Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
bạn cũ
Tác giả:
Song Thao
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Cũng là một tình cờ mà tôi đến
Los Angeles lần này. Ông anh tôi, một người suốt đời ăn ở hiền
lành như một cục đất, vậy mà tới cái tuổi trên 60 lại vướng vào
chứng bệnh ung thư bao tử. Cả nhà vẫn giấu không cho anh tôi biết
là ông bị cái bệnh quái ác này. Thư viết cho tôi ông vẫn lạc quan
cho là ông chỉ bị đau bao tử, căn bệnh mà ông đã khổ với nó từ
ngày còn ở Việt Nam, và với tiến bộ của nền y khoa Hoa Kỳ trước
sau gì cũng hết bệnh. Bà chị tôi điện thoại qua kể là bác sĩ đã
mổ nhưng đành bó tay không chữa trị gì được và họ cho biết anh
chỉ còn sống được 1 tháng nữa là cùng. Bà chị tôi nghẹn ngào nói
là tự nhiên mấy hôm nay anh cứ mong mỏi được gặp tôi. Tôi mua vé
máy bay ngay và trù tính sẽ đi vào 2 tuần nghỉ Giáng Sinh.
Tôi tính trong bụng chuyến đi này sẽ là
một công đôi ba chuyện. Tránh được 2 tuần mùa đông của xứ
Montréal lạnh lẽo này cũng là một cái hay. Tới thăm đất thánh
điện ảnh Hollywood một đời ao ước được đặt chân tới là một cái
hay khác. Tiện thể nếu gặp bà già Audrey Hepburn thì nói nhỏ với
bà chẳng nên chường mặt trên TV nữa vì bà đã sói mòn trong tôi
hình ảnh một Audrey mát rời rợi trong Vacances Romaines của thời
mộng mơ cũ. Lại còn gặp đám bạn đông như kiến ở một nơi được mệnh
danh là một quê hương ngoài quê hương nữa chứ. Trước kia gặp nhau
ngày một bên những ly cà phê buổi sáng ở Pagode, những chai la ve
lạnh buổi chiều ở Givral, vậy mà đã 15 năm rồi không trông thấy
mặt nhau. Kể cũng lâu thật. Bằng cả một đời lưu lạc của tiểu thư
Thúy Kiều chứ ít sao. Phải tới tận nơi xem cái đám công tử Sài
Gòn ngày xưa bây giờ râu tóc ra sao. Tôi không qua thăm thì chắc
tới tết Congo tụi nó cũng chưa qua thăm tôi. Thói đời thì anh
nghèo bao giờ cũng phải tới thăm anh giàu cũng như tôi ở cái xứ
lạnh lẽo thì phải qua thăm cái xứ nắng ấm chứ ít khi có chuyện
ngược đời lắm.
Mọi chuyện tính đâu ra đó chỉ còn vài
hôm nữa là khăn gói lên máy bay thì nhận được điện thoại của bà
chị:
– Anh chú
mất rồi chú ơi!
Tiếng nức nở khi có khi mất lùng bùng
bên tai:
– Dù
sao chú cũng phải qua nhìn mặt anh ấy lần chót. Tiếng khóc nỉ non
làm tôi nẫu gan nẫu ruột. Thật chẳng ra làm sao. Tính đi thăm
người sống lại hóa ra đi đưa người chết. Lên máy bay mà người cứ
bần thần như lỡ một cái hẹn quan trọng.
Mấy tên bạn đến đón tôi ở phi trường
hét ầm lên khi thấy mặt tôi ló ra khỏi cửa. Vẫn đùa nghịch như
xưa. Tránh ra! Tránh ra cho quan đi! Quan quách gì nữa. Mỗi đứa
chỉ đập vào vai tôi một cái mà hai vai như xệ xuống:
– Trông nó vẫn như vậy, chẳng khác gì
cả.
Tôi nhận
ra từng tên bạn ngay tức thì. Chẳng khó khăn gì lắm. Nhưng vẫn
như vậy sao được. Tóc tai đã xơ xác đổi màu, da dẻ đã từng vảy
xếp lớp, bộ điệu đã nặng nề chậm chạp. Dung nhan nào cũng đã tới
cuối thu. 15 năm chứ ít ỏi gì. Thịt da chứ có phải sắt đá đâu mà
không hư hao. Cười nói huyên thuyên cho hả nỗi mừng tái ngộ mà có
nghe được câu nào ra câu nào đâu. Mấy khi lại có dịp sống lại
những ngày tươi tắn cũ.
Tôi thả người cho mấy tên bạn lôi xềnh
xệch ra xe. Trời đất gì mà đã thiệt. Ấm áp như một làn da mềm
mại. Mấy cái áo lạnh trên người trông ngớ ngẩn lạ. Nắng chiều
thoi thóp cũng vẫn còn đẹp chán. Lại còn những bóng cây xanh rậm
xanh rì, hoa hoét lả lơi cười cợt. Chẳng bù với những cành cây
gầy guộc khô khốc, những vạt tuyết lạnh lùng câm nín nơi tôi vừa
rời xa.
– Phải
đưa ông quan lạc loài này đi ăn phở “dân biểu” chứ tụi bay?
Một giọng đề nghị vang lên. Một giọng
khác hỏi:
–
Mày còn nhớ thằng Hùng dân biểu không?
Tôi chẳng cần lục soạn trí óc lâu. Một
khuôn mặt rắn rỏi cùng cái miệng lúc nào cũng tía lia với hai cục
nước miếng trắng đục luôn luôn đứng chầu hai bên mép hiện ra rõ
rệt trong đầu.
– Nhớ chứ!
– Bây giờ nó là “bếp trưởng” của tiệm
phở nổi tiếng nhất ở đây đấy. Hồi xưa nó nói bây giờ nó làm!
Cả bọn cười ồn ào vì câu pha trò duyên
dáng nhưng nghiệt ngã. Tôi nghĩ thầm trong đầu. Mấy cái trại cải
tạo của Việt cộng có những tác dụng bên lề thật tức cười. Khi
không mà các quan đi vài năm về có cái nghề tay trái sang đây lại
hữu dụng. Có quan nghiên cứu được nghề xem tử vi như thần, kiếm
mỗi lá số vài chục như không. Có quan hớt tóc nhuyễn như từ thuở
cha sinh mẹ đẻ tới giờ chỉ biết có hớt tóc, cứ ngày ngày vít đầu
đồng hương lấy tiền khoẻ ru. Hùng dân biểu ở trong trại rất chăm
chỉ pha pha chế chế “cải thiện” với thịt rắn thịt cóc thế mà
thành tài nấu phở bò nổi tiếng ở xứ lạ quê người mới chết chứ!
Tiệm phở đã có khá đông thực khách. Mấy
cái bàn kê lại với nhau mới đủ chỗ cho đám công tử già kề vai
nhau hội ngộ. Một tên chạy vào bếp kéo Hùng lên. Chiếc tạp dề màu
cháo lòng được giữ trên người bằng hai sợi dây đeo ngang vai và
mái tóc bạc trắng của Hùng làm hắn lạ hoắc. Chỉ khi hắn nhảy xổ
vào tôi vừa cười nói huyên thuyên nước bọt kéo ra hai bên mép vừa
đưa hai tay nắm vai tôi lắc lắc như muốn biết chắc chắn có thật
là tôi không thì tôi mới thấy đúng là ông dân biểu ngày xưa. Hùng
rút vội xuống bếp sau khi đã đe dọa sẽ làm cho tôi một tô phở
thịt cóc nấu bằng... lon guigoz! Đang vui là thế mà câu nói của
Hùng làm đầu tôi nặng trĩu hình ảnh nhếch nhác của những ngày
nhọc nhằn truyền nhau lon guigoz canh thịt cóc nấu với mấy cọng
rau dại vớ vẩn trong trại cải tạo. Thấy tôi ngồi thừ mặt ra một
tên lớn tiếng mắng là vừa mới bày đặt đi giang hồ đã lo... nhớ
vợ. Mấy tên này chưa mất nước đã cao chạy xa bay đâu có hiểu được
tình nghĩa bạn bè trong lúc bi cực. Nó như một chất keo tội
nghiệp gắn bó những mảnh hồn vụn nát tiêu điều trong cảnh u uất
của đời tù tội.
Mỗi tên có một tô phở nghi ngút khói
thơm lừng trước mặt. Hùng trở ra với điếu thuốc trên môi hỏi tôi:
– Cậu còn nhớ mấy tên “đồng đớp” của
tụi mình không? Chữ “đồng đớp” kéo tôi trở lại những tháng ngày
mỏi mệt cũ. Mấy tên quản giáo gọi nhau là “đồng chí” thì mấy tên
tù có “đồng đớp” ăn chung với nhau, “đồng sàng” nằm chung với
nhau, và khi bị giải đi 2 tên chung một cái còng khóa lại với
nhau thì có “đồng khóa”.
Tôi gật đầu:
– Nhớ chứ! Lạng “héo” này, Bình “tồ”
này, Chí “ngỏng” này.
Hùng nhìn tôi:
– Giờ chỉ còn cậu và tôi.
Tôi giật mình hất đầu lên chờ đợi. Hùng
hạ giọng như nói thầm:
– Lạng bỏ xác trong trại tù ngoài Bắc,
Bình mất tích trên biển Đông, Chí chết vì bệnh phổi khi vừa được
thả về với gia đình.
Tôi lặng người nhìn Hùng. Trông hắn như
một con cú chỉ biết báo những tin ai oán. Chưa để cho tôi rũ bỏ
được nỗi thảng thốt, Hùng hỏi tôi:
– Cậu quen thân với Vĩnh phải không?
– Quen quá đi chứ, giờ hắn ở đâu?
– Vợ hắn ở đây này.
Giọng nói của Hùng nghe bình thản, nét
mặt phẳng lì, đôi mắt chớp tự nhiên nhưng sao tôi thấy trong ngực
tôi cuồn cuộn từng hơi thở nhoi lên mệt ứ:
– Để tôi cho cậu địa chỉ. Gần đây thôi.
*****
Chính chị Vĩnh ra mở cửa cho tôi. Gầy
hơn, đen hơn và buồn hơn so với lần cuối tôi gặp ở Sài Gòn 7 năm
trước đây. Thấy tôi chị như hét lớn:
– Trời ơi, anh Nam!
Rồi chị òa khóc nức nở. Đôi vai mảnh
mai rung lên cùng với tiếng nói nghẹn ngào như không muốn thoát
ra khỏi cổ họng:
– Anh Vĩnh chết rồi anh Nam ơi!
Tôi đứng như trời trồng, đầu óc trống
rỗng, ngơ ngẩn như vừa lạc vào một bãi sa mạc mênh mông chỉ có
tôi với cát. Chiều hôm qua tôi cũng đã chôn chân lặng nhìn ông
anh tôi nằm bất động giữa thảm hoa trắng đến lạnh người. Cái chết
thật gần và thật tinh quái. Ông anh tôi, Lạng, Bình, Chí. Và bây
giờ là Vĩnh. Chỉ trong vòng một ngày đặt chân tới thành phố xa lạ
này tôi đã 5 lần đụng đầu cái chết. Chết như ông anh tôi đã ra
một lẽ. Gần tới tuổi “cổ lai hi” mà chết một cách có lớp có lang
như vậy thì cái chết cũng nhẹ nhàng đi nhiều. Còn lũ bạn tôi đời
chưa tắt nụ cười mà xác thân đã gục xuống. Chúng bị xô đẩy thô
bạo tới cái chết một cách tức tưởi. Thảm cho người chết và hụt
hẫng cho người sống.
Chị Vĩnh gục mặt xuống như một bức
tượng thảm sầu. Tôi ngồi chịu trận cứng đơ như một tượng đá. Vĩnh
đã chết. Tôi cố làm quen với cái sự thực khốn nạn này. Ngày tôi
bỏ nước ra đi tôi có tới gặp Vĩnh để chào tạm biệt. Tôi nghĩ rằng
tạm biệt vì tôi biết thể nào Vĩnh cũng ra khỏi nước được. Hắn đã
chẳng đi tới cả chục lần rồi đấy sao! Số chưa tới thì chịu vậy.
Hai lần bị bể nặng nề nhất đã đưa Vĩnh vào tù mỗi lần cũng ngót
nghét 1 năm. Ấy là nhờ vợ hắn xông xáo chạy chọt mỗi lần tốn cả
vài cây vàng chứ không thì cũng mọt gông. Mỗi lần đi hụt lại làm
cho hắn cương quyết thêm. “Vượt biên cũng như đánh bạc ấy ông ạ,
càng thua càng cay cú muốn đánh thêm.” Vẻ mặt hắn bình thản khi
nói. Cái cay cú khi đã vượt một mức độ nào đó lại mang một bộ mặt
hết sức hiền lành. Như nhìn mặt nước phẳng lặng đâu có ngờ tới
những đợt sóng ngầm dữ dội nằm ở bên dưới. Vượt biên đối với Vĩnh
như một cái đạo. Chỉ có nhắm mắt đi theo chứ chẳng cần phải nghĩ
ngợi lôi thôi. Vài tháng trước khi tôi đi, Vĩnh đạp xe ghé qua
nhà tôi, cởi mấy sợi dây thun cột chằng chịt trên “poóc–ba–ga”
lôi xuống một cái bị cói nặng chình chịch. Hắn đã cho tôi coi mấy
cục gang:
–
Ông có biết cái gì đây không?
Thấy bộ mặt ngẩn tò te của tôi coi bộ
thiếu ánh sáng quá hắn trả lời luôn cho khỏi mất thời giờ:
– Cối xay bột làm bánh phở. Nghề này ở
bên đó bây giờ ăn chết. Tôi mang một cái qua làm mẫu cho chắc ăn.
Tôi góp ý với hắn:
– Sao ông không vẽ mẫu ra giấy mang
theo có tiện hơn không! Nặng như cái cùm thế này ông đi chui sao
mà mang theo được?
– Lo chi! Lần này chủ tàu là chỗ bà con
tôi có thể gửi xuống tàu trước được.
Tôi không nói gì thêm nữa. Tính Vĩnh
thì tôi quá biết. Muốn gì là làm cho bằng được. Có trời cản nổi
hắn. Bữa tôi mới ở tù về chẳng biết làm nghề ngỗng gì nuôi vợ con
thì Vĩnh bảo tôi hắn có một chiếc xe nước mía tôi lấy mà dùng cho
qua cơn túng bấn. Lúc đó bụng dạ tôi rối mù như một nùi chỉ suốt
chẳng biết quyết định ra sao. Từ nhỏ tới giờ chỉ biết đi học rồi
đi làm có biết bán buôn gì đâu, lại là cái loại buôn bán cùng
mằng đầu đường xó chợ thế này. Vĩnh chẳng nói chẳng rằng kéo tôi
về nhà hắn. Thế rồi hắn cùng tôi lễ mễ đẩy chiếc xe nước mía từ
Ngã Ba Ông Tạ về tới Thị Nghè. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà mặt hắn
vẫn tỉnh bơ trong khi tôi mắc cỡ muốn chết chỉ sợ gặp người quen.
Chính hắn đi cất mía, chỉ dẫn và bán với tôi cả tuần lễ cho tôi
tập quen dần. Chiếc xe nước mía giúp tôi sống qua ngày cả năm
trời sau đó.
Tính Vĩnh cương quyết như vậy mà khi tôi tới chào hắn để ra đi
hắn đã mềm nhũn như một sợi bún thiu. Mắt hắn chớm đỏ như chỉ
chực ứa nước mắt ra. Giọng nói rạn nứt thốt ra từ đôi môi giật
giật run rẩy. Hắn cứ luôn miệng giục tôi đi về và chúc tôi may
mắn nơi xứ người. Tôi thì lại cứ nấn ná không đành lòng rời hắn
ra về. Tôi biết hắn không mảy may tị nạnh với sự may mắn của tôi
nhưng hắn cũng chẳng thể bình thản với sự không may mắn của hắn.
Vĩnh không muốn kéo dài nỗi nhức nhối và tôi cũng chẳng thể đành
đoạn mau chóng xa lìa một tên bạn thân nhất đời. Cuối cùng cũng
tới lúc tôi phải ra về. Vĩnh đưa tôi ra cửa, đưa tay cho tôi bắt,
và rụt phắt tay quay mặt đi vào trong nhà. Tôi như mường tượng ra
giọt nước mắt mà Vĩnh không muốn tôi thấy.
Bây giờ tôi ngồi trước mặt chị Vĩnh
thần trí bảng lảng, mắt vẫn ráo hoảnh. Tôi chưa làm quen được với
cái chết của Vĩnh. Vĩnh đã cháy túi sau ván bài rủi ro cuối cùng.
Một sự cháy túi rốt ráo chẳng còn cơ hội để gỡ lại. Tôi hỏi lại
chị Vĩnh:
–
Vĩnh mất trên đường vượt biên phải không?
Chị Vĩnh gật đầu, hai vai vẫn rung lên
từng cơn. Tôi đan hai tay vào nhau loay hoay một cách tội nghiệp
chẳng biết lựa lời hỏi thăm câu chuyện ra sao cho khỏi chạm tới
mối thương đau của vợ bạn. Chị Vĩnh như nói một mình:
– Lầm lỡ một lần mà mất mạng. Nếu ngày
đó anh ấy đừng về.
Một ngày sau khi Việt cộng chiếm Sài
Gòn, tôi tới sở trình diện theo lời kêu gọi hàm ý đe dọa của Ủy
Ban Quân Quản, lòng nặng trĩu những âu lo. Vừa bước chân qua cánh
cổng lớn tôi hoảng hốt không tin ở mắt mình khi thấy Vĩnh đứng
ngay giữa sân. Tôi kéo hắn ra chỗ vắng gằn giọng hỏi:
– Ông về làm chi vậy?
Vĩnh cố lấy giọng bình tĩnh:
– Phải về chứ ông. Mình đâu có bỏ được
đất nước mình. Việt cộng vào mà không có đổ máu thì mọi việc đâu
sẽ vào đấy. Chẳng sao cả đâu!
Tôi nhìn sâu vào mắt Vĩnh cố tìm những
nét ẩn giấu sau những lời biện bạch tội nghiệp này. Tôi nghe
giọng Vĩnh như có ý bào chữa cho bước sẩy chân đáng tiếc của hắn.
Cả trăm ngàn người giẵm lên nhau chạy đi trong khi Vĩnh lù lù dẫn
xác trở về.
Tôi và Vĩnh ở chung phòng với nhau khi cùng đi tu nghiệp tại
Manila. Hai đứa cùng mới có con đầu lòng được 6 tháng nên hợp
nhau ở chỗ nhớ con. Nhớ quay nhớ quắt, bồi hồi như mang lòng dạ
ra phơi nắng. Mỗi lần đi phố là y như rằng thế nào cũng tìm vào
tiệm bán quần áo hoặc đồ chơi trẻ con mua một thứ mang về vứt vào
tủ. Riết rồi tủ đứa nào đứa nấy đầy nhóc. Có ai về Việt Nam lại
gửi về một ít. Gửi xong ngồi thừ ra một đống chẳng muốn nhúc
nhích tay chân. Đầu năm 1975 tôi về nước trước cũng mang về cho
con Vĩnh cả nửa xách tay đồ của bố gửi. Theo chương trình thì
Vĩnh còn phải ở lại tới tháng 7 mới mãn khóa tu nghiệp. Tôi cứ
đinh ninh giờ này Vĩnh còn yên lành ở Manila. Vậy mà Vĩnh đã bỏ
về sớm. Những ngày cuối tháng tư khi Sài Gòn đang ở trong những
giờ phút tuyệt vọng Vĩnh lên Tòa Đại Sứ Mỹ ở Manila đòi về. Họ
hỏi Vĩnh có điên không mà quay về vào giờ phút này. Vĩnh cương
quyết đòi về vì lý do gia đình còn ở Việt Nam. Tôi chắc đứa con
mà Vĩnh nhớ quay quắt đã là một quả cân có trọng lượng làm lệch
cán cân suy nghĩ của Vĩnh. Cơ quan USAID đã đưa Vĩnh đi tu nghiệp
thì nếu Vĩnh đòi về họ phải đưa về. Nhưng người Mỹ cố thuyết phục
Vĩnh lần chót nên chờ xem tình hình ra sao đã rồi sẽ quyết định
sau. Vĩnh lớn tiếng phản đối và nhất định đòi về. Viên Lãnh Sự
cũng lớn tiếng cho Vĩnh biết là muốn ra khỏi Việt Nam mới khó chứ
về thì dễ lắm. Muốn một ngàn chỗ cũng có ngay. Và Vĩnh đã ngồi
thênh thang một mình trên chiếc máy bay quân đội Mỹ đáp xuống phi
trường Tân Sơn Nhứt ngày 28 tháng 4. Vừa bước chân ra khỏi máy
bay Vĩnh đã ngất ngư trong trận pháo kích vào phi trường. Hắn
phải chui vào quầy vé bỏ trống của các hãng hàng không để tránh
đạn. Số Vĩnh còn may nên không lãnh thẹo trong ngày qui hồi cố
hương.
Nhưng
vết thẹo trong lòng Vĩnh thì chẳng có cách gì tẩy xóa được. Cuộc
sống càng ngày càng tệ mạt cả tinh thần lẫn vật chất đã làm Vĩnh
tê tái nuối tiếc. Trong đầu Vĩnh chỉ còn nỗi ám ảnh duy nhất là
toan tính vượt biên. Đó là cái “nghề” duy nhất của Vĩnh trong 12
năm ở với cộng sản. Và Vĩnh đã tử vì nghiệp.
Nước mắt là phương tiện chuyên chở nỗi
buồn ra khỏi con người khá hữu hiệu. Chị Vĩnh ngồi khóc một hồi
rồi như chợt nhớ ra địa vị chủ nhà của mình:
– Tôi thật vô ý quá. Để bảo cháu rót
nước mời anh. Anh vẫn còn thích nước trà đá như ngày xưa chứ?
Tôi cảm thấy ấm lòng khi nhớ lại những
ngày lui tới nhà Vĩnh. Vậy mà đã âm dương đôi ngả. Tôi bước tới
trước bàn thờ đơn sơ có khung hình của Vĩnh. Tấm hình Vĩnh chụp
tại nhà 1 người Phi Luật Tân làm ở trong trường Đại Học. Công
chức Phi thường cũng phải có thêm một nghề tay trái mới đủ ăn.
Bữa chụp hình Vĩnh đã nói đùa là vừa giúp đỡ ông già tốt bụng vừa
có cái để trên bàn thờ sau này. Câu nói gở của Vĩnh lúc đó tôi
nghe ra như một câu vui đùa ngang tàng nên tôi cũng rỡn lại:
– Chân cẳng còn dơ hầy mà đòi leo lên
bàn thờ. Còn lâu!
Gần 20 năm có phải là lâu không? Bây
giờ Vĩnh đã chễm chệ cười mỉm trên bàn thờ. Tôi thắp 1 cây nhang.
Làn khói vắt vẻo uốn lợn trước mặt Vĩnh. Khuôn mặt đầy đặn, trắng
trẻo, đôi môi lúc nào cũng hé mở phô ra hàm răng thưa, hai hàng
lông mày rậm rạp nằm thẳng trên đôi mắt nhanh nhẹn sắc lẻm.
Chính nhờ khuôn mặt bảnh trai này mà
Vĩnh đã được anh em lựa đóng vai chú rể trên sân khấu lộng lẫy
huy hoàng giữa thủ đô Manila. Trong Đại Hội Văn Nghệ sinh viên
quốc tế theo học tại Phi năm đó, sinh viên Việt Nam chơi trội
trình diễn một đám cưới cổ truyền Việt Nam. Chúng tôi xúm xít
nhau may áo dài, làm khăn làm nón và còn làm luôn cả một chiếc
lọng óng ánh rực rỡ. Một tên thổ công ở Manila còn đặt nguyên một
con heo quay cho đám cưới gây được ấn tượng mạnh với người ngoại
quốc. Cô dâu là vợ của một Việt kiều trẻ trung và vui tính. Lúc
cô dâu chú rể áo quần tươm tất đứng cạnh nhau, mọi nguời khen là
rổ rá cạp lại mà cũng đẹp đôi ra phết. Đám cưới nhiều màu sắc và
lễ nghi lạ lùng đã làm xôn xao cử tọa đông nghẹt hội trường rộng
lớn và mang lại cho sinh viên Việt Nam giải thưởng danh dự một
cách không khó khăn lắm. Sau giờ trình diễn chúng tôi kéo về học
xá ngả thịt heo quay ăn với bánh mì. Không thấy Vĩnh đâu mọi
người nhớn nhác tìm kiếm. Một lúc sau Vĩnh mới chui từ phòng tắm
ra đầu tóc ướt sũng chải chuốt gọn gàng. Anh Việt kiều chồng của
cô dâu nhìn Vĩnh nhẩn nha nói:
– Nhiêu đó đủ rồi ông bạn, làm chi mà
tắm rửa sạch sẽ thế? Cứ tưởng bở!
Mọi người lăn ra cười trong khi mặt
Vĩnh đỏ bừng như một chú gà chọi hay mắc cỡ. Ngọn đèn đỏ trước
khuôn hình Vĩnh làm tôi nắm bắt được vẻ mặt sượng trân của hắn
một đêm xưa. Những kỷ niệm như làm cho người ta níu kéo được cuộc
sống dù là một cuộc sống đã mất tăm mất hút trong cái biền biệt
của thời gian. Cuộc tử sinh sao quá suồng sã!
Tôi đã đọc được đâu đó một ý tưởng như
thế này. Cái chết là một cuộc chuyển đổi nhẹ nhàng sự sống của
con người. Khi chết phần tâm linh rũ bỏ thể xác để đi tới một
cuộc sống khác giống như người ta thay một chiếc áo cũ. Có sá chi
cái phần vật chất vô dụng của người chết để lại như một miếng giẻ
rách mà người sống gào thét tiếc nuối. Thác là thể phách còn là
tinh anh. Mà cái tinh anh thì còn mãi trong cõi bất diệt. Nghĩ
được như vậy thì cái chết nhẹ được nhiều phần lắm.
Tôi nói với chị Vĩnh ý tưởng này như
một lời an ủi khi tới từ giã chị trở về Montréal. Chị tần ngần
ngồi vân vê chéo áo, đôi mắt trĩu nặng như phải gánh chịu ngàn
cân buồn phiền. Cái buồn phiền như được lên men trong giọng nói
chầm chậm mỏi mệt:
– Không những tôi nghĩ mà tôi còn tin
chắc là anh Vĩnh vẫn còn đâu đó quanh tôi. Nhưng cái mất mát từ
một hiện diện sờ mó được tới một ý niệm thấp thoáng nét hư không,
phải cần có thời gian mới nuốt trôi được anh ạ. Nếu bây giờ tôi
nói với anh là tôi đã nhìn thấy anh Vĩnh bên ngoài cõi sống này
anh có tin không?
Tôi gật đầu không nói, trong đầu nghĩ
là sự khắng khít vợ chồng và nỗi tiếc thương khôn nguôi có thể
đưa chị phiêu bồng qua thế giới trừu tượng giao hòa trong khoảnh
khắc với cái phần tinh anh của Vĩnh. Nhưng câu chuyện chị kể sau
đó đã đi xa hơn ý nghĩ của tôi rất nhiều.
*****
Lần này Vĩnh ra đi một mình để lỡ có bị
bắt nữa thì có người ở ngoài xoay sở dễ dàng hơn. Vợ con Vĩnh sẽ
đi sau nếu Vĩnh thoát. Canh bạc này Vĩnh đã hầu như nắm chắc phần
thắng vì Vĩnh đã đổi cách đi. Thay vì nhào ra biển như những lần
trước, Vĩnh theo đường bộ xuyên qua Kampuchia và đáp một chiếc
ghe nhỏ vượt eo biển qua Thái Lan. Chơi xả láng với Hà Bá không
xong thì chơi một tiếng bạc nhỏ với anh Hà Bá tép riu chắc khá
hơn. Mà khá thật. Chị Vĩnh đã nhận được mật mã của chồng do người
môi giới đưa tới nhà khoảng một tuần sau đó. Và chị đã trả tiền
liền như đã thỏa thuận trước. Vả lại người môi giới cũng là chỗ
quen biết nên chị thở phào nhẹ nhõm cả người khi trao tiền. Thế
là cuối cùng Vĩnh đã thoát và đang phây phây trên đất Thái.
3 tháng sau hai mẹ con chị Vĩnh cũng
khăn gói ra đi. Và cũng tới Thái Lan an toàn. Chị dò hỏi khắp
nơi, liên lạc với tất cả thân nhân, bè bạn đang tị nạn tại Thái
mà vẫn không một ai biết chút tin tức gì về Vĩnh. Nỗi lo lắng
trong chị như thiêu như đốt. Cho tới ngày chị bắt liên lạc được
với vài người đi cùng chuyến với Vĩnh. Họ cũng chẳng biết Vĩnh ở
đâu. Chị Vĩnh thực sự hốt hoảng. Chị chẳng biết bấu víu vào đâu
cho ra tung tích chồng. Chỉ còn một cách là đặt lòng tin vào các
đấng thiêng liêng. Chị tìm vào ngôi nhà nguyện bằng cây nhỏ bé
đơn sơ trong trại quỳ cả tiếng đồng hồ trước bàn thờ để cầu
nguyện. Khuya hôm đó chị chập chờn trong giấc ngủ đang tới, nửa
mê nửa tỉnh, thần trí nặng trĩu váng vất thì chị nghe thấy tiếng
chồng. Giọng kể lể vang vọng từ một nơi chốn mù khơi nghe rõ mồn
một.
Vĩnh kể
là cuộc hành trình đã đưa anh tới bờ biển Thái Lan vào lúc rạng
sáng ngày cuối năm dương lịch. Tài công nương theo bóng tối đưa
tàu vào bờ rồi còn phải quay tàu về trước khi mặt trời mọc nên
thời gian đổ người xuống rất lụp chụp vội vàng. Khi tàu còn cách
bờ một khoảng cách vừa đủ cho mọi người có thể bơi vào đất liền
được thì họ giục hành khách gồm toàn đàn ông ghi mật mã và nhảy
xuống biển bơi vào. Người nào người nấy vội vàng thi hành lệnh
của chủ tàu. Vĩnh là người chót đứng ở boong tàu. Anh nhìn xuống
mặt biển đen ngòm chẳng thấy gì hết nên ngập ngừng chưa dám nhảy
xuống. Một bàn tay đẩy Vĩnh xuống biển. Đầu Vĩnh va vào một tảng
đá ngầm, Vĩnh hôn mê và chết đuối.
Chị Vĩnh ngồi bất động khi kể tới đây.
Chị liếc nhìn lên khung hình của Vĩnh trên bàn thờ. Ánh mắt Vĩnh
thấp thoáng sau những vệt khói đang lững lờ kéo nhau lên cao. Chị
khẽ thở dài như muốn trút tất cả muộn phiền ra khỏi lồng ngực:
– Khi nghe nhà tôi nói vậy tôi buột
miệng than, sao người ta ác với anh quá vậy? Nhà tôi trả lời là
người ta không có ý giết vì họ chỉ xô nhẹ xuống biển cho nhà tôi
bơi vào bờ nhưng chẳng may gặp tảng đá ngầm. Giọng nói nhà tôi
đầy vẻ nhân ái khoan hòa. Tôi hỏi tiếp, sao người ta biết anh
chết mà còn mang mật mã tới nhà để lấy tiền? Vẫn với giọng tha
thứ, mềm mỏng, nhà tôi nói là con người ai chẳng có tính tham,
chẳng nên trách người ta.
Cõi không gian mà Vĩnh đang có mặt chan
hòa những ý niệm hồn nhiên trong lành. Như những phiến mây lờ
lững êm ả dưới ánh mặt trời rạng rỡ chói chang. Vĩnh tả lại niềm
hạnh phúc thanh thản của một nơi chốn toàn thiện toàn mỹ chỉ có
những bậc thánh nhân ngự trị. Chị Vĩnh muốn được tận mắt nhìn
thấy chồng trong chốn hoan lạc đó. Chị lại tới ngôi giáo đường
nhỏ bé nài nỉ Đấng Toàn Năng cho ý nguyện của chị được viên mãn.
Không hiểu là do cái tình quá khắng khít của chị với người chồng
đã khuất bóng hay là do sự dễ dãi bất ngờ của Đấng Tối Cao mà
chồng chị đã được phép tỏ hình hài với chị.
Cũng vào một buổi tối tâm trí chị nửa
mê nửa tỉnh, tâm linh chị như đang thoát khỏi xác phàm thì Vĩnh
bỗng xuất hiện trong cõi phiêu bồng trắng xóa nét tinh tuyền.
Chiếc áo choàng trắng trùm trên người làm Vĩnh như lơ lửng bập
bềnh trong chốn huyễn mộng. Khuôn mặt Vĩnh ánh lên vẻ sáng láng
thiêng liêng. Ánh sáng từ trong làn da mịn màng thấm ra làm như
thể chính khuôn mặt là ánh sáng, một vẻ sáng kỳ diệu lóng lánh
được kết bằng muôn triệu vì sao li ti xinh xắn. Nét mặt Vĩnh
thanh thản một cách lạ kỳ, cái thanh thản không thể có nơi người
trần thế. Chị Vĩnh chưa bao giờ nhìn được khuôn mặt chồng trút bỏ
được mọi phiền toái của cuộc đời như vậy. Chị muốn bày tỏ nỗi
thương nhớ với chồng thì Vĩnh biến đi như một giọt nước hối hả
bốc hơi. Như chưa hề hiển hiện. Như chẳng có chẳng không. Mây
trời khói núi muôn đời vẫn cứ lãng đãng phiêu diêu.
Trí óc tôi thuộc loại bướng bỉnh trì
chậm. Nó chưa được điều chỉnh để làm quen với một Vĩnh thanh cao
như vậy. Vĩnh trong tôi vẫn cứ là một Vĩnh loay hoay với những
canh bạc trần thế, một Vĩnh buồn vui với bạn bè thân quen, một
Vĩnh rất người, rất trần tục. Manila có một tiệm nhảy topless khá
nổi tiếng mang một cái tên thoát tục là The Saint. Mặt tiền nhỏ
bé của tiệm gợi lên tượng hình của một ông thánh kết bằng đèn
huỳnh quang màu xanh có vòng tròn thánh màu đỏ bao quanh đầu đàng
hoàng. Anh chủ tiệm chắc có máu mất dạy trong người nên mới trần
tục hóa một hình ảnh thanh cao vào một nơi chốn ăn chơi khét
tiếng như vậy. Hai nhà tiểu trong tiệm, một dành cho đàn ông được
mang bảng chữ Santo, một dành cho đàn bà mang bảng chữ Santa. Các
thánh bà ngực trần thỗn thện ra vào qua khung cửa hẹp và các
thánh ông vừa giải thủy vừa được một anh bồi dí cái máy đấm bóp
vào lưng cho khoan khoái cuộc đời. Có lần Vĩnh đã dí dỏm bảo tôi
là làm thánh kiểu này sướng hơn là làm thánh thứ thiệt tối ngày
chắp tay đọc kinh.
Tôi vội xóa bỏ trong đầu cái hồi ức
phàm tục sỗ sàng đã làm tôi cơ hồ quên bẵng đi ranh giới của sống
và chết. Những Vĩnh, Lạng, Bình, Chí và ông anh tôi sao vẫn cứ
thanh thản đi lại trong đầu óc tôi dưới mảnh hình hài thân thiết
của những ngày xưa cũ. Ngày hôm qua, trước khi đóng nắp quan tài
để đưa ông anh vào lòng đất tôi đã nắm lấy tay ông, bàn tay lạnh
ngắt như những thước không khí mùa đông nơi tôi sắp trở về, và
tôi đã nói với ông anh tôi: “Anh ngủ yên nhé, em về”. Nhìn khuôn
mặt an bình của ông anh, tôi đã thật sự thấy là ông đang nằm ngủ.
Song Thao
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by cathy chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 25,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang