Tư Lệnh của
Binh Chủng TQLC:
– Trung tá Lê Quang Trọng (10/1954),
– Thiếu tá Phạm văn Liêu (1/1956),
– Đại
úy Bùi Phó Chí XLTV/CHT (8/1956),
–
Thiếu tá Lê Như Hùng (10/1956),
– Thiếu
tá Lê Nguyên Khang (1960),
– Trung tá
Nguyễn Bá Liên (11/1963),
– Đại tá Lê
Nguyên Khang (2/1964), và
– Đại tá Bùi
Thế Lân (5/1972).
Đã dồn mọi nỗ lực, cải tổ những đơn vị
Biệt Kích, các Ðại Ðội Yểm Trợ, và Hải Thuyền, dưới quyền chỉ huy
của sĩ quan Pháp, thành một Binh Chủng hùng mạnh, có khả năng
chiến đấu đa dạng, tương tự như Lực Lượng Thủy Bộ Xung Kích
TQLC/HK. Cùng với các Cố Vấn HK tận tâm và kinh nghiệm, Binh
Chủng TQLC/VN trở thành một trong những đại đơn vị có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ, được huấn luyện thuần thục, chịu đựng dẻo dai,
trang bị vũ khí tối tân, cán bộ, và quân số đầy đủ nhất của
QLVNCH. Bên cạnh các Tự Lệnh TQLCVN ngay từ thời gian đầu thành
lập Binh Chủng có những Cố Vấn Trưởng ưu tú, đầy khả năng, tiêu
biểu cho Binh Chủng TQLC Hoa Kỳ, đó là:
– Trung tá Victor J. Croizat (8/1954),
– Trung tá William N. Wilkes Jr. (6/1956),
– Trung tá Frank N. Wilkinson Jr. (6/1958),
– Trung tá Clifford J. Robichaud Jr. (6/1960),
– Trung tá Robert E. Brown (8/1961),
–
Trung tá Clarence G. Moody Jr (10/1962),
– Trung tá Wesley C. Noren (10/1963),
–
Đại tá William Nesbit P. Nesbit (9/1964),
– Đại tá John A. McNeil (7/1965),
– Đại
tá Nels E. Anderson (7/1966),
– Đại tá
Richard L. Michael Jr. (7/1967),
– Đại
tá Leroy V. Corbett (7/1968),
– Đại tá
William M. VanZuyen (7/1969),
– Trung tá
Alexander P. McMillan (6/1970),
– Đại tá
Francis W. Tief (7/1970),
– Đại tá
Joshua W. Dorsey III (7/1971), và
– Đại
tá Anthony Lukeman (7/1973–4/1975).
Trong cuộc chiến Mùa hè năm 1972, Bộ Tư
Lệnh Sư đoàn TQLC được không vận từ Sài Gòn ra Huế để trực tiếp
chỉ huy toàn bộ các đơn vị trực thuộc và tăng phái. Ðầu tháng
5/72, Trung tướng Lê nguyên Khang, sau 12 năm chỉ huy Binh chủng
từ 4/1960, đã bàn giao chức vụ Tư Lệnh SĐ lại cho Đại tá Tư Lệnh
Phó Bùi Thế Lân. Đại tá Lân xuất thân Khóa 4 Trường Võ Khoa Thủ
Đức, phục vụ trong Binh Chủng từ năm 1956. Ông được vinh thăng
chuẩn tướng cuối tháng 5/72, thăng thiếu tướng tháng 2 năm 1975,
và giữ chức Tư Lệnh TQLC cho đến ngày 30/4/1975.
Cuộc di tản chiến thuật khỏi Vùng I
Chiến Thuật trong tháng 3/1975 đã gây tổn thất nặng nề về nhân
mạng cũng như về trang bị cho nhiều đơn vị của SĐ/TQLC. Phần lớn
lực lượng của LĐ147 bị quân CS vây hãm và bắt làm tù binh dọc bờ
biển gần cửa Thuận An, Huế. Một số rất ít quân nhân của hai Lữ
Đoàn 258 và 369 lên được tàu Hải Quân tại bãi biển Non Nước, Đà
Nẵng. Chỉ có LĐ468 với các TĐ 8, 14, 16 lên tàu Hải Quân với toàn
bộ quân số và trang bị tại làng Cùi, dưới chân đèo Hải Vân trong
đêm 28 rạng 29 tháng 3. Các thành phần thuộc Bộ Tham Mưu SĐ, các
đơn vị yểm trợ như các Tiểu Ðoàn Yểm Trợ Thủy Bộ, Công Binh, Quân
Y, Truyền Tin, v.v. cũng đã bị tổn thất rất nặng. Sau khi tạm
dừng quân ở Cam Ranh, SÐ được lệnh tiếp tục di chuyển về tập
trung tại Vũng Tàu để được tái trang bị quân dụng và vũ khí các
loại. Ngày 9 tháng 4, SĐ/TQLC được lệnh Bộ TTM tăng phái hành
quân cho BTL/QÐ III, nhiệm vụ phòng thủ vòng đai Ðông Bắc Sài
Gòn, khu vực Biên Hòa và Long Bình. Các Cọp Biển VN giữ vững
phòng tuyến cuối cùng này, và họ đã chỉ buông súng theo lệnh của
Tổng thống Dương Văn Minh, vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH vào sáng ngày
30 tháng 4, đánh dấu trang sử cuối cùng của Binh Chủng TQLC/VN
sau hơn 20 năm chiến đấu bảo vệ nền Ðộc Lập, Tự Do, và Lãnh Thổ,
Lãnh Hải của Miền Nam Việt Nam.
Mũ Xanh Trần Văn Hiển
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tony nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, November 7,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang