Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
vợ lính tâm sự
Tác giả:
Nguyễn Thị Thêm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tôi quen biết chàng khi
anh ấy đã là lính. Cái lon chuẩn úy chẳng là cái gì với tôi, một
người con gái đầy nam tính. Tiếng nói miền Trung lơ lớ khó nghe,
mặt chẳng đẹp trai và nhìn qua là biết chẳng phải con nhà giàu.
Mấy cái đó và cả con người đó đáng lý ra chẳng dính dáng gì với
tôi.
Thế
nhưng, trời bất “dung gian” cái tên chuẩn úy người Huế đó không
biết bằng cách nào lại có thể xin vào dạy giờ ở cái trường Trung
học tư tôi đang dạy. Tôi thì phớt tỉnh Ăng lê, tới giờ dạy, hết
giờ về không chuyện trò tào lao với người khác phái.
Cái nhược điểm của tôi bây giờ tôi mới
biết là ở chỗ này. Thế là cứ tới giờ tôi đang dạy thì “hắn” lại
sai học trò sang mượn khăn lau bảng, mà dạy toán thì lau bảng
thường xuyên. Lại qua mượn phấn, hết phấn thường xuyên. Hết giờ
lại tới chào và xin lỗi. Ngày khác lỗi vẫn hoàn lỗi, lại mượn
phấn, mượn khăn.
Từ đó tôi ghét “hắn”. Mấy đứa học trò
cũng biết tôi không thích “hắn”. Thế là tôi bảo học trò để sẵn
một mớ phấn trong cái hộp và một cái khăn lau bảng. Học trò “hắn”
qua mượn, tôi đưa luôn hộp và nói hãy giữ lấy, tôi tặng luôn,
khỏi trả. “Hắn” tìm tôi xin lỗi và xin chở tôi về sau giờ dạy.
Tôi từ chối, mặt lạnh như tiền, đi thẳng. Buổi chiều, “hắn” tìm
tới nhà để xin lỗi. Hôm sau không giờ dạy, “hắn” lại tới nhà mượn
sách và ngồi lì nói chuyện không đâu ra đâu. Cứ hễ có dịp là
“hắn” tới nhà tôi ngồi đồng, “hắn” nói đủ thứ chuyện bằng âm
hưởng miền Trung nặng trình trịch.
Một thời gian sau, tôi nghe miết rồi
quen cái giọng khó nghe. Không tới trả sách thì lại thấy thiếu
vắng một cái gì không phải là sách. Cái chiến thuật “mưa lâu thấm
đất”, “nói hay không bằng ngồi dai” đã khiến tôi phải lên xe hoa
về nhà “hắn” và làm vợ “hắn” cho tới bây giờ.
Ông xã tôi là con trai một trong một
gia đình hiếm hoi con trai. Cha chồng tôi là con trai một và đã
mất sớm khi mẹ chồng tôi mới hơn 30 tuổi. Một nách 3 đứa con côi
và cha mẹ chồng già yếu, mẹ chồng tôi đã ở vậy một nắng hai sương
làm tròn nhiệm vụ làm dâu và làm mẹ. Do đó cái ao ước và hoài
bão của bà là có người thừa tự.
Tôi, cô gái miền Nam tánh tình bộc
trực, lại là một nữ Hướng Đạo hội họp, đi cắm trại liên miên,
không nằm trong danh sách những người bà lựa chọn. Thế nhưng khi
cậu con trai đã quyết thì bà phải bằng lòng. Vì trong thời buổi
chiến tranh, người lính không thể biết trước ngày nào bỏ thây
ngoài trận chiến. Và thế là mẹ chồng tôi đã bỏ cái làng quê chôn
nhau cắt rốn vào miền Nam để cưới vợ cho con, hầu mong tìm một
mống cháu nội sau này. Thế nhưng sau 3 năm cưới nhau tôi vẫn trơ
trơ cho mẹ chồng tôi ngày đêm không yên giấc. Tôi biết trong tận
cùng bà buồn lắm. Đôi khi bà nhìn tôi với đôi mắt thiếu tin
tưởng. Câu “Cây độc không trái, gái độc không con” mà một lần tôi
tình cờ nghe từ miệng bà khiến tôi buồn không ít. Thế nhưng là
lính, vợ chồng không gần gũi nhau, làm sao có con được.
Thế là bà bỏ Biên Hòa theo con trai ra
Đà Nẵng và tuyên bố sắp đặt chỗ ở để tôi phải thuyên chuyển theo
chồng. Kỳ nghỉ tết năm 1973, sau buổi họp cuối cùng, tôi đón xe
đi Sài Gòn và lên chuyến bay đi Đà Nẵng thăm chồng. Đến đón tôi
không phải mẹ chồng mà là người lính tùy tùng của anh. Thế là
chiều hôm đó tôi có mặt ở nơi đóng quân của anh. Một ngọn đồi cao
của vùng núi Quế Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên
tôi chính thức sống đời vợ lính nơi tiền đồn.
Chúng tôi trú ngụ trong căn hầm chỉ huy
đầy súng đạn và trang bị truyền tin. Tôi đang đan dang dở một tấm
khăn trải bàn. Thế là tôi phải hoàn tất gấp tấm khăn đó để làm
chiếc màn “cách ly”. Cuộc sống vợ chồng trong đồn lính thì có
nhiều chuyện không thể cười mà cũng không thể khóc của một cô
giáo kín đáo, nghiêm túc với cuộc sống xô bồ lính tráng ở đây.
Tôi chỉ biết những ngày ở đó tôi thương
lính hơn, tôi thông cảm nỗi cô đơn của chồng hơn và nhất là thật
sự biết lo sợ cho chồng trong cuộc sống mà nơi đâu cũng có tai
mắt của kẻ thù rình rập. Hết ngày lễ, chồng tôi giao đồn cho Đại
đội phó đưa tôi về Đà Nẵng thăm mẹ chồng và ngay chiều đó tôi
lên máy bay về lại Sài Gòn vì ngày mai đã bắt đầu niên học mới.
Thế là tôi có mang đứa bé đầu lòng và
tôi phải làm đơn xin thuyên chuyển để thật sự bắt đầu một cuộc
đời mới. Mùa hè năm đó miền Trung đã thật không yên. Nhà tôi ở
gần phi trường nên hàng đêm pháo dội về từng chập. Mẹ chồng tôi
về lại Biên Hòa để lo cho con gái sinh nở. Tôi mang cái bụng bầu
chui hầm thường xuyên. Mỗi lần có tin từ tiền đồn là tôi lo lắng
hồi hộp. Những cuộc đụng độ xảy ra liên tiếp. Đại đội phó, hạ sĩ
quan, rồi lính bị thương liên tục. Cuối cùng người Đại đội phó
mới đổi về cũng bị thương. Tôi như ngồi trên lửa nóng. Nỗi cô
đơn, lo sợ, hồi hộp, mất ngủ khiến tôi xuýt bị sẩy thai. Thế rồi
mẹ chồng tôi cũng về kịp trước ngày tôi sinh nở. Con tôi mở mắt
chào đời ở một nhà hộ sinh tư. Tôi mệt nhoài sau cơn vượt cạn, mẹ
chồng tôi đón con bé với nụ cười gượng gạo. Bà chỉ mong là trai
để nối dõi tông đường. Còn anh, được tin tôi đã sinh con, anh về
cùng người lính tùy tùng. Vào nhà thương, xoa đầu tôi, bồng con
hôn vài cái là xe hậu cứ đã chờ để đưa anh lên lại đơn vị.
Ngày đầy tháng con bé, họ hàng, bà con
đầy nhà. Anh bươn bả bước vào, chào mọi người rồi tới bên tôi
cười cười. Bồng con bé lên hỏi tôi: “Sao mặt nó như dài ra”, hôn
con, ăn vội vã vài miếng. Xe hậu cứ trờ tới và anh lại lên đường.
Tôi ứa nước mắt, không thể giận anh mà cũng không thể không trách
anh. Chẳng nói gì được với tôi một câu ngọt ngào khi tôi vật lộn
trong cơn đau đẻ, lại chịu sự chăm sóc cực kỳ quái đản của mẹ
chồng tôi trong những ngày nằm cữ. Tôi nhắm mắt lại, thương con
và thương mình quá đỗi.
Và cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt.
Anh được đổi về làm ở Trung tâm Hành quân. Tôi nghe thôi chứ cũng
không biết ở đâu. Chỉ biết ít nguy hiểm tính mạng hơn ở Đại đội.
Chồng tôi là một người sống chân thành và tốt với bạn bè, đồng
đội. Tôi nhớ có một lần anh dẫn về nhà một người lính và một
người phụ nữ. Anh nói với tôi đây là lính trong đơn vị, vợ nó tới
thăm. Anh cho nó nghỉ phép và nói nhỏ với tôi lo ăn uống cho tươm
tất. Đến tối, anh bảo tôi ôm con xuống nhà sau ngủ, nhường giường
chúng tôi cho 2 vợ chồng kia. Anh nói:
– Tội nghiệp tụi nó, gặp nhau như vầy
nó mừng lắm. Hãy để nó trọn vui. Đời lính không biết sống nay,
chết mai.
Và
như vậy, sáng hôm sau anh lên đơn vị, người lính cùng vợ có 3
ngày phép đoàn tụ tuyệt vời. Một lần thấy anh không còn bộ đồ
civil nào cho ra hồn, tôi bảo anh đi may một bộ đồ mới. Anh vốn
là người khó tính và kén chọn. Mãi sau mới chọn được màu vải vừa
ý mà may. Lấy đồ về chỉ một lần mặc thử cho tôi ngắm rồi mãi bận
hành quân không có dịp mặc.
Đại đội phó của anh, gia đình ở tận
miền Tây, anh ta lại phải lòng cô gái Đà Nẵng. Thế là một hôm anh
về bảo tôi mở tủ lấy bộ đồ mới may, tặng cho anh chàng Đại đội
phó của mình. Anh nói với tôi:
– Nó cũng trạc với anh. Nó mặc vừa đó
em. Thôi tặng cho nó đi hỏi vợ. Hỏi vợ chỉ một lần chứ may đồ thì
mình còn nhiều lần khác. Tội nghiệp gia đình nó ở xa, không có bộ
đồ civil nào mặc cho ra hồn để coi cho được trong ngày quan
trọng.
Tôi vừa
tiếc vừa phục tấm lòng tốt của chồng. Không còn lời nào để nói
tôi đành gói lại đàng hoàng, bỏ trong túi xách và bảo đem cho chú
ấy. Ngày Đà Nẵng sắp mất, người người bỏ chạy ra ngoài bến tàu để
thoát vào Sài Gòn. Chồng tôi ở Trung Tâm Hành Quân, biết sự sụp
đổ đã đến, không liên lạc được với đại đội cũ của mình. Anh cấp
tốc lên tận nơi trú đóng và kéo lính về trong làn sóng di tản
khổng lồ của Đà Nẵng. Chúng tôi, mẹ già, con dại chờ đợi anh mỏi
mòn. Trông thấy anh về với đoàn quân tan tác mà muốn xỉu.
Chồng tôi ruột để ngoài da. Lúc nào anh
cũng lo cho bạn bè, đồng đội, anh em, ít khi nào lo lắng chuyện
nhà. Mọi thứ mẹ chồng tôi cáng đáng điều khiển và tôi là người
tuân lệnh thi hành. Có lẽ nói ra không ai tin, nhưng đối với tôi,
tôi chưa hề cầm trong tay một đồng lương lính.
Ngày chưa theo anh, tôi đi dạy, có
lương, có nghề nghiệp, tiền ai nấy xài. Mà tiền lính thì tính
liền, anh cũng chẳng có gì dư giả. Theo chồng ra Đà Nẵng, tiền
lương anh có đưa cho mẹ chồng tôi không thì tôi không biết, còn
tôi chẳng hề nghe nói đến tiền bạc. Ngày Đà Nẵng mất lẽ dĩ nhiên
anh không có lương và anh đi “cải tạo” suốt 8 năm trời, chấm dứt
một thời kỳ lính tráng.
Như vậy thì làm vợ lính vui hay buồn,
sướng hay khổ? Thưa các anh, người vợ lính chịu mọi thiệt thòi.
Có chồng mà cũng như không trong suốt thời kỳ chinh chiến cũng
như hòa bình. Những ngày tù tội đã đành, không thể trách ai. Các
anh trong bốn bức vách lao tù, số phận ai cũng như ai. Nhưng
người vợ lính ở nhà, cái vòng đai rộng hơn, bẫy rập nhiều hơn,
con người tàn ác quỷ quyệt hơn đe dọa thân phận đàn bà.
Tôi có những người bạn vì thương chồng,
lo lắng chạy chọt để lo cho chồng về, để rồi sụp bẫy. Cả cuộc đời
danh tiết, hạnh phúc bị mất tất cả. Có người lạc bước khi bươn
chải kiếm đồng tiền lo cho con, lo cho chồng “cải tạo”. Thương
tâm lắm, đau đớn lắm cho những cánh hoa trong biển lửa tàn ác của
chiến tranh ý thức hệ.
Xin lỗi các anh cho tôi nói thật. Khi ở
tù về, các anh thật sự quên đi tất cả, đem hết sức mình cùng sát
vai vợ mà lo cho gia đình không? Đàn bà chúng tôi, ăn trắng mặc
trơn, học hành trí thức, nhưng đến lúc phải lo miếng ăn cho con,
cho chồng thì bất chấp sự cực khổ.
Bán chợ trời, chạy hàng xuôi ngược Bắc
Nam, bán hàng rong, cày thuê, cuốc bẫm, bán thuốc tây, thuốc hút,
làm công nhân... Bất cứ nghề nghiệp nào lương thiện để kiếm ra
tiền thì không quản ngại khó khăn. Các anh nhận những món quà đơn
sơ, nhưng biết đâu rằng trong hoàn cảnh cả nước cùng đói, chúng
tôi phải tính toán muốn bạc tóc mới đem được đến tay các anh một
ít quà, nhưng là một biển yêu thương, một trời thương nhớ. Khi
các anh được về nhà sau những tháng ngày bán đời mình cho đói
khát, bệnh tật, các anh không biết là đã mang theo trong mình một
nỗi chán chường, một tâm hồn đầy bất mãn và nghi kỵ mọi thứ. Các
anh lính hào hoa, yêu đời, coi thường sinh mạng đã mất. Các anh
bây giờ đã bỏ lại trên núi đồi Việt Bắc phân nửa cuộc đời hùng
tráng của mình.
Chồng tôi cũng vậy, anh chán đời, bất
mãn và tự ái với vợ, với con và chính bản thân mình. Tôi đã khóc
nhiều đêm, nhiều ngày mà không biết làm sao kéo anh ra khỏi cái
ám ảnh tàn khốc đó. Tôi công nhận bọn cộng sản thật quỷ quyệt,
những bài học nhồi nhét cho các anh, nó như con ma kéo trì những
chí hướng phấn đấu của chồng tôi. Người lính của tôi đã thật sự
thất trận thảm thương!
Khi được sang Mỹ định cư, mẹ chồng tôi
mang nhiều bệnh tật. Chồng tôi vui buồn, khoẻ mạnh hay suy nhược
theo căn bệnh của mẹ chồng tôi. Anh có cảm giác mình phải làm cái
gì trả hiếu cho mẹ mà bất lực. Ngày mẹ chồng tôi mất, chồng tôi
như thân cây không còn mầm sống gục xuống đau đớn. Anh bị trụy
tim, bị stroke và đầu óc càng ngày càng suy nhược theo căn bệnh
Parkinson.
Bây
giờ sau 38 năm chồng tôi không còn làm người lính, nhưng tôi vẫn
làm người vợ lính hằng ngày theo từng sinh hoạt của chồng. Anh
đang sống trong hồi ức những ngày bên anh em, bạn bè, đồng đội.
Có món gì ngon là anh bảo “kêu mấy đứa tới ăn”. Đừng tưởng anh
kêu bầy cháu tôi. Không đâu, bạn bè lính tráng của anh đó. Khi
thì kêu tôi “chuẩn bị đồ nhậu, mấy thằng em tới chơi”. Khi thì
bảo thay đồ cho anh để “anh đi họp Tiểu đoàn”. Khi thì vui cười
kể chuyện huyên thuyên như có người trước mặt.
Và như vậy tôi mãi mãi là người vợ
lính, vui buồn chung với những suy tư và cảm giác của chồng.
Những người chỉ huy, đồng đội của chồng dù không ở trước mặt,
nhưng là những người bạn vô hình đem lại niềm vui cuối đời cho
chồng tôi. Mỗi buổi sáng lạy Phật tôi đều nguyện cầu bình an cho
chồng, cho con cho tất cả mọi người xung quanh tôi. Cầu nguyện
cho những anh hùng chiến sĩ đã nằm xuống được nhẹ nhàng siêu
thoát.
Tôi rất
ái mộ những chị cầm Cờ Vàng theo chồng trong những cuộc biểu tình
chống Cộng, hay sát cánh bên anh trong những lần sinh hoạt đơn
vị. Màu áo các chị tung bay xinh xắn, gương mặt các chị rạng ngời
hạnh phúc, đôi mắt các chị rực lửa đấu tranh.
Những người vợ lính ấy đã làm đẹp cuộc
đời cho chồng, cho xã hội. Tôi không được may mắn ấy, chồng tôi
bây giờ là một thương binh thật sự. Anh không thể sát cánh cùng
đồng đội sinh hoạt, nhưng trái tim anh và đầu óc anh đầy ắp tình
đồng đội và quê hương. Và tôi dù gì và cho thế nào đi chăng nữa
tôi vẫn mãi mãi là người vợ lính không bao giờ thay đổi.
Nguyễn Thị Thêm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những
trang có cùng chủ đề
Vợ Lính
Vợ Lính 2
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by đoàn hữu định chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, July 7,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang