Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
người tình sơn cước
Tác giả:
Đinh Hùng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Câu chuyện tôi thuật lại đây khởi đầu từ những ngày xa xôi cũ
ở miền Bắc, để rồi
vào tới miền Nam này mới kết thúc – gọi là
“tạm kết thúc” thì đúng hơn. Bởi vì đấy là một thiên hồi ký, động
tác biến chuyển theo thời gian, cũng như chuyển theo từng kỷ niệm
vui, buồn trong cuộc sống. Và động tác đều do tự nhiên sắp đặt.
Tự nhiên sẽ dành cho ta tất cả mọi bất ngờ. Tác giả thiên hồi ký
này, dù muốn, cũng không thể đóng vai chủ động. Vai chủ động
trong câu truyện chính là Định Mệnh. Định Mệnh dàn bày, bố cục
tất cả.
Câu
truyện khởi đầu từ một miền rừng ngoài Bắc, đã từ lâu chìm lắng,
qua đi tưởng chừng không còn vang bóng. Thế rồi, một ngày ở miền
Nam ngẫu nhiên kỷ niệm hiện về toàn vẹn. Quá khứ lại kế gần hiện
tại. Những hình bóng của ngày xưa, đã tưởng vĩnh viễn tan biến
vào hư không như một bóng mây bay đi mãi mãi. Nhưng bóng mây xưa
lại chập chờn trước mắt.
Câu chuyện “Mây Lìa Ngàn” lại trở về
trong ký ức tôi, với nguyên vẹn cái phong vị hoang sơ của buổi
hạnh ngộ ban đầu...
o0o
Tôi gặp cô gái ấy một chiều nàng đi xem
hội về cùng cả 1 đoàn phụ nữ lâm tuyền. “Nàng” chỉ là một cô gái
Mán, con đẻ của núi rừng, người của những bộ lạc dân tộc thiểu số
sống ở vùng sơn cước miền Tây Bắc Bắc Việt.
Người đoàn trưởng là một đàn ông đứng
tuổi tay cầm dao quắm, thắt lưng điều, áo chàm khăn lam quấn
chéo. Bầy phụ nữ theo sau, y phục đồng loạt bó sát lấy thân hình,
màu chàm nổi bật lên trên nền đất núi cỏ vàng. Trong nắng xế
chiều thu, khoảnh khắc vàng rực lên như một ảo ảnh đột nhiên bừng
sáng, những cái bóng chênh chênh đổ xuống từ lưng chừng non cao,
dài thướt tha vĩ đại, gợi nhớ tới một đoàn nữ binh của Hai Bà
Trưng, Bà Triệu ngày xưa.
Qua sơn thôn “của” chúng tôi, đoàn
người vào nghỉ chân. Bọn tôi liền sửa soạn một cuộc nghênh tiếp
long trọng. Chúng tôi là 1 bọn người văn nghệ đi tránh khói lửa
thời chinh chiến. Tuy mới đến đây từ cuối hạ, sống nhờ dưới mái
nhà sàn bao dung của một làng Mường, chúng tôi đã quen thuộc ngay
với cỏ cây vùng này, và nhận luôn rừng núi hoang vu là vật sở hữu
của mình.
Đồng
bào Mường rất dễ tính, hình như không cần xác định địa vị chủ
nhân, cứ để mặc chúng tôi xâm chiếm núi rừng. Hơn đâu hết, ở đây
chúng tôi được quyền nghĩ rằng: thiên nhiên là của chung tất cả
mọi người.
Bởi
vậy chúng tôi đã mệnh danh cho nơi sơn thôn hẻo lánh này là “Trại
Văn Nghệ Tự Do”. Đó là thời kháng chiến, cái thời mà những người
tản cư như chúng tôi đang cố níu lấy một chút ảo tưởng tự do, nên
mỗi khi có thể hưởng thụ một chút tự do thực sự –dù chỉ mong
manh– tất cả không ai bỏ lỡ cơ hội.
Đoàn phụ nữ sơn cước qua đây và quyết
định nghỉ chân tại đây cả một đêm. Từ sơn thôn này về làng của họ
còn phải vượt qua ba bốn trái núi, mà tới đây thì trời đã ngả
chiều, đi xa hơn nữa không tiện.
Các cô gái Mán bỡ ngỡ nhìn con trai
tỉnh thành bưng miệng cười khúc khích. Hàm răng đều, trắng bóng,
nở ra như đóa hoa nguồn.
Các cô gái, gọi tên nhau líu ríu. Chúng
tôi không ai biết nói tiếng miền Thượng, nhưng các cô biết ít
nhiều tiếng kinh. Chưa được sõi lắm, nên càng có duyên, một cái
duyên hoang dã của núi rừng. Tên các cô Mán cũng chỉ giản dị là
Liên, Hoa, Mây, Thắm... chứ không phải là những Pan Slao hay Ptầy
Lùng như tôi vẫn tưởng.
Cô Mây duyên dáng nhất. Chắc phải là
hoa khôi đất Mán. Khuôn mặt tròn, nước da hồng đậm mát, như một
trái dâu da rừng vừa ửng chín. Đôi mắt to, mi dài, tưởng chừng
gờn gợn cả ánh mây, sắc núi. Thân hình tròn lẳn tươi khoẻ, uyển
chuyển như một con báo, tỏa ra nguồn sinh lực thiên nhiên. Tôi có
cảm giác nhìn thấy một người con gái ở những đảo xứ nóng miền Bắc
xích đạo: một cô gái đảo Hawai hay Tahiti. Tôi lại liên tưởng đến
một thiếu nữ Arlésienne lượn mình theo âm hưởng một bản nhạc của
Bizet...
Phải
so sánh nhiều như vậy là vì đôi mắt của cô Mán, và cả người cô
Mán đó thế mà có mãnh lực quyến rũ vô cùng. Tôi nhận thấy thường
thường các phụ nữ Mường và Mán miền Châu Rể thuộc Hòa Bình này,
rất ít người có nhan sắc. Tuy nhiên, nếu đã có người nhan sắc,
thì đó là một sắc mặn mà đặc biệt, với những nét độc đáo khác
vời.
Trong khi
cô gái Mường nào ở đây cũng... trọc đầu, thì cô gái Mán để tóc
dài óng ả. Đồng bào Mán vùng này không “sơn đầu” như ở một vài
địa phương khác. Dưới nếp khăn lam tỏa rộng như một thứ lá cây
rừng kỳ lạ ngẫu nhiên phủ trên vầng trán, mái tóc cô gái Mán lòa
xòa đen nhánh, lại bôi dầu thơm kín đáo, phảng phất hương thơm
của cỏ dại, của vỏ cây rừng nồng say.
Ở rừng, chúng tôi phân biệt các loại
dân tộc thiểu số theo từng thổ ngơi sinh hoạt
của họ: người Thổ
hay ở những khu rừng ngoài gần đồng bằng. Trong rừng sâu, người
Mường trú ngụ, thường ở sát bên chân núi, chênh vênh sườn non cao
hoặc chót vót hẳn trên đỉnh núi là chỗ dừng chân của dân tộc Mán.
Dừng chân, vì người Mán vẫn còn sống
đời du mục phiêu lưu. Ngày nào kia, họ tìm đến một miền núi phì
nhiêu, nhận thấy đất núi đủ nuôi sống người, suối ngàn không phản
trắc. Họ rẫy núi hoang dại làm nương, chặt tre rừng già làm nhà,
đặt máng ống bương dẫn nước nguồn cao. Thế rồi một sớm, một
chiều, từng căn nhà sàn được dựng lên, thô sơ mà kiên cố. Nhà nào
cũng có một bể đựng nước ghép bằng ván; suốt ngày, suốt đêm, đều
đều, bất tận, nước suối theo máng chảy vào bể tràn đầy ăm ắp. Nhà
nào cũng có một bếp tre rộng ngay chính giữa, suốt ngày đêm có
than hồng nên lúc nào cũng sẵn nước sôi. Và đồng bào Mán tắm rửa
toàn bằng nước pha nóng bốc khói, khả dĩ tiêu tán hết chướng khí
sơn lam.
Một
làng chỉ độ 9, 10 nhà lơ thơ, trên từng chòm núi, nương ngô xanh
trùng điệp bao kín chung quanh. Muốn đi từ nhà này sang nhà kia,
người ta xuống núi rồi lại lên núi theo những bậc đá thiên tạo,
có lẽ cũng dễ dàng như người thị thành trèo một cầu thang ngắn.
Chiều chiều, từ lưng chừng núi, những
tiếng “khèn” xa vắng, ngập ngừng, theo mây trôi lờ lững, như một
nỗi niềm nhớ nhung trời biển. Đó là lúc cô gái Mán mắt thăm thẳm
rõi ngàn xanh, cất lên tiếng hát âm u như tiếng chim rừng.
Cho tới một ngày nào, nhận thấy chung
quanh đất hết hoa mầu, đoàn người du mục lại lìa ngàn đi tìm một
rừng núi mới. Trước khi rời bỏ những mái nhà sàn đã từ bao lâu
dùng làm tổ ấm, người Mán không ngần ngại tự tay gieo một mồi
lửa, thiêu hủy hết công trình xây dựng, không muốn để lại một dấu
vết gì của chỗ ở xưa.
o0o
Tối đó, “Trại Văn nghệ” của chúng tôi
mở hội. Chúng tôi gọi là “Đêm Liên Hoan đón tiếp Đồng Bào Thiểu
số”.
Thể theo
lời mời chân thành của chúng tôi, bầy phụ nữ Mán lưu bước ở lại
xóm Mường chung một lớp nhà sàn với chúng tôi.
Một bữa ăn chiều thịnh soạn đã được tổ
chức ngoài trời với tất cả kỹ thuật nấu ăn tỉnh thành của những
lâm thời đầu bếp. Ở nơi rừng sâu này xa chợ, chúng tôi phải mua
sắm thức ăn đủ dùng cho cả tháng. Được dịp thết khách, có bao
nhiêu trân vị quý báu lưu trữ, chúng tôi trút hết cả vào bữa cơm
tri ngộ. Đồng bào thiểu số Mán, quanh năm chỉ quen dùng cơm nếp
hoặc ngô bung, hôm đó được thưởng thức một bữa cơm tẻ gạo trắng
với một thực đơn gồm những 4 món (không phải để “ăn chơi”, mà
chính là để ăn no thực sự) vì đó là thịt kho, cá kho, tôm kho, và
dừa cũng kho... Đồng bào có vẻ cảm động lắm. Trừ người trưởng
đoàn, tất cả có 8 cô nàng: Liên, Hoa, Mây, Thắm, Miên, Man, Mừng,
Cầm.
8 bông
hoa sơn cước hồn nhiên, chất phác, nhưng chỉ có 4 đóa sắc hương
đặc biệt: Mây linh động nhất. Miên, Man, hai chị em, mặt bầu
bĩnh, mắt lá răm, đẹp cái đẹp bình dị của một thứ trái cây vừa
chín tới, ngọt và hiền, nhưng chỉ khiến người ta thích, không làm
người ta say đến độ thèm. Cầm ít tuổi hơn cả, thơ ngây hiền lành
như con nai vàng.
Sau bữa cơm chiều, sương thu đã dâng
lên bàng bạc núi rừng. Giữa khung trời mênh mông tím dần một màn
ảo mộng, những điểm sao long lanh buồn như những cặp mắt ân tình
nhớ thương nhau. Thế rồi trăng lên. Trăng của rừng thu, đó là một
vầng trăng muôn thuở u sầu. Trăng hình như chảy láng thủy ngân
trên sườn núi đá xanh huyền hoặc màu ngọc thạch. Trăng lả lướt
vương trên những chùm phong lan trắng, mơ hồ nổi lên như một nét
cười hư ảo, giữa vùng lá cây ngàn rung động chập chờn. Rừng thu
đêm trăng đẹp như một viên ngọc quý.
Chúng tôi ngồi cả ngoài sân, uống một
thứ café rừng mới hái, rang bằng nồi đất, xay bằng cối giã gạo,
pha bằng nồi đồng, lọc bằng túi vải, rót vào bát đàn, hòa với thứ
đường bánh trôi hăng hắc.
Các cô gái Mán, mắt đầy trăng, chúm
chím môi nhắm nháp từng ngụm nhỏ thứ café “lập thể” đó, chắc đang
tơ tưởng đến cuộc sống văn minh tiến bộ của bọn người đô thị
chúng tôi. Sân giăng in bóng núi. Mắt các cô nàng càng vời vợi xa
xôi.
Mọi người
bày ra cuộc hát đối đáp nhau, nghĩa là bên nam, bên nữ lần lượt
mỗi người phải hát một bài. Phía đàn ông chúng tôi hát trước. Một
vài người cất tiếng hát những bài ca thời đại. Vang núi hắt lại
rung chuyển cả đêm rừng.
Mấy bà “mế” già kinh động, sợ hãi bảo
chúng tôi:
–
Đêm khuya, các thầy đừng hát to thế. Cái ma nó về đấy. Cái ma
rừng ở đây thiêng lắm!
Đến lượt các thiếu nữ Mán cất giọng ca
khe khẽ. Tiếng hát tiêu vong trầm trầm, đứt đoạn. Tiếng hát nghẹn
ngào trong cổ họng, âm u, hiu hắt như tiếng hòa điệu của loài côn
trùng giữa đêm khuya vắng. Chính giọng hát rừng rú đó nghe như
tiếng hát chiêu hồn, tiếng hát gọi ma. Tiếng hát đó cất lên, hình
như đánh thức dậy cả linh hồn rừng núi hoang sơ.
Giọng Mây và giọng Thắm nghe rõ nhất,
vì trong nhất và ngân dài nhất. Như một âm hồ cầm nhấn rung trên
cung bậc. Bài hát tắt lúc nào, dư âm vẫn còn chìm đọng chưa dứt,
tưởng chừng hơi thở còn vương trong không gian. Chúng tôi cũng
thấy rợn người lên một lúc. Cùng một lúc, tôi tưởng vừa bắt gặp
một linh hồn đi dạo trong đêm mênh mang huyền bí của lâm tuyền.
Mắt tôi bỗng gặp mắt nàng Mây, trong đó
như lấp lánh cả một giải nước nguồn lay động sao khuya. Làn mi
dài từ từ dương lên rồi cụp xuống như một cành lá hỗ ngươi. Tôi
cảm thấy làn mi đó chạm vào da thịt tôi, êm như một chất tơ
nhung. Và tôi vụt nghĩ đến những chuyện bùa chài của miền sơn
cước. Chính tôi là kẻ đang muốn được chài.
Sương núi đã thấm lạnh vai áo. Xung
quanh bếp lửa quây vuông trên nhà sàn, chúng tôi từng cặp, từng
cặp, cứ một cậu trai lại đến một cô “mới”, ngồi sát cánh nhau,
ngả đầu vào vai nhau, thân mật, tự nhiên như đã quen nhau từ thuở
nào.
Tôi ngồi
cạnh Mây. Mây ngả đầu vào vai tôi. Và tôi nắm lấy cánh tay tròn
lẳn của Mây. Gần nhau rất ngẫu nhiên, thân nhau không hẹn trước
vậy mà tôi cảm thấy chỉ một cái ngả đầu, một cử động nhích tay
lúc này cũng đủ trở nên một dấu hiệu của Định Mệnh.
Điếu thuốc lào được chuyển qua tay này
sang tay khác. Phong tục ở đây, cái điếu cày bằng ống tre rừng là
dây tơ hồng ràng buộc, là quả tơ hồng trao duyên: người con trai
muốn tỏ tình cùng người con gái, chỉ cần hút một mồi thuốc lào;
xong, nhồi một mồi nữa, mời người con gái. Cô gái nhận điếu thuốc
châm lửa hút, là thuận tình. Chỉ nhận điếu thuốc mà không hút,
mới là cảm tình xã giao. Giản dị vậy thôi, kỳ thú như vậy đó.
Bếp lửa đốt bằng hai khúc cây lớn đỏ
hồng. Má các cô nàng cũng hồng đỏ.
Tôi hút một mồi thuốc lào, lại nhồi một
mồi thuốc nữa đưa cho Mây. Mây cầm điếu thuốc, lim dim mắt thủ
thỉ:
– “Cái”
anh cho em hút điếu thuốc này, em “say” anh, em theo anh về Thủ
Đô thì sao?
Dứt lời, cô nàng châm lửa hút luôn. Và cô nàng say, ngả lưng trên
cánh tay tôi.
Tôi hỏi Mây:
–
Em có muốn theo anh về Thủ Đô không?
Mây đáp:
– Em có muốn. Nhưng “cái” anh nói dối.
Đánh nhau thế này, đời nào “cái” anh về Thủ Đô!
Để cho Mây tin rằng tôi không nói dối,
tôi liền... nói dối luôn, giọng chắc nịch:
– Không, anh nói thực. Mai anh về Thủ
Đô đấy.
Cô
nàng mở tròn cặp mắt tin tưởng:
– Thế à? Thế mai em theo anh về với
nhé! À! Ngày kia hẵng về, anh ạ. Sáng mai, em còn phải vào rừng
bẻ măng...
Câu
chuyện của chúng tôi cứ lẩn thẩn như thế mà cũng kéo dài cho tới
lúc bên ngoài trăng đã khuất, cuối cương xa vọng lại một tiếng
vượn sầu gọi trăng.
Có lẽ đêm đã khuya lắm. Xóm Mường ngủ
im phăng phắc. Trừ bọn chúng tôi còn thức.
Tôi “phỏng vấn” Mây:
– Chúng anh muốn tỏ tình với các em thì
chúng anh đưa cho các em hút điếu thuốc lào. Còn các em muốn tỏ
tình với chúng anh, thì các em làm thế nào?
Mây cười ngây thơ:
– Nhưng “tỏ tình” là gì hả anh?
– Tỏ tình là giải tỏ tình yêu, là...
nói chuyện ái tình ấy!
– Thế tình yêu với ái tình là gì?
Tôi cố giải thích, nhưng xem chừng
những danh từ văn hoa chẳng làm cho Mây hiểu được gì hơn. Một anh
bạn tôi phải cắt nghĩa giùm:
– Tình yêu hay ái tình là... người con
trai với người con gái say nhau, phải lòng nhau, thương nhau, mến
nhau ấy mà. Chẳng hạn như bây giờ Mây thương ai mà người ta không
biết thì Mây làm thế nào?
Bây giờ Mây mới có vẻ hiểu:
– À! Muốn tỏ lòng mến anh, em đợi lúc
anh đi ngủ, em ra bếp lấy lửa... đốt vào bàn chân anh. Thế là anh
biết, anh thức dậy.
Tôi cố ý hỏi lẩn thẩn:
– Em đốt chân anh, anh thức dậy... Xong
rồi để làm gì?
– À! Anh thức dậy, xong rồi em rủ anh
ra suối.
– Ra
suối rồi... để làm gì?
– À! Ra suối để chúng mình... nói
chuyện!
Thì
ra, bài thơ Ân Tình của cô gái Mán không phức tạp chi hết. Tất
cả, chỉ gồm có mấy động tác căn bản thô sơ: đốt chân, rồi đi ra
suối. Đi ra suối, để... nói chuyện!
Ngay sau lúc ấy tôi đã đi ngủ, để cho
Mây tìm đến đốt chân, để cùng đi với Mây ra suối, và để rồi chúng
tôi... nói chuyện!
Sau cái đêm thi vị “nói chuyện bên
suối” đó, Mây không theo tôi về Thủ Đô. Trái lại, tôi theo Mây
lên núi – nghĩa là về làng của Mây. Để được Mây tặng cho rất
nhiều: đu đủ chín, dưa hồng, ngô nếp, dâu da, hồng bì, và cả một
chiếc vòng tay bằng bạc. Mây lại thêu vào khăn tay của tôi một
con chim và một đóa hoa ngũ sắc, làm kỷ niệm. Cũng như hầu hết
các cô gái Mán khác ở đây, Mây thêu rất nhanh. Đặt tay xuống,
nhấc tay lên vài lần là xong một đóa hoa. Lượn đường kim vài lượt
trên vải đã trở thành một con chim. Nét thêu đơn giản mà linh
động, hình thức chim hoa hơi kiểu thức hóa, tựa những nét họa
trang trí trong kiến trúc Đế Thiên.
Ghi kỷ niệm vào một chiếc khăn tay chưa
đủ, tôi đưa cả áo “sơ mi” cho Mây thêu vào ngực, đưa cả “vét
tông” để Mây thêu vào ve áo, và đưa cả “ba lô” cho cô nàng thêu
vào hai túi. Suốt nửa ngày ở chơi trên làng Mán với Mây, câu
chuyện giữa hai chúng tôi chỉ loanh quanh với mấy câu nói đã nhắc
đi nhắc lại nhiều lần, mà cái luận điệu lẩn thẩn không làm cho
tôi chán:
–
Thế bao giờ anh mới về Thủ Đô?
– Bao giờ hết chiến tranh thì anh về.
Chừng đó anh sẽ đưa em về cùng.
– Hết chiến tranh thì lâu quá nhỉ? Hay
là anh ở lại hẳn trên này với em. Ở đây đi làm nương vui lắm...
Tôi cứ gật đầu liều, tuy biết rằng lệ
làng Mán, lấy con gái Mán, phải nhập tịch làng Mán, cùng sống,
cùng chết, cùng phiêu lưu với bộ lạc.
Mây tỏ vẻ không tin, lắc đầu nói:
– Anh nói dối. “Cái” anh như con chim
ấy, hôm nay ở đây, mai bay đi chỗ khác. Em không giữ được anh, em
xót lắm.
Câu
nói ấy như là thơ, mà thú thực, lời chưa thấy có ở tác phẩm của
một nữ sĩ Việt Nam hiện đại nào.
Bài thơ độc nhất trong thời loạn đó chỉ
kéo dài có 5, 6 phiên chợ. Ở đây, cứ 5 ngày một phiên chợ Bến,
tôi đợi Mây từ trong núi đem măng, đem sắn cùng các lâm sản khác
đi qua, ghé lại “Trại Văn Nghệ” có khi nửa ngày, có khi cả một
đêm. Ngẫu nhiên, “Trại Văn nghệ” của chúng tôi trở nên một cái
trạm dừng chân giữa đường sơn cước: xuôi về đồng bằng gần 20 cây
số là chợ Bến, và hướng về non cao, trại chúng tôi chỉ cách làng
Mán chừng 4, 5 cây số đường núi.
Đã 5, 6 phiên chợ qua đi. Mối tình của
tôi với cô gái Mán vẫn không có gì thay đổi. Mây vẫn ngây thơ,
duyên dáng, và mỗi ngày mỗi đáng yêu hơn, vì Mây vẫn rất đa tình.
Cho nên đã có tới 5, 6 lần tôi bị cô nàng đốt bỏng cả hai chân.
Chiến sự ở những vùng Chợ Bến và Hòa
Bình ngày càng lan rộng. Đêm đêm, đứng trên núi cao, nhìn thấy từ
những miền rừng xa ánh lửa bập bùng hắt lên nền mây đen vần vũ,
có khi thấy cả ánh đèn “pha” quét dài từng vệt trong sương đêm
như ánh chớp nguồn.
Chiến sự biến chuyển thì nhiệm kỳ ở
rừng của đoàn Văn nghệ chúng tôi chấm dứt. Nghĩa là phải nhổ trại
lìa rừng. Riêng tôi không hưởng ửng sự xê dịch chút nào. Tôi nghĩ
đến Mây, sắp sửa phải xa cách nhau chưa biết bao nhiêu sông núi.
Tôi muốn gặp Mây trước khi cách biệt.
Vì tuy không hưởng ứng, tôi vẫn phải theo ý định của phần đông.
Từ sáng, trong lúc mọi người sửa soạn để chiều hôm đó lên đường
về xuôi, tôi lén đi một mình lên làng Mán.
Đường đi vẫn chập chùng đồi, núi. Lội
suối, trèo non, sau gần 4 tiếng đồng hồ, tôi đến bên chân dãy núi
làng Mây. Nương ngô cuối vụ hái bắp xạc xào. Lá xanh dài che kín
lối đăng sơn. Tôi rẽ lá tiến lên. Tới lưng chừng núi, hết rặng
ngô, ngọn núi hiện ra giữa khung trời bát ngát.
Tôi bỗng giật mình. Tôi ngờ tôi mê
hoảng. Tôi mở mắt thực to mà vẫn tưởng mình trông nhầm: trước mắt
tôi, không thấy những mái nhà sàn quen thuộc mọi khi. Những mái
nhà có rừng vàng óng của làng Mán, mỗi lần tôi đến đây, vẫn hiện
ra trên ngọn núi, thân mật, chào đón. Giờ đây, những mái nhà đó
biến mất.
Tôi
nhảy vội từng ba bậc đá lên tới ngọn núi. Ở chỗ những ngôi nhà
sàn mọc lên ấm cúng xưa kia, nay chỉ còn là một đống tro than
quạnh quẽ đìu hiu. Trên những chòm núi khác cũng vậy, không một
bóng nhà sàn, không một bóng người Mán, cả một làng Mán gồm 9, 10
nóc nhà đều biến đi như giấc chiêm bao.
Không phải đây là kết quả một vụ oanh
tạc. Không có dấu vết gì chứng tỏ phi cơ đã tàn phá xóm nhà sàn
cô tịch này. Chỉ còn chút tàn tro phơ phất bay vào cơn gió ngàn
lạc qua đỉnh núi.
Chắc người Mán ở đây, theo tiếng gọi
của đời du mục, đã tự thiêu hủy làng mình, lên đường đi tìm rừng
núi khác. Chính cô nàng Mây đã là một con chim lạ rừng thu vừa
bay đi mất.
Cuộc sống chảy trôi đưa tôi từ núi rừng về đồng ruộng, rồi từ
đồng ruộng lên ngàn, xuống biển, để rồi lại trở về Hà Nội. Đã
nhiều ngày tháng qua đi, cái bóng “Mây” bay đi dạo đó đã bay đi
biền biệt, không còn dấu vết.
Tuy nhiên, tôi vẫn còn giữ được chiếc
vòng bạc cùng chiếc khăn tay thêu chim hoa chỉ ngũ sắc của Mây
trao tặng. Mỗi lần giở tới những kỷ vật đó, tôi lại thấy nao nao
thương nhớ, một niềm nhớ thương ray rứt, thấm thía. Nhưng, tôi
nhớ tới núi rừng nhiều hơn nhớ tới cô gái Mán. Tôi nhớ núi rừng
tha thiết như nhớ tới chính miền quê cha đất tổ của mình, nhớ hơn
cả bất cứ một người nhân tình nào, có lẽ trong tiềm thức sâu thẳm
của tôi vẫn chìm lắng cái truyền thống hoang dã của người dân du
mục phiêu lưu – cái bản năng sơ khai của Bộ lạc. Trong khi hình
bóng cô nàng Mây mờ nhạt dần trong tâm trí tôi, thì cái bóng hình
thâm u của rừng núi nhiều lúc vẫn mênh mang bao phủ linh hồn tôi
như một niềm ám ảnh.
Cho tới 1954. Quân đội Pháp từ các miền
sơn cước rút về Hà Nội. Đồng bào Thượng cũng lũ lượt kéo về đô
thị. Trên các phố phường chen chúc, tôi đã thấy hiện ra những
vuông khăn trắng bắt đầu cùng tà áo trắng dài lòa xòa phủ ngoài
vạt xiêm thổ cẩm của các cô nàng Hòa Bình, Lạng Sơn; những chiếc
vòng bạc nổi trên nền áo lam của cô gái Thổ Cao Bằng, Lạng Sơn;
những chiếc váy lĩnh thướt tha của cô Thái Trắng Lai Châu... Nét
mặt người nào cũng thẫn thờ ngơ ngác tựa những con nai lạc bầy.
Những con người của núi rừng hoang dã giờ đây cũng đang lạc giữa
rừng người thành thị, bước chân ngượng ngập, rụt rè như còn lưu
luyến với cỏ dại cùng sỏi đá lâm tuyền.
Đồng bào thiểu số bỏ rừng về tỉnh mỗi
ngày mỗi nhiều. Nhưng, giữa bầy chim lìa ngàn, tôi không tìm thấy
“con chim lạ rừng thu” ngày nào của miền Châu Rễ, bên cạnh những
người Thổ, người Mường, người Thái di cư về Hà Nội, tôi nhận thấy
không có bóng người Mán. Và tuyệt nhiên, tôi chưa tìm thấy bóng
dáng cô nàng Mây. Người thiếu nữ thuộc Bộ Lạc Mán ở những dãy
núi cao miền Tây Bắc Bắc Việt một ngày nào từng ao ước “theo tôi
về Thủ Đô”, chẳng biết giờ đây có thả mình theo chiều gió cuốn
lìa rừng?
Tôi
đã tìm đến mấy khu tạm trú của các đồng bào miền Thượng. Tôi hỏi
thăm, và được biết: các đồng bào ở rừng núi di cư được về Hà Nội
cũng phải có hoàn cảnh đặc biệt. Trước hết, phải thuộc dòng họ
Quan Lang, và phải là những dòng Lang có thế lực, có cơ sở hoặc
bà con thân quyến ở Hà Nội. Từ những miền sơn cước đèo heo hút
gió về được tới chốn cố đô “ngàn năm văn vật” đâu phải chuyện dễ
dàng? Phiêu bạt được về đô thị lúc này là một số tối thiểu của
các khối thiểu số đồng bào miền Thượng xứ Bắc mà thôi: họ Đinh,
họ Quách ở Hòa Bình, họ Bế ở Lạng Sơn... cô gái Mán tên là Mây
“của tôi” tất không ở trong số những người đó.
Tôi nhớ tới lời một vài phụ nữ Thổ nói
với tôi, khi thấy tôi lưu ý thăm hỏi về rừng núi thân yêu của họ:
– “Cái” em buồn lắm, khổ lắm, thầy ạ...
“Cái” em thương cha nhớ mẹ lắm. Cái em nhớ rừng lắm...
Tự nhiên tôi cũng thấy nhớ rừng, nhớ
núi, nhớ suối, nhớ nương, nhớ nhà sàn. Y như chính mình vừa mới
lìa rừng xa Bộ Lạc.
Thế rồi hiệp định Genève.
Tôi di cư vào miền Nam. Quả nhiên đến
lượt mình cũng là một con chim lìa tổ.
Câu truyện cô nàng Mây càng thêm trở
nên xa xôi.
5,
6 năm trời đã trôi qua. Những mái nhà sàn chênh vênh trên ngọn
núi cao của xóm Mán giờ đây chỉ còn là hình ảnh đang chìm vào quá
khứ.
Tình cờ,
một ngày đẹp trời kia, tôi có dịp đi chơi về vùng Ban Mê Thuột
cùng mấy người bạn.
Chiếc xe hơi của chúng tôi qua tỉnh lỵ
và tiến về những miền rừng bát ngát. Qua những đồi núi chập
chùng, lác đác hiện ra hai bên dọc đường những mái nhà sàn thấp
thoáng. Để ngắm cảnh núi rừng, chúng tôi cho xe chạy từ từ. Rừng
núi miền Nam cũng không thiếu vẻ hoang vu, hùng vỹ. Hơn nữa, còn
nguyên vẹn cả cái vẻ cường tráng man dại của một thiên nhiên đang
lớn mạnh. Tự dưng tôi hồi hộp chờ đợi, như sắp sửa được gặp lại
một linh hồn bè bạn vô cùng bao dung. Có lẽ vì tôi đang đi sâu
vào trong tiềm thức tôi.
Chợt, phía trước mặt, từ trên một sườn
đồi thoai thoải dốc xuống ngay bờ đường bên phải, hiện ra một
đoàn người áo chàm đi hàng một. Thiếu chút nữa tôi buột miệng
thốt lên một tiếng kêu, nhưng lại nén được ngay: cả một kỷ niệm
xa xưa vừa sống lại trước mắt tôi! Bởi vì, đoàn người áo chàm kia
là một đoàn phụ nữ Mán. Một đoàn phụ nữ Mán, mà người đi đầu lại
chính là cô nàng Mây! Chính cô nàng Mây “của” tôi ngày nào, không
thể nhầm được, vẫn dáng điệu ấy, vẫn y phục ấy, vẫn nét mặt ấy,
chỉ hơi kém vẻ thơ ngây đôi chút, nhưng lại có vẻ sắc sảo, đậm
duyên hơn.
Tôi
không mê hoảng. Tôi không nhìn lẫn. Nhưng Mây ngẩn mặt ra nhìn
thẳng vào mắt tôi như nhìn một người chưa bao giờ quen biết.
Chiếc xe chở chúng tôi đi xa dần cho
tới khi khuất bóng đoàn phụ nữ Mán. Tôi không yêu cầu người bạn
tôi dừng xe lại. Tôi cũng chẳng muốn gọi Mây để nhắc lại tình
xưa, nghĩa cũ. Tôi hiểu rằng bao giờ “Mây” cũng chỉ là “mây” của
rừng, của núi, của bốn phương trời.
Mây đã lìa ngàn. Mây đã bay thoát khỏi
ngục tù.
Tôi cũng mừng hộ cho nàng, và tự dưng thấy nhẹ nhàng, thanh thản....
Đinh Hùng
Nguồn:
thủ khoa huân
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by trường sơn chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, September 28,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang