Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
ngày cho cha – father's day
Tác giả:
Tâm Chánh
bấm vào đây để in ra giấy (print pdf)
BBT: Tác giả Tâm Chánh là người con gái của Trung tá Từ
Tôn Khán, Khoá 10 Võ Bị, Tỉnh đoàn trưởng Tỉnh Đoàn Cán
Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Huế. Ông bị Việt cộng bắt và sát
hại trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế.
–bbt/tkh
Nếu
bây giờ ông Trời ban cho tôi một ước nguyện thì điều tôi sẽ
cầu xin không một giây ngần ngại: xin cho Cha của tôi được
sống lại dù chỉ là một ngày để Mẹ tôi có được niềm vui trước
khi bà từ giã cõi đời, để cho các con tôi được gặp Ông
Ngoại. Một mơ ước thật hão huyền và sẽ không bao giờ đạt
được nhưng tôi vẫn khấn nguyện, vẫn ước mơ...
Người
Cha thân yêu của tôi bị bọn Việt cộng khát máu đoạt mệnh
trong biến cố tết Mậu Thân năm 1968 khi tuổi đời của Ông
chưa đến 37. Mẹ tôi trở thành góa bụa ở tuổi 32, cái tuổi
thanh xuân đẹp nhất của một người phụ nữ, bơ vơ với 6 đứa
con thơ dại và đứa con út mới tượng hình ở trong lòng. Nửa
thế kỷ qua, lòng tôi chưa bao giờ ngưng tiếc nhớ, ray rứt,
và đau khổ.
Thuở đó, gia đình của tôi cư ngụ tại
đường Bạch Đằng, một con đường nằm ngay tại trung tâm của
tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế. Con đường này song song với
đường Huỳnh Thúc Kháng nổi tiếng với những tiệm bánh mứt,
kẹo mè xửng giòn, dẻo đủ loại. 2 con đường cách nhau bởi
dòng sông Gia Hội, nơi có những chiếc đò đưa khách sang sông
trong suốt 4 mùa.
Trong khu đất rộng của Ông Bà Cố
tôi để lại gồm có ba căn nhà: căn Nhà Cẩn có lối kiến trúc
xưa tọa lạc ngay chính giữa của khu vườn, là nơi thờ phụng
tổ tiên với các điện thờ và các cột trụ thiếp vàng chạm trổ
rất tinh vi, với bàn ghế giường tủ và các tấm mành đều được
cẩn xà cừ. Nhà Tây được xây cất theo lối kiến trúc của Pháp,
nằm về phía tay trái của Nhà Cẩn. Ở giữa hai căn nhà có bụi
chè tàu rất lớn được trồng từ mấy đời trước, cành lá xum xuê
cao quá đầu người. Đằng sau Nhà Cẩn, qua một khu vườn đầy
hoa Tường Vi là căn Nhà Mới được kiến trúc theo lối tân
thời.
Chúng tôi đã sống thời thơ ấu hết sức êm đềm
trong căn nhà của Tổ Tiên. Ông Bà Nội của chúng tôi lúc đó
đã không còn ở Huế, nhưng chúng tôi được sự thương yêu đùm
bọc của Ông Bà Ngoại. Cha tôi đi hành quân thường xuyên, mỗi
lần về ông đều đàn hát cho Mẹ tôi nghe và chở chúng tôi lên
thăm Ông Bà Ngoại. Mấy Mẹ con quấn quýt bên Cha trong hạnh
phúc ngập tràn.
Một lần về sau chuyến hành quân, Cha
đem về một con chó. Ông gặp nó bị thương, nằm bên vệ đường.
Ông đã tự tay săn sóc vết thương cho đến khi con chó bình
phục. Kể từ đó gia đình chúng tôi có thêm 1 thành viên mới,
chú chó Berger cao lớn. Con chó hết sức quyến luyến Cha tôi.
Nó vô cùng mừng rỡ bất cứ khi nào ông về đến nhà, nó luôn
luôn quanh quẩn ở bên ông khiến Mẹ tôi đôi lúc cũng bực mình
khi bị nó làm chộn rộn.
Những tưởng cuộc sống sẽ được
mãi ấm yên như thế... Nhưng tất cả đã thay đổi vào đầu năm
1968....
Đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân, chúng tôi tụ họp
ở nhà Ông Bà Ngoại để cúng tết và dùng bữa với gia đình của
các Cậu Dì đến từ các thành phố khác. Khoảng gần 10 giờ đêm
bỗng có những tiếng nổ. Ban đầu mọi người đều ngỡ là ai đó
đốt pháo Tết sớm, nhưng chỉ sau vài phút, Cha tôi biết ngay
là tiếng nổ của súng. Gương mặt và đôi mắt Ông đầy lo âu.
Chỉ trong khoảnh khắc, Ông nhận được điện tín về lệnh chuẩn
bị cấm trại và tuyệt đối đề phòng cảnh giác. Cha tôi xin
phép Ông Bà Ngoại để đưa Mẹ con chúng tôi về vì phải đi
trực. Mọi người đều năn nỉ Cha tôi ở lại vì có lẽ họ đã linh
cảm được điều không hay nhưng Cha tôi cương quyết từ chối.
Ông nói là cấp chỉ huy thì không thể vi phạm kỷ luật quân
đội.
Khi gia đình tôi vừa về đến nhà thì con chó sủa
vang và cứ cắn ống quần của Cha tôi. Tuy vậy, Cha vẫn không
chú ý đến những cử chỉ khác thường của nó vì ông đang tìm
cách liên lạc với cấp trên để nói chuyện. Con chó vẫn sủa
ăng ẳng và kéo ống quần của Cha. Đang ở trong tình huống
căng thẳng, lo âu, Cha đã nạt lớn và hất mạnh con chó sang
một bên. Nó sợ hãi bỏ chạy ra ngoài sân, và hôm sau những
người giúp việc đã cố công tìm kiếm con chó nhưng không ai
thấy nó.
Đêm Mồng 1 Tết, Việt cộng (VC) tấn công. Vài
ngày sau, chúng chiếm thành phố Huế.
Cha bảo Mẹ và
tất cả chị em chúng tôi chạy qua trú dưới căn hầm của một
gia đình láng giềng cách nhà của chúng tôi 5 căn. Cha ở lại
nhà tiếp tục liên lạc điện thoại, làm việc với cấp trên.
Sau nhiều ngày chui rúc trong căn hầm, chúng tôi không
nghe tin tức gì của Cha nên Mẹ rất lo lắng. Rạng sáng ngày
10 tháng 2 năm 1968, Mẹ tôi đã nhờ O Lan, cô giúp việc trong
gia đình, bò về nhà để thăm dò tin tức. Nhân lúc Mẹ đang cho
em bé út chưa được 1 tuổi bú sữa, tôi lén đi theo O Lan.
Khi O bò ra khỏi miệng hầm được một quãng ngắn thì O mới
biết là có tôi đi theo. Dù lo lắng Mẹ tôi sẽ rầy la, nhưng O
cũng mừng vì có tôi bên cạnh cho đỡ sợ.
Lúc đó khoảng
gần 5 giờ sáng, trời mùa đông xứ Huế vẫn còn tối đen và lạnh
căm căm. Vất vả lắm chúng tôi mới len qua được những hàng
rào ở phía sau các khu vườn và lẻn về đến nhà.
Chúng
tôi giật mình vì thấy người lạ đứng đầy sân. O Lan vội kéo
tôi nằm sát xuống đất sau bụi chè tàu ở giữa Nhà Cẩn và Nhà
Tây.
Từ đó, tôi trợn mắt cố nhìn xuyên qua bóng tối.
Tôi rụng rời khi thấy Cha tôi và các chú cận vệ đang bị trói
ké tay trước hàng hiên của căn nhà Tây. Chúng đang tra hỏi
các chú Mãng, Chú Phấn, và chú Truật với những câu được lặp
đi lặp lại: “Các anh muốn chúng tôi khoan hồng thì hãy khai
ra những gì mà Thiếu tá Khán giấu giếm, bằng không đừng
trách chúng tôi.”
Khi nghe vậy tôi và O Lan lâm râm
cầu nguyện để các chú đừng khai mặc dù tôi không thật sự
hiểu bọn VC muốn các chú khai những gì...
Họ bắt đầu
đánh các chú. Tiếng đấm, đá bình bịch như xoáy vào đầu tôi.
Rồi tôi nghe giọng Cha tôi:
– “Các anh muốn gì thì cứ
hỏi tôi, binh lính của tôi không có tội tình chi mà các anh
hành hạ họ.”
Tôi nghe chúng cười gằn rồi nói:
– “Thiếu tá đừng lo, sẽ tới lượt chúng tôi hỏi thăm sức khỏe
thiếu tá”.
Mấy phút im lặng trôi qua, tôi không nghe
được khi bọn chúng nói nhỏ những gì với nhau. Lúc ấy, O Lan
và tôi vừa lạnh vừa sợ, hai hàm răng của chúng tôi đánh lập
cập vào nhau. Chúng tôi càng co rúm người lại, tưởng như
chúng sắp phát giác ra sự hiện diện của chúng tôi.
Khi trời mờ sáng thì tôi và O Lan phải đổi tư thế để ngồi
xổm lên để lá chè che khuất. Từ chỗ núp, tôi đã thấy được rõ
ràng cảnh tượng trước hiên nhà. Bọn VC mặc đủ sắc phục, đứa
thì mặc nguyên bộ đồ nhà binh, đứa thì mặc quần tây, áo sơ
mi, nhưng trên cánh tay áo của chúng đều có đeo băng đỏ.
Tên nào cũng cầm một cây súng có họng dài và quanh lưng
đeo băng đạn, có tên còn cầm lựu đạn trên tay. Trong đám
người mặt đầy sát khí này có một người đàn bà mặc bồ đồ đen,
tay cầm súng lục. Chúng vây lại quanh Cha, la hét tra khảo
về những việc làm của Cha. Cha trả lời:
– Tôi có lý
tưởng của tôi, các anh có lý tưởng của các anh, tôi không
khai báo, không chỉ điểm đồng đội của tôi.
Chúng gầm
gừ, chửi rủa rồi quay báng súng đánh túi bụi vào đầu, vào
mặt Cha. Một tên thét lớn:
– Vận mạng của cả gia đình
mày đang nằm trong tay của chúng tao. Nếu mày chịu khai báo
thì chúng tao sẽ tha và không sai người đi lùng bắt vợ con
mày.
Cha thở hổn hển vì đau nhưng chỉ nói:
–
Các anh cứ làm nếu thấy cần, tôi thà hy sinh vợ con chứ
không thể hèn mà đầu hàng các anh.
Mụ đàn bà la the
thé:
– Đánh nữa! Đánh nữa đi!
Chúng vừa đánh
vừa kéo một sợi xích sắt lớn khóa chân Cha tôi và các chú
cận vệ lại với nhau. Rồi những báng súng, những cái đá, cái
đạp lại liên tiếp giáng xuống đầu, xuống ngực, xuống lưng
Cha. Nước mắt tôi rơi ràn rụa, ngực tôi nhói lên với từng
tiếng hừ hự vang lên từ phía Cha tôi...
*****
Cha! Đã 50 năm qua, con vẫn nhớ như in những giây phút ấy.
Những giây phút khủng khiếp mà lời lẽ không bao giờ đủ để
diễn tả. Những cây súng giơ lên, quật xuống. Chúng vây quanh
Cha, liên tiếp đánh.
Từ sau bụi chè tàu, con đã đứng
lên. Con gạt phăng tay O Lan đang hết sức níu lấy con. Con
nhào tới, sụp xuống lạy xin bọn chúng tha cho Cha và các
chú. Cha đã cố ngẩng lên và nhìn thấy con. Cha sững sờ trong
khoảnh khắc. Rồi Cha trầm giọng bảo con phải can đảm, đừng
van xin vô ích.
Con bỗng nghe đau nhói trên đầu. Một
bàn tay thô bạo đã xoắn tóc con, dúi đầu con xuống đất,
trước mặt Cha. Chúng gào lên rằng sẽ bắn con nát óc để xem
Cha có còn cương quyết từ chối khai báo nữa hay không. Con
sợ hãi đến tột cùng, toàn thân con run bần bật. Con tưởng
Cha sẽ đầu hàng nhưng con đã nghe tiếng Cha bảo chúng rằng:
– Các anh cứ bắn con tôi đi, nếu các anh muốn, nhưng tôi
vẫn không thể làm theo lời yêu cầu của các anh.
Con
khóc nghẹn từng cơn như sắp tắt thở, vừa van xin chúng, vừa
năn nỉ Cha. Và, lúc đó, con đã bắt gặp ánh mắt Cha nhìn con.
Ánh mắt đầy cương nghị, nhưng cũng chan chứa thương xót, khổ
tâm. Ánh mắt của Cha đã cho con thêm can đảm, thêm nghị lực
để chịu đựng. Con đã bớt hoảng loạn, đã có thể lắng nghe lời
Cha trăng trối. Cha dặn con phải thay Cha để lo cho Mẹ, cho
em. Khoảnh khắc đó chỉ dài vài phút, nhưng mãnh lực của ánh
mắt, lời nói trước khi Cha con mình vĩnh viễn xa nhau đã
theo con cho đến hôm nay.
Bỗng nhiên có một tên VC
khác chạy vào, bọn chúng tụ lại bàn nhau điều gì đó với vẻ
lo lắng. Cha nhìn thẳng vào mắt con lần nữa, mấp máy môi nói
thật nhỏ:
– “Con chạy đi!”
Rồi bất ngờ Cha la
to:
– “Anh em tấn công!”
Bọn VC vội dàn hàng,
quay mặt về phía cổng chính. Ngay giây phút đó, con đã phóng
qua bụi chè tàu, chạy thục mạng ra khỏi vườn sau.
******
Sau 26 ngày, quân đội Quốc Gia đã tái chiếm
thành phố Huế. Con đã được cho theo cùng với Ông Ngoại, Mẹ,
và chú Bốn tài xế để đi tìm Cha ngay lập tức. Mọi người khởi
hành từ 4 giờ sáng ngày 27 tháng Giêng năm Mậu Thân. Trời
còn tối đen mà tiếng khóc đã rền rĩ khắp các nẻo đường. Từ
cầu Đông Ba đi về phía cầu Gia Hội, nhìn đâu cũng thấy xác
người nằm la liệt.
Khi con đến trường Gia Hội, thì
những toán đi tìm đang đào những hầm chôn tập thể lên. Có
những nạn nhân chưa chết hẳn nhưng khi thân thể của họ được
vực lên thì đa số họ hộc máu và tắt thở trong vòng vài phút.
Mùi tử khí đã khiến Ông Ngoại, Mẹ, và con bị xây xẩm mặt
mày nhiều lần. Đến khoảng 2 giờ chiều, sau khi đã tìm kiếm ở
tất cả các mồ chôn tập thể ở sân trường Gia Hội, Mẹ đã đuối
sức vì lúc đó Mẹ đang mang thai mà không biết. Ông Ngoại đề
nghị trở về nhà và sẽ tiếp tục chuyện tìm kiếm vào ngày hôm
sau. Ông cũng an ủi Mẹ con là biết đâu Cha đang bị chúng bắt
làm tù binh. Chú Bốn cũng đồng ý, thế là mọi người thất thểu
quay về.
Mọi người vừa qua khỏi cầu Gia Hội chưa đầy
1 thước bỗng nhiên con chó của Cha bất thần xuất hiện. Mọi
người chưa hết kinh ngạc thì con chó tru lên đầy ai oán. Nó
cắn lấy ống quần của Mẹ, kéo bà đi theo nó. Ông Ngoại tái
mặt, biết ngay là điềm chẳng lành. Ông vội kéo con đi theo
con chó.
Đến cửa Thành Nội, ngay dưới chân bức tường
đầy rêu phong là một nấm đất cao được đắp sơ sài. Con chó
dừng lại, ngửa cổ sủa liên tục. Dân ở những nhà gần đó kéo
ra, họ nói với Ông Ngoại là chính họ đã chôn cất Cha. Họ nói
là thấy đám VC dẫn đầu bởi Nguyễn Thị Đoan Trinh và Hoàng
Phủ Ngọc Phan, đã áp giải Cha tới đó. Họ đã chứng kiến cảnh
Cha bị đánh đập vô cùng dã man nhưng Cha vẫn nhất định không
hé một lời. Rạng sáng ngày 11 tháng 2, 1968, họ nghe tiếng
súng nổ, sau đó họ tìm thấy Cha nằm gục ở chân tường. Tuy
biết Cha, nhưng họ sợ bị trả thù nên đã phải đợi đến đêm hôm
đó mới vội vã chôn Cha.
Khi Chú Bốn đào huyệt lên, Mẹ
té xỉu khi vừa nhìn thấy Cha. Cha nằm đó trong cái huyệt
nông chưa đầy một thước. Sóng mũi Cha vẫn cao, đôi mắt Cha
khép kín nhưng khuôn mặt với nét cương nghị vẫn còn nguyên
vẹn. Con đã run rẩy cúi xuống thật gần để rờ mặt Cha. Con đã
thấy những dòng máu khô đen từ những vết đánh ở hai bên má
và màng tang của Cha.
Cha ơi! Con đã đứng nhìn Cậu
dùng khăn tẩm rượu trắng để lau máu trên thân thể cha. Chiếc
áo len đen do chính tay Mẹ đan bị lủng nhiều chỗ ở ngực nên
con biết là cha đã bị bắn nhiều phát vào tim. Qua chỗ rách,
con còn thấy thẻ căn cước của Cha lòi ra khỏi túi áo sơ mi
trắng. Qua làn nước mắt ràn rụa, con thấy các binh lính của
Cha đóng áo quan cho Cha từ những tấm ván bởi vì cả thành
phố Huế chỉ còn một chiếc hòm nhỏ, không vừa với Cha. Sau
đó, những chú lính đã cùng chú Bốn đưa Cha về lại nhà của
mình.
Cha nằm giữa phòng khách của Nhà Tây. Ở ngay
nơi đó, chỉ một tháng trước chúng con và Mẹ còn quây quần
cười nói bên Cha, nay chỉ có chúng con đội tang trắng xóa,
ngơ ngác khóc than trước di ảnh Cha. Con nức nở gọi Cha ơi
nói chuyện với con đi, đừng im lặng nhìn con như vậy nữa.
Trong ánh nến lung linh, con đã thấy như Cha đang đưa mắt
nhìn theo từng đứa chúng con. Ông Ngoại bảo không nên di
chuyển xa trong lúc tranh tối tranh sáng, VC nằm vùng đang
còn trà trộn khắp nơi. Các chú đã đào huyệt cho Cha ngay
trong vườn, phía bên trái của căn nhà Tây. Các vị sư chỉ dám
đến để tụng kinh 1 tiếng đồng hồ rồi hạ huyệt.
Giờ
phút cuối, chúng con đi vòng quanh áo quan trước khi các chú
di chuyển Cha ra huyệt, con thấy như ai đâm vào người con
hằng trăm mũi dao nhọn. Con tự trách mình đã bỏ chạy để Cha
ở lại với bầy quỷ dữ, con tự giận mình không nghĩ ra kế để
cứu Cha cùng các chú cận vệ.
Rồi chúng con lại phải
ném những miếng đất xuống huyệt. Từng mảnh đất đen rơi lộp
bộp lên cỗ quan tài mà Cha nằm trong đó. Nỗi đớn đau trong
lòng con không thể có ngôn ngữ nào diễn đạt được, Cha ơi!
***
Cha yêu thương, chuyện xảy ra đã 50 năm về
trước nhưng hình ảnh của Cha cùng ánh mắt Cha nhìn con trong
những giây phút cuối cùng vẫn mãi mãi trong tâm trí con.
Định mệnh đã khiến con trốn Mẹ đi về nhà để được gặp
Cha, để được nghe Cha dặn dò lần cuối. Định mệnh đã cho con
thấy được ánh mắt cương nghị, đầy dũng khí của Cha, dù Cha
đã bị bọn người khát máu hành hạ. Ánh mắt chan chứa xót
thương của Cha đã nâng con dậy trong thời gian con bị khủng
hoảng sau khi Cha ra đi, và không biết bao nhiêu lần sau đó
khi con ngã quỵ trong những tháng năm dài côi cút.
Định mệnh đã cho con cơ hội nhìn tận mặt để nhận diện những
người đã giết Cha, mặc dù mấy chục năm qua con chưa có can
đảm tìm hiểu về những cái tên mà người dân trong Thành Nội
đã kể cho Mẹ và con. Mãi đến đầu năm nay, 2018, cô C. đã gửi
cho con xem cuộc phỏng vấn tên Hoàng Phủ Ngọc Phan về Tết
Mậu Thân. Con đã run rẩy suýt đánh rơi cái Ipad khi thấy mặt
hắn. 50 năm trước, vào ngày 10 tháng 2 năm 1968, chính tên
này đã dọa giết cả gia đình mình, chính hắn và đồng bọn đã
vung báng súng đập lên Cha và các chú.
Cha yêu
thương, đến giờ phút này con vẫn khâm phục tài trí của Cha.
Cha biết chúng không bao giờ tha cho Cha, dù Cha có khai
báo. Vì thế, Cha thà chịu cho cha con mình cùng chết, nhưng
Cha đã quyết bảo vệ cho gia đình những đồng đội.
Từ
đó đến nay, con luôn nuối tiếc vì không còn nghe được tiếng
Cha răn dạy. Đó là nỗi mất mát to lớn của tụi con. Em út
không hề nghe được giọng nói và không hề thấy được gương mặt
của Cha. Con cứ tưởng tượng đến nỗi khổ đau của Mẹ, và con
đã khóc trong suốt mấy chục năm qua, nhất là mỗi khi chồng
con vô tình choàng vai ôm con để an ủi đã khiến hình ảnh Cha
ôm Mẹ ngày nào trở về rõ rệt trong trí con. Con lại bật khóc
như đứa trẻ lên 5.
Cha ơi! Bây giờ con đã nên người,
đã thành công, đã giữ trọn lời con hứa với Cha năm nào, con
đã làm tròn trọng trách Cha đã giao phó cho con. Tất cả các
con, các cháu của Cha đã thành nhân. Cha không có con trai
nhưng đứa con gái mít ướt này đã cho Cha một thằng cháu
ngoại và đứa cháu ngoại này cũng cho Cha một đứa cháu cố
trai. Vì ai mà Cha không được một lần thăm chúng! Vì ai mà
Cha lỗi hẹn với Mẹ của con!
Viết cho Cha mà nước mắt
con vẫn trào và sẽ không bao giờ ngưng khi con nhớ đến người
Cha vắn số của con. Con hãnh diện được làm con của Cha, một
người Cha đầy lòng nhân hậu, đầy trí dũng cảm đã giữ đúng
cương vị, tư cách, và uy tín của một Sinh Viên Sĩ Quan của
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Nhớ Cha hoài.
Con gái mít ướt của Cha.
Tâm Chánh
nguồn:
thủ khoa huân
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
hình nền: lũy tre làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: Internet eMail by trường giang chuyển
Đăng ngày Thứ
Sáu, June 13, 2025
tkd Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH