Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
chuyện tình thời chinh chiến
Tác giả:
Hoàng Ngọc Tuấn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Toàn không ngồi yên một phút nào trên tàu hỏa đi từ Huế vào
sáng nay. Bây giờ, đã nhiều nắng đầy bầu trời trong, Toàn bị ngợp
mắt vì cứ đứng hoài ở khung cửa xe, nhưng anh cảm thấy ấm áp.
Khi tiếng máy nổ ở đầu toa tàu rời rạc
chậm lại, một nhà ga nhỏ đàng kia tiến đến lần hồi. Toàn chăm chú
nhìn người bẻ ghi cúi xuống đường rầy chuyển con đường sắt lắp
vào đường đi trước mặt nhà ga. Còi tàu kéo một vài hồi báo hiệu
xe ngừng, khói không còn bay mạnh ngược chiều, bốc lên tan loãng
chậm rãi.
Đến
Lăng Cô rồi, không cần nhìn vết chữ sơn đã phai gần hết trên mái
nhà ga đầy rêu ủ dột, Toàn cũng biết là đã đến ga Lăng Cô. Vì
những người bán hàng ùa ra mời khách hàng mua những chai mắm sò,
thứ đồ đặc biệt của địa phương. Nút chai làm bằng lá khô đã bịt
kín không cho mùi mắm hấp dẫn bay ra, nhưng bên trong những vỏ
chai trong suốt bằng thủy tinh, mắm sò ép sát vào nhau gợi thèm
đến bữa cơm đậm đà và làm Toàn chảy nuớc miếng.
Toàn xuống xe với chiếc xách tay nhỏ.
Một con bé quần áo rách rưới đụng phải anh, chắn lối bực thềm. Nó
oang oang nói một tràng dài, cái câu mời khách quen thuộc nãy giờ
anh đã nghe chúng nheo nhéo giống hệt nhau:
– Mua vài chai mắm sò đi thầy. Thứ
thượng hạng chính hiệu đây. Ở Lăng Cô mới có, vô trong Nam tìm
mua không có đâu thầy.
Toàn mỉm cuời:
– Em mời khách vào Sài Gòn kìa, họ mang
vô làm quà cho vợ con. Tôi xuống ga này, thứ này rồi tha hồ ăn ở
đây thiếu gì.
Con bé bây giờ mới nhìn thấy cái xách tay của Toàn. Nó bỏ vội
anh, leo lên toa tàu, lời rao hàng khản giọng mất đâu đó trong
tiếng cuời nói ồn ào của hành khách.
Một vài nguời vô ý chạm phải vai Toàn
làm anh suýt ngã khi bước vào ga. Anh cố tình không quan tâm gì
đến điều khiếm khuyết của mình, nhưng rốt cuộc, cái đó lại ám ảnh
anh như thuờng lệ. Anh thấy mình rõ ràng bước đi khập khiễng,
chân thấp chân cao, mọi vật nhấp nhô không đều trước mắt anh làm
anh rịn mồ hôi trán. Anh cúi xuống nhìn chân mình, hai ống quần
rộng thùng thình, hậu quả của mấy tháng nằm ở quân y viện ốm hẳn
người đi. Không biết có ai nhìn xuyên được qua lớp vải quần của
anh không, để tò mò khám phá thấy đùi bên trái tóp nhỏ lại thua
sút chênh lệch so với chân phải, kết quả của một viên đạn xuyên
thủng vào phía trên đầu gối chừng một gang tay.
Toàn liếc nhìn mọi người nhưng chẳng ai
buồn chú ý đến anh cả, hành khách xuống ga Lăng Cô cũng ít và
chẳng mấy chốc, tàu hỏa hú còi xình xịch chạy. Viên sếp ga đưa
tay lên vẫy chào về phía đầu máy rồi mệt nhọc quay vào phòng làm
việc chật hẹp trong nhà ga. Tất cả đều bám đầy bụi bặm kể cả
chiếc máy điện thoại màu đen to tướng trên bàn. Toàn mong đừng có
ai chăm chú nhìn anh cả, nhất là nhìn cái chân tật nguyền này, và
anh yên tâm. Anh rời khỏi nhà ga khá mau lẹ, khỏi phải dáo dác
tìm kiếm một ai bởi vì anh biết chắc chẳng còn ai đón mình.
Băng qua con đường cát lún đầy bụi rậm
và cỏ dại hai bên, anh đi về phía xóm nhà nhỏ nằm xúm xít với
nhau ở đàng kia, dọc theo bờ biển. Xóm toàn là những mái nhà lá
xác xơ của dân cư làm nghề chài lưới. Chỉ có một căn nhà gạch
thấp nằm ngang đầu xóm, đó là văn phòng Xã trưởng hay Quận
trưởng. Và còn thêm một căn nhà gạch mái đỏ thứ hai nữa, khá rộng
hơn, có nhiều phòng và khoảng sân mát mẻ dưới tàn cây trứng cá.
Chưa đến nhưng Toàn muờng tượng nhìn thấy tấm bảng thiếc treo sơ
sài trên cổng nhà, nét sơn thô kệch vụng về mấy hàng chữ trường
tiểu học Lăng Cô. Chính nó, chính mái trường tiêu điều này là nơi
gợi nhớ mênh mang cho một ngày trở về. Và anh đang bước chân thấp
chân cao khó nhọc lún trong cát bỏng, nhưng người như đang ngợp
mát trong tiếng sóng biển dồn dập lại gần. Ba bốn năm xa miền
biển này rồi, anh tự nhủ nếu mọi chuyện có đổi thay xa lạ thì
cũng không phải là điều đáng kinh ngạc.
Cậu học trò mặt mày đen đủi gõ vào cửa
phòng, rụt rè:
– Thưa cô Hiệu trưởng, có khách hỏi cô.
Tiếng đàn bà nghiêm trang vẳng ra:
– Phụ huynh của em nào hả?
Cậu bé liếc trộm nhìn Toàn rồi ấp úng
trả lời:
–
Thưa cô không biết... ông này... lạ hoắc ạ.
– Được rồi.
Cánh cửa mở nhẹ. Cậu bé bỏ chạy đi chỗ
khác, và trước khi cánh cửa mở toang ra hết để Toàn có thể gặp
lại chị Lục, anh cảm thấy một chút nôn nao vui thích trong lòng,
thế là trong 3 năm cũng có nhiều thay đổi, nhưng khá dễ chịu. Từ
một cô giáo viên chánh ngạch chăm chỉ nhất, chị Lục bây giờ đã
lên chức cô hiệu trưởng trường tiểu học. Điều dễ chịu nữa là cô
giáo ấy vẫn chưa trở thành bà.
Chị Lục mở cánh cửa, mở lớn mắt ngạc
nhiên rồi la lên:
– Trời ơi! Toàn đó hả?
Anh chỉ biết nhe răng cười sung sướng,
gật đầu mà không nói lên lời gì cả. Chị Lục chạy ra khỏi phòng,
nét mặt rạng rỡ và có lẽ chị sẽ ôm chầm lấy Toàn nếu không có đám
học trò đang kéo nhau ra về, reo đùa inh ỏi. Nhưng chị Lục cũng
cầm lấy tay áo anh, kéo vào văn phòng. Thêm một thằng bé khác,
cũng đen như cột nhà cháy, đang vòng tay quỳ gối quay mặt vào
tường như một tín đồ sám hối. Chị Lục vỗ đầu cậu bé:
– Thôi, lần này cô tha cho em. Mau về
nhà ăn cơm đi. Nhớ lần sau mà bắt còng còng bỏ vào áo bạn cùng
lớp là cô phạt nặng nghe không.
Thằng bé đứng phắt dậy, đầu gối đỏ lừ
nhưng nét mặt sáng rực. Nó lí nhí cảm ơn chị Lục và cũng đủ thông
minh để biết rằng mình được tha vì cô Hiệu Trưởng có khách, nó
liếc nhìn Toàn một cái tỏ vẻ thân mật rồi vù mất.
Căn phòng làm việc của chị Lục cũng là
văn phòng trước kia của lão Hiệu trưởng cũ. Ít có gì khác lạ, một
tấm bản đồ Việt Nam treo trên tường và quả địa cầu xoay đặt trên
bàn, chỉ thêm vài vỏ ốc láng bong làm đồ chặn giấy, chắc là của
học trò biếu chị.
Toàn ngồi xuống ghế, lặng lẽ nhìn chị
Lục và chị thì cắn môi để khỏi nói lên lời cảm động run rẩy gì
đó. Chị vẫn dịu dàng như thuở nào, mắt rơm rớm long lanh. Một lúc
sau chị mới bình tĩnh hỏi chuyện Toàn. Anh nói từng tiếng ngắn:
– Cái chân...
– Sao?
– Bị trúng đạn... Tôi què rồi. Giải
ngũ.
Chị Lục
nắm chặt lấy tay Toàn:
– Trời ơi... trời ơi...
Và Toàn thấy bàn tay anh lạnh ướt nước
mắt.
– Thôi...
Toàn không chết là may rồi. Toàn được về là may rồi. Ở mãi đây
nghe.
Anh mỉm
cười:
– Tôi
biết làm gì ở đây? Không lẽ ăn bám vào chị.
– Đừng nói thế. Toàn dạy học lại như
lúc trước, tôi thu xếp cho Toàn một chỗ... và mọi chuyện như cũ,
có gì thay đổi đâu.
– Cái chân.
– Toàn!
– Trường Lăng Cô sẽ có một ông giáo què
làm trò hài hước cho học sinh. Chị muốn tôi làm huấn luyện viên
thể dục không? Nhảy cao nhảy dài, chạy đua biểu diễn cho học trò
xem... với một cái chân cà thọt.
Chị Lục im lặng cho Toàn nói lải nhải
một hồi những lời cay đắng. Rồi chị đứng dậy, vẫn nghiêm trang và
thân mật tự nhiên như lúc truớc, chị dìu vai Toàn đi vào phòng
trong. Cách văn phòng chỉ với một tấm màn vải, phòng riêng của
chị Lục sạch sẽ ngăn nắp nhưng cũng có đôi chút bừa bộn của một
người đàn bà độc thân. Thau còn ngâm đồ giặt sủi bọt xà phòng
trắng, vài chiếc áo cánh treo trên dây thép gai, bếp lửa gần với
chân giường ngủ. Toàn còn nhớ trường này có 2 phòng học bỏ trống,
được chia ra cho vài ông và các cô giáo viên ở. Chị Lục hồi trước
cũng ở chung với một hai cô, nhưng bây giờ chị làm hiệu trưởng
nên lên ở đây một mình. Chị Lục nói:
– Toàn hãy nằm nghỉ một lát. Chờ đây
rồi tôi đi chặt cho Toàn một trái dừa. Còn thích uống nước dừa
không?
Toàn
mỉm cười, cảm giác yên lành ngập tràn người anh. Anh nhắm mắt
lại, và ngủ mệt. Tiếng chị Lục êm ấm bên tai: Ngủ một lát đi cho
khỏe... mọi thứ rồi sẽ như cũ.
Anh thiếp được một chút rồi đầu óc tỉnh
lại, nhưng vẫn còn váng vất, lao xao. Như cũ... trước kia chị Lục
và anh là đồng nghiệp thân nhất với nhau, dầu chị lớn hơn anh vài
tuổi. Chị dạy và coi sóc lớp Nhất, anh lo về lớp Nhì. Tụi học trò
của anh nhỏ con hơn nên mỗi khi có trận đá bóng giao hữu giữa hai
lớp, lớp của anh thường bị thua hoài mặc dù anh cố tình ăn gian
đôi chút khi được làm trọng tài. Anh bật cười. Có lần bóng trúng
ngực một thằng lớp nhất trong vòng cấm địa, anh bảo là trúng tay
và phạt “pê–nan–ti” [penalty].
Cầu thủ nhao nhao phản đối và kêu cứu,
chị Lục từ ngoài sân chạy vào gây gổ cãi cọ với anh, nhưng anh đã
nóng mặt nhất định vẫn phạt đền để lớp anh có dịp gỡ huề. Nhưng
rồi cái thằng nhóc chó chết, “vua phá lưới” sáng chói nhất của
lớp nhì, run run hồi hộp quá nên đá mạnh bóng bay lệch sang một
bên rơi tuốt xuống biển. Rồi còn gì nữa... Anh bị gọi đi lính.
Giã từ phấn trắng bảng đen, giã từ đám học trò quê kệch vẫn
thường cùng thầy giáo bơi thi vui nhộn ngoài biển, giã từ chị
Lục... những mùa hè êm đềm rạng rỡ ánh nắng.
Và anh đã trở về, như thế này đây,
không phải hoàn toàn vì mái trường cũ và chị Lục, nhưng không còn
một nơi nào để trở về nữa.
Giờ khắc thong thả trong căn phòng tĩnh
mịch, anh mơ màng ngủ lại. Trong giấc mơ mệt nhọc của buổi trưa
anh thấy mình vừa chạy vừa thở hào hễn trên bãi biển, đuổi theo
chị Lục. Chị ở trước mặt anh một quãng ngắn nhưng anh không tài
nào bắt kịp, cái chân què của anh như níu kéo lại, cuống quýt bối
rối trong lòng cát. Anh đau đớn tuyệt vọng nhìn thấy khuôn mặt
của chị Lục quay lại, đôi mắt nhìn anh chế giễu, bọn học trò
chung quanh vỗ tay cười cợt ầm ĩ... Rồi anh ngã xuống úp mặt ướt
mồ hôi vùi trên cát nóng, mắt anh mờ đi, chao động, mơ hồ, hình
ảnh chị Lục chốc lát bay xa như cánh chim trắng đi vào cõi vô
cùng... Anh sợ hãi hét lên...
– Toàn!
Anh giật mình tỉnh dậy, chị Lục đang
ngồi xuống bên cạnh anh, tay chị đặt trên vầng trán tươm đầy mồ
hôi của anh. Chị ân cần dìu anh ngồi dậy, đưa cho anh một ly nước
dừa, đá lạnh bốc hơi lấm tấm ngoài lớp thủy tinh. Anh uống ừng ực
một hơi ngon lành, mát mẻ sảng khoái làm anh dịu lại đôi chút.
Anh nhìn ra khung cửa sổ, một vài ngụm mây trắng trên nền trời
chiều, màu xám buồn rầu nhưng êm ả, anh ngẩng đầu dậy:
– Chiều rồi. Sao chị không dạy học?
– Thứ bảy, Toàn không nhớ gì đến ngày
tháng nữa à?
Anh ngồi dậy. Anh định đi một vòng quanh bờ biển nhưng lại thôi.
Anh lục lạo một xấp bài tập của học sinh, đọc bâng quơ.
– Toàn có thích đọc truyện kiếm hiệp
không? Ở Lăng Cô thì chỉ biết thuê mấy thứ vớ vẩn đó đọc cho đỡ
buồn.
Anh lắc
đầu. Anh tìm thấy dưới gầm bàn của chị Lục cuốn sách Truyện cổ
Nước Nam, giấy vàng xỉn, trên bìa rách mềm tả tơi có dán tấm nhãn
đề chữ: Sách đọc thêm cho học sinh... thư viện trường tiểu học
Lăng Cô và một con dấu đỏ lờ mờ. Anh nói với chị Lục:
– Thôi đọc cái này vui lắm.
Chị Lục cũng bật cười. Chị nói:
– Tôi làm cơm chiều đây. Lát nữa Toàn
tha hồ ăn bữa cơm nhà quê xứ biển. Học trò mới đem lại cho mấy
con cá ngừ tươi lắm...
Chị mở cánh cửa:
– Có lẽ phải chạy đi mua mấy chục bánh
tráng.
Khi chị
Lục đi ra khỏi phòng, Toàn lật những trang sách nhưng không đọc
được gì hết. Anh liếc cái mục lục một loáng rồi đặt cuốn sách vào
chỗ cũ. Căn phòng đã tối nên anh đứng dậy, thắp ngọn lửa đèn măng
sông. Anh đã quen với thứ đèn này một thời nên anh khêu sáng ánh
đèn dễ dàng. Màu vàng lung linh, đáng lẽ phải làm căn phòng nóng
bức, nhưng nhờ những ngọn gió biển thổi vào qua cửa sổ mở toang,
không khí trở nên dịu ngọt và ấm áp.
Cửa sau nhà bếp của chị Lục mở ra là
bãi cát của bờ biển, vài gốc duơng rũ là xuống mái nhà và đem lại
một ít bóng mát cho những buổi trưa vắng. Nhưng bây giờ đã chiều,
mặt trời chỉ còn lại một đốm đỏ sắp lặn mất ngoài chân trời, ở
đâu cũng toàn là bóng mát, cát không còn nóng ran dưới chân
người.
Chị Lục
trải một tấm vải dầu trên cát, bữa cơm chiều được dọn ra trong
cơn gió biển thoang thoảng thổi vào làm tóc chị bay rối một vài
sợi, nhưng không đi những giọt mồ hôi vì bếp lửa. Bữa cơm thịnh
soạn cho hai người. Nhất là đối với Toàn, mấy năm nay ăn toàn là
cơm sấy khô hoặc chỉ được nấu chín vội vàng trong những chiếc
thùng đen dơ bẩn.
– Quấn với bánh tráng mới ngon Toàn à.
Chị Lục nhúng bánh tráng sơ sài vào
nước cho bánh hơi mềm một chút. Chị mở nồi cá ngừ kho, mùi thơm
bốc lên, những khoanh cá chín ngả sang màu nâu tỏa đầy khói. Chị
Lục làm cho Toàn cuốn đầu tiên. Rau sống, cá ngừ, rau muống tươi
chẻ nhỏ được tràn vào nhau, quấn trong bánh tráng mỏng. Anh cầm
lấy, nhúng vào nuớc chấm được làm bằng nước cá hòa với những trái
ớt dầm nát thành từng mảnh, hột ớt lấm tấm. Anh cắn một cuốn bánh
tráng ngon lành, mùi thơm nồng của loại cá biển tươi, mát mẻ giòn
tan của rau xanh, mặn mà của nước cá và vị ớt cay cay... Gió biển
lại thổi lồng vào sống lưng lạnh mát, làm khô đi hơi nóng vừa bốc
lên một chút trong người vì anh hau háu ăn không ngừng nghỉ.
Chị Lục tỏ vẻ thích thú, thỉnh thoảng
chị lại mỉm cuời và khẽ nuốt nuớc bọt thèm thuồng nhìn anh. Phần
chị, chị đã quá quen với món ăn này rồi. Chị ăn chậm rãi bình
thường và tay bận bịu đậy nồi cá để giữ hơi nóng, thấm nước cho
bánh tráng hay xắn thêm một vài trái ớt xanh dòn. Anh mải miết
ăn, không còn hơi sức đâu mà nghĩ đến cái chân què của mình nữa.
Chị Lục mở nắp chai bằng một cái khoen đinh trên cánh cửa. Chị
nói:
– Ở đây
chỉ có bia Quân tiếp vụ thôi, họ lại hết đá rồi.
Anh gật đầu. Bia hơi đắng nhưng vẫn
nồng, cay xé trên lưỡi như mùi ớt. Anh đưa chiếc ly cạn một nửa
cho chị Lục:
–
Chị uống một ít đi. Thứ này nhẹ lắm.
Chị Lục vấn mái tóc lại rồi cột bằng
một sợi dây cao su. Mắt chị long lanh:
– Uống lỡ say rồi sao. Tôi đâu biết
uống rượu.
–
Có sao đâu, mai là chủ nhật mà.
Chị Lục cầm lấy ly bia, chị bỗng nhìn
bâng quơ ra ngoài biển:
– Ờ... mai chủ nhật, thích thật. Mọi
khi tôi sợ ngày chủ nhật lắm, học trò nghỉ hết mình không có
chuyện gì làm cả. Bây giờ có thêm Toàn mới vui.
– Có “chuơng trình” gì vui không?
– Trời ơi, ở đây mà có chuyện gì được.
Nhưng mai tôi ra chợ sớm. Tìm một ít mực tươi về luộc ăn với nước
tương. Không biết mùa này có “nuốc” không... “nuốc” ăn mát lắm,
chấm với ruốc ớt thì buổi trưa lại càng thích, vừa đổ mồ hôi vừa
ăn.
Anh nhìn
chị Lục, mỉm cười khuyến khích. Chị Lục nhắm mắt uống một hớp
bia, rồi nhìn quanh như sợ có ai bắt gặp, nhất là mấy cô cậu học
trò vẫn thường ngoan ngoãn nghe chị nghiêm trang giảng bài uống
rượu tai hại như thế nào. Nhưng giờ đây, chiều đã xuống trên xóm
vắng, ngọn đèn dầu vàng rực đã thắp lên trong những mái nhà lá,
mọi nguời đều xúm xít bên mâm cơm, đâu có ai ra dạo mát ngoài bãi
biển nữa, và nếu có cậu bé nào nghịch ngợm ham chơi nhất, thì
chắc cũng chỉ đang nhảy nhót ở một khoảng cát nào xa tít, nó đâu
muốn lại gần trường học, một tuần phải đến đây 6 ngày là cũng đủ
ngán quá rồi.
Mặt chị Lục đỏ ửng nhưng chị lại uống thêm một hớp. Anh nhìn thấy
lóng lánh bia vàng chảy vào môi chị, mắt nhắm và đôi lông mày hơi
nhíu lại. Và chị trả lại chiếc ly cho anh với một nụ cười thắm
thiết. Nhưng có lẽ là anh đã tưởng tượng quá nhiều nụ cười của
chị. Trời đã tối quá rồi, anh chỉ nhìn được lờ mờ khuôn mặt chị,
chỉ có đôi mắt sáng là thấy rõ ràng lắm. Ánh đèn hắt ra từ song
cửa bếp. Giọng nói của chị Lục nhỏ lại như vỗ về:
– Ngày mai là chủ nhật, tôi sẽ...
Vâng, anh biết. Ngày chủ nhật. Ngày
nghỉ ngơi, rộng rãi thời khắc dịu dàng và êm đềm như một dải lụa
mềm mại trải dài ra. Ngày còn làm lính, anh không biết phân biệt
ngày nào với ngày nào. Chỉ nhớ ngày phát luơng và ngày hết tiền
cách đó không đầy một tuần. Chỉ lo lắng ngổn ngang vào ngày lên
đường chuyển quân và nôn nóng chờ ngày chấm dứt cuộc hành quân,
trở về. Nhưng ở đây, biển Lăng Cô, trường học và chị Lục. Một
ngày chủ nhật...
Anh ra biển vào lúc nắng đã lên rực rỡ
trên mặt nước. Biển Lăng Cô không phải là một thắng cảnh danh
tiếng, tấp nập du khách như một vài nơi khác. Ở đây, sóng rì rào
lặng lẽ. Ngoài khơi cảnh mênh mang tịch mịch, lác đác những
thuyền buồm đánh cá. Bãi cát cũng vắng người, một vài đứa trẻ con
lội nước đuổi bắt nhau đàng xa cuối xóm chài lưới. Anh ngồi xuống
một đụn cát âm ấm. Tiếng chị Lục đằng sau:
– Mấy năm rồi, thấy có gì lạ không?
– Đâu biết được, bề ngoài thì muôn đời
vẫn như thế.
Biết bao biến chuyển tàn tạ, sinh thành trong lòng sâu của biển
cả từng mỗi phút giây. Nhưng làm sao anh biết được. Anh chỉ nhìn
thấy bộ mặt bên ngoài lúc nào cũng lững lờ bất động của mặt biển.
Đằng kia, về phía tay phải là một chỗ
biển cạn, nhỏ hẹp, gọi là Đầm, nằm trong lòng trũng sâu sát với
ven rừng và ngọn núi cao sừng sững của dãy Trường Sơn. Anh theo
dõi những chiếc xe hàng như những hộp diêm bé tí nối đuôi nhau bò
lên đỉnh núi. Con đường đèo Hải Vân, hay Ải Vân, trời đất chỉ
chan hòa mây trắng sa thấp cùng biển cả. Hay là Quan Ải cheo leo
cao ngất thấu đến mấy từng mây?
Bỗng chốc, anh mơ hồ nghe tiếng còi tàu
yếu ớt nhỏ nhoi như trong tưởng tượng. Từ phía nhà ga Lăng Cô,
những toa tàu chậm chạp đàng xa xa, trông như lướt nhẹ chứ không
phải là nghiến bánh trên đường rầy, từ từ chui vào lòng hầm Sen,
đục thủng chạy xuyên qua dãy núi. Khi con tàu như bị nuốt chửng
đến toa cuối cùng, anh còn kịp thấy một cụm khói nhỏ gió thổi tạt
ngược chiều, bay loãng rồi tan đi mất biệt. Ngày hôm qua, vào giờ
này, có lẽ anh cũng có mặt trên chuyến tàu đó. Anh lẩm bẩm:
– Chuyến tàu chỉ ghé ga Lăng Cô... rồi
tiếp tục đi... qua biết bao nhiêu bãi biển, ven rừng, đồng bằng,
qua những quê làng là thành phố, Tam Quan, Tam Kỳ, Bồng Sơn, Diêu
Trì, Nha Trang, Sài Gòn... rồi lại lên đường...
– Toàn định đi đâu nữa?
Tiếng chị Lục sau lưng, anh không quay
đầu lại nhưng vẫn biết rõ chị đang đến gần. Khi chị ngồi xuống
bên cạnh, anh nhận thấy tóc chị hôm nay buông rũ trên vai, làn da
tuơi sáng như đang hớn hở đón lấy một buổi sớm mai rảnh rang và
tốt trời.
Toàn
đưa tay chỉ cho chị Lục nhìn về phía đường đèo xa, nhưng bây giờ
không còn bóng dáng một chiếc tàu hỏa nào nữa. Thật lâu sau câu
hỏi của chị, anh mới trả lời:
– Không biết, nhưng chắc là phải đi. Ở
Lăng Cô, không có một chỗ nào cho tôi cả.
Giọng chị ân cần:
– Đừng, Toàn. Đừng đi đâu nữa. Toàn
không thích dừng lại ở một nơi nào sao?
Anh im lặng nhìn về phía nhà ga. Chị
Lục nói tiếp:
– Tuần nào đến chủ nhật là bỏ trường phóng về Huế luôn mấy ngày.
Ông Hiệu trưởng cằn nhằn hoài, tôi phải dạy thế cho Toàn biết bao
nhiêu lần...
Chị Lục cười:
– Trong trường, Toàn là ông thầy giáo bê bối nhất đó. Bây giờ
phải thay đổi đi chứ.
Anh cũng mỉm cuời, mơ màng nhớ đến
phòng học buổi trưa có ngọn gió biển thoang thoảng thổi vào, anh
gần như đứng giảng một mình trong khi bọn học trò ngủ gục hơn một
nửa lớp. Anh còn nhiều kỷ niệm dưới mái trường này quá. Và kỷ
niệm đẹp chính là điều làm anh lo âu, vì biết rằng mình sẽ không
bao giờ xây dựng lại được những gì tương tự như thuở trước.
Có tiếng cười đùa của bầy trẻ con đuổi
bắt nhau từ xóm chài lưới làm Toàn và chị Lục đều giật mình. Chị
Lục có vẻ bối rối, dầu sao thì hai người nãy giờ đã ngồi sát bên
nhau trên bãi cát vắng vẻ, và bất cứ một đứa nào trong xóm này,
nếu đến tuổi đi học là đều biết mặt cô Hiệu trưởng nghiêm trang
đáng kính của chúng.
Chị Lục đứng dậy, chậm rãi đi xa hơn.
Toàn khập khiễng theo chị. Không ai nói với ai, nhưng có lẽ cả
hai đều có ý định tìm một nơi tránh xa tất cả những đôi mắt tò mò
của dân cư trong làng. Họ đều quên Toàn, ở đây không còn ai nhớ
mặt ông giáo viên này nữa. Họ sẽ nghĩ rằng đây là một gã đàn ông
lạ mặt, từ một nơi xa nào đó ghé lại Lăng Cô, đêm vừa qua đã ngủ
trong nhà của chị Lục, và sáng sớm, hai người đã sánh vai dạo
chơi trên bãi cát vàng hoang vắng. Nhưng hôm nay là chủ nhật, bọn
trẻ con được nghỉ học đều ùa ra bãi biễn nghịch cát, té nước hay
sửa soạn leo lên thuyền của cha mẹ chúng bắt đầu ra khơi đánh cá.
Không còn một chỗ hoàn toàn vắng vẻ cho hai người.
Chị Lục và Toàn đành phải về trường.
Bây giờ chỉ có sân trường và những lớp học là nơi tĩnh mịch nhất,
trái với 6 ngày vừa qua trong tuần. Khi đi qua hành lang vắng,
Toàn chợt dừng lại ở phòng cuối cùng, trên cánh cửa đóng kín vẫn
còn treo tấm bảng nhỏ cũ kỹ: Lớp Nhì. Toàn nắm lấy một chốt cửa,
bồi hồi ngước nhìn chị Lục. Chị hiểu ý, cầm xâu chìa khóa, lựa
một chiếc mở cửa.
Thiếu ánh sáng, trong phòng mờ tối.
Những bức tranh cắt từ báo dán trên tường đã thay đổi, lúc trước
Toàn chỉ thích treo tranh phong cảnh, bây giờ là hình những bầy
thú lạ mắt của rừng già Phi Châu: cá sấu, ngựa vằn, sư tử... Trên
góc của tấm bảng đen, còn mấy nét phấn trắng ghi sỉ số học trò
trong lớp, hiện diện và vắng mặt.
Tự dưng Toàn cảm thấy thích thú. Anh
leo lên đứng trên bục gỗ, mân mê một thỏi phấn trắng trên tay.
Chị Lục ngồi vào hàng ghế đầu tiên, cố nén cười để giả vờ làm một
cô học trò chăm chú nhìn lên bảng. Lớp học chỉ có một thầy và một
“trò”, Toàn chợt muốn đùa nghịch. Anh đằng hắng giọng, sửa lại cổ
áo rồi nghiêm trang nói lớn:
– Trò Nguyễn Thị Huyền Lục.
Chị Lục đỏ mặt, nói nhỏ:
– Toàn còn nhớ cả tên họ tôi à?
Anh không trả lời, giả vờ nhíu mày, kêu
lớn hơn:
–
Nguyễn Thị Huyền Lục!
Chị Lục bậm môi, lên tiếng:
– Có mặt.
– Lên bảng mau, coi trò có thuộc bài
Việt Sử không.
– Thưa thầy, đêm qua... em phải khâu
lưới dùm cho ba em nên em quên học bài.
– Ze–ro! thôi bây giờ lên bảng làm
toán.
Chị Lục
mỉm cười, rón rén cầm viên phấn đứng trước bảng đen chờ đợi. Toàn
cố nặn óc để nhớ lại một đầu đề toán vì anh đã quên hết, có lẽ
bây giờ anh là một tên học trò dốt nhất chứ đừng nói gì đến
chuyện làm thầy nữa.
Anh chậm chạp nói:
– Nghe cho kỹ để chép đầu đề: một chiếc
xe hơi và một chiếc tàu hỏa chạy ngược chiều với nhau. Tốc độ của
tàu hỏa là... viết đi chứ...
Chị Lục viết nguệch ngoạc trên bảng:
Toàn đừng ở trên chuyến tàu đó, nghe không...
– 50 cây số một giờ. Tàu khởi hành vào
lúc 8 giờ sáng...
Những nét phấn của chị Lục tiếp tục,
làm như ngoan ngoãn chép đúng lời nói của “thầy”, nhưng dĩ nhiên
chị chẳng hề chú ý đến bài toán về vận tốc bậc tiểu học đó làm
gì, chị đang làm bài toán gay go riêng biệt của đời chị. Trên
bảng đen, thêm một dòng chữ khác: Tàu sẽ khởi hành một mình nó,
Toàn đừng đến sân ga nữa...
Toàn thẫn thờ nhìn những chữ viết của
chị Lục mặc dù miệng anh vẫn tiếp tục đọc đề toán một cách máy
móc, cuối cùng anh lẩm bẩm nói:
– Hỏi hai xe gặp nhau trên đường lúc
mấy giờ?
Chị
Lục có vẻ ngần ngại một lát, chị khẽ liếc nhìn Toàn rồi run run
viết... Tôi và Toàn đã gặp nhau rồi. Không phải lúc mấy giờ mà là
gặp nhau suốt đời, bên nhau vĩnh viễn, Toàn...
Toàn đứng sững nhìn chị Lục. Chị đã
đánh rơi viên phấn, hai tay chị run rẩy nắm chặt vào nhau, môi
mấp máy và đôi mắt gần như sắp ứa nước mắt. Chị có vẻ như một cô
học trò nhỏ chịu bí trước bài toán khó, khổ sở trước đôi mắt
nghiêm khắc của ông thầy.
Chị Lục bỗng khóc, chị quay đi định lau
những dòng chữ nồng nàn trên bảng nhưng Toàn đã nắm tay chị lại.
Bàn tay chị nóng hổi và lấm tấm mồ hôi. Cả hai ôm lấy nhau như mê
man. Nước mắt chị Lục ướt lạnh ngực áo anh, cùng với mùi hương
dịu ngọt từ tấm thân đàn bà mềm ấm như gối chăn trong một đêm
đông mưa bão. Anh và chị Lục san sẻ cho nhau đôi môi ướt đầm đìa
rạo rực. Lớp học tối và nóng bức, nụ hôn mang vào biển xanh và
gió lộng khơi nguồn mầm sống.
Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt đối với
một kẻ đã giải ngũ. Nhất là với một con người tật nguyền như
Toàn, dầu anh vẫn còn đứng vững trên đất, vẫn còn đi được không
cần chiếc nạng gỗ nhưng thỉnh thoảng, hình bóng cái chân hằn vết
sẹo thóp nhỏ cứ lởn vởn trước mặt anh.
Đêm nay, anh thấy sự tàn tật của mình
rõ hơn lúc nào hết. Ngọn đèn vàng trong phòng của chị Lục tắt
sớm, chỉ còn bóng tối rạo rực của nhiệt tình. Tóc chị sổ tung
trên gối, mắt nhắm nghiền trong hơi thở dồn dập và tấm thân của
Toàn cuống quýt trên người. Chị kêu lên những tiếng rời rạc vô
nghĩa, là người trao phó trong tay Toàn. Dần dần, anh khám phá da
thịt của chị sau làn vải áo, từng chút một, từng hàng nút được
tách ra nhẹ nhàng, đầu ngực trần mát rượi hơi ươn ướt mồ hôi dưới
bàn tay vuốt ve của anh. Đến khi tất cả những mảnh áo quần của
hai người vứt bỏ bừa bộn trên sàn nhà, anh háo hức ôm siết lấy
thân thể đang rung động của chị Lục dưới thân người anh... và lúc
đó... ngay giây phút cuối, ngay trước cánh cửa hoan lạc sắp mở
ra, anh chợt chết lặng nguời, thân thể chợt trơ lì nhạt nhẽo...
Chính tại nó, cái chân. Mồ hôi nóng bức
khó chịu tuôn sau cổ anh nhột nhạt, anh cắn môi cố quên nó đi, cố
vùi đầu điên cuồng trong tóc tai và trong đôi môi hé chờ của chị
Lục, nhưng không thể nào được nữa. Sảng khoái nguội lạnh dần, cảm
giác lo lắng lẫn đau đớn ngập tràn người anh như một gáo nước
lạnh buốt, dập tắt da thịt đang nồng cháy. Anh nằm buông xuôi
người, nhắm mắt lại, lắng nghe từng hơi thở, và cuối cùng, không
dằn được sự thúc đẩy gần như ma quái, anh nghiêng đầu ra đằng sau
để nhìn cái chân của mình.
Anh sợ hãi khi nhìn thấy cái chân xấu
xí thóp nhỏ như chân một đứa trẻ nít. Phất phơ như một sợi rong,
có vẻ lủng lẳng như không liên hệ gì với thân thể, vết sẹo láng
bó với đường khâu sù sì nổi lên trên da thịt. Anh không rời mắt
được khỏi cái chân tàn tật đó nữa, anh mở lớn mắt nhìn trừng
trừng, rồi anh bắt gặp đôi mắt chị Lục mơ hồ nhìn anh như có vẻ
ngạc nhiên, nhưng anh có cảm tưởng nhận thấy những dấu hiệu ghê
tởm trong ánh mắt chị.
Anh bàng hoàng buông vội thân thể chị
Lục, ngồi vụt dậy, cúi đầu giấu trong hai bàn tay, bật khóc.
Những sợi tóc của chị Lục mơn man trên lưng anh, chị vòng tay qua
cổ anh, miệng ghé bên tai anh thì thầm dịu dàng:
– Sao thế, Toàn?
Anh vẫn cúi đầu lặng thinh. Chị Lục ôm
lấy người anh nhè nhẹ, má chị tựa sát trên lưng anh và thỉnh
thoảng chị hôn vào đường rãnh chạy dài của sống lưng anh làm anh
hơi rùng mình. Giá mà vào một lúc khác, chắc anh sẽ thích thú vì
những cái hôn nghịch ngợm của chị, nhưng lần này anh chỉ thấy đau
xót thêm. Anh úp mặt trên đầu gối của cái chân tật nguyền, cả
thân thể dường như dần dần co rút tê liệt, không còn tuân theo ý
muốn của anh nữa. Vết thương cũ đã lành, nhưng mỗi liều độ dược
giờ đây đột ngột tác hại khắp cơ thể và đầu óc, chói lòa trước
mắt anh...
Cái
chân què quặt còn làm liên tưởng tới những việc điên cuồng mà anh
đã làm khi ở giữa hỏa ngục của chiến trường. Tất cả như một màn
lưới đen dày đặc trói buộc tâm hồn làm người anh rũ ruợi và đầy
những cảm giác nhờm gớm. Anh ớn lạnh run rẩy... Hình như nước mắt
của chị Lục đang thấm ướt trên vai anh, chị rụt rè vuốt ve nhưng
người anh đã như một vỏ cây già rã mục. Anh chán chường khổ sở
thêm, chị Lục bàng hoàng khi anh vùng mạnh hất vòng tay của chị
đi để đứng vụt dậy. Anh ôm đống quần áo vội vàng vào người, mở
cửa ra phòng trước.
Biển đêm không ào ạt như buổi chiều,
bây giờ mênh mang với ngàn sao nhỏ lập lòe như những hạt ngọc,
tiếng sóng đều đều âm u. Anh tỉnh người, dễ chịu đôi chút trong
làn gió mát. Anh đứng một mình trên bãi cát, thầm nghĩ mình chẳng
bao giờ đi vào một mái nhà, một căn phòng nào được nữa.
Mặt trận, chiến tranh, súng đạn, máu,
mồ hôi... Đau đớn yếu đuối và hung dữ thù hận... Những cái đó
chưa thực sự chấm dứt đối với anh. Chúng vẫn chưa chịu chết tiệt
hẳn mặc dầu bây giờ anh đang ở thật xa nơi chốn đầy thuốc súng,
chúng vẫn còn âm ỉ lúc nhúc trong người anh như một thứ vi trùng
độc địa.
–
Toàn!
Chị Lục
kêu lên một tiếng rồi đứng khóc bên song cửa. Chị không dám chạy
ra khỏi phòng theo anh vì tóc chị đang rũ rượi sổ tung, vành mắt
đỏ hoe và ánh sáng, hôm nay là thứ hai, một vài đứa học trò đi
sớm đã bắt đầu đến truờng. Chị phải trở lại với công việc, với bộ
mặt nghiêm khắc lạnh lùng của một cô Hiệu trưởng.
Toàn lầm lũi đi từng bước nặng nhọc
trên bãi cát lầy, chiếc xách tay nhẹ để trên vai nhưng người anh
vẫn cảm thấy nặng như chì, anh hướng về phía sân ga Lăng Cô. Một
lát nữa sẽ có tàu hỏa từ Huế ghé lại đây, anh sẽ ngồi trong một
toa tàu, và như thế là vĩnh biệt bãi biển vắng này với ngôi
trường nhỏ, hình ảnh chị Lục cũng như một giấc mơ ngắn đã tan
tành.
Nhà ga
thưa thớt người, Toàn mua một vé vào Nam, đến trạm cuối cùng. Anh
ngồi một mình nhìn trên băng ghế lạnh, nhớ lại đêm vừa qua. Đêm
dài tăm tối cho anh, một kẻ thương binh không phục hồi được cuộc
sống bình thường, tâm hồn và cơ thể chết khô vô vị trước trái cây
ái tình xanh tốt. Anh là một người đàn ông bất toàn, vô dụng, anh
không đem lại gì được cho chị Lục, món quà yêu thương đã thất
lạc, chỉ mang nặng quà tặng của chiến tranh, thương tích và quá
khứ.
Có tiếng
còi tàu vang lên trong bầu không khí lặng lẽ của buổi sáng. Đoàn
tàu từ xa tiến đến chậm chạp rồi dừng lại trước nhà ga. Vài hành
khách bước xuống. Đợi một lát sau, Toàn khập khiễng leo lên toa
tàu. Một người nào đó chen lấn chạm vào sau lưng Toàn làm anh bực
mình quay lại, định càu nhàu. Nhưng một cánh tay đột nhiên bị giữ
chặt, anh ngạc nhiên... chị Lục. Chị đã đến sân ga từ hồi nào,
mặt chị ướt đầy mồ hôi hay nước mắt, hơi thở gấp gáp sát mặt
Toàn. Anh đứng lại dưới bục cửa của toa tàu, lặng thinh cúi đầu
trước chị Lục. Giọng nói của chị vang lên nho nhỏ, bao dung lẫn
cầu khẩn:
–
Toàn, hãy ở lại với tôi. Tôi... không thể không có Toàn được...
Anh quay mặt đi, run rẩy:
– Tôi chỉ là một người tàn tật... Tôi
không thể...
Chị Lục ôm cánh tay Toàn, nhẹ nhàng dìu anh đi. Chị bất kể những
ánh mắt tò mò của đám hành khách đang nhìn hai người. Từ trường
học vội vàng đến sân ga, chị cũng không kịp phục sức tươm tất như
thường lệ cho xứng với một cô Hiệu trưởng. Bên ngoài bộ áo quần
ngắn mặc trong nhà, chỉ một chiếc áo choàng rộng đã sờn cũ.
Toàn nhắc lại lời nói của anh, giọng
anh ấp úng như một cậu bé con, chị Lục lắc đầu ôn tồn và âu yếm:
– Tôi cũng thế... Tôi cũng sẽ trở nên
một người tật nguyền thiếu thốn nếu mất Toàn.
Toàn thấy người được đôi chút ấm áp,
hình như thân thể anh, cả cái chân què nữa, bỗng dưng trở nên nhẹ
nhàng. Chị Lục tiếp tục dìu Toàn đi dần xa con đường sắt, giọng
chị thủ thỉ bên tai anh, như một nguồn suối ngọt:
– Toàn và tôi, chúng ta cần có nhau...
Bây giờ anh có thể quay sang nhìn thẳng
vào đôi mắt chị Lục, anh sung sướng bồi hồi khi được tận hưởng
màu mắt lóng lánh ngập tràn yêu thương.
Chị Lục nói đúng, chúng ta cần có nhau,
cả hai cần trao gởi hết lòng và chia sẻ quả ngọt suýt rụng rơi
mất hút vì một lần giã từ nông nổi. Có vị danh y nào, liều thuốc
tiên nào cứu chữa được vết trọng thương sâu đậm ngay chính trong
tâm hồn? Sao cho bằng chính hai kẻ tật nguyền cùng góp sức xoa
dịu vết thương cho nhau. Và làm sao anh có thể chạy trốn chính
mình suốt đời được. Trong anh, một con người dằn vặt sẽ truy nã
một con người đầu hàng yếu đuối đến kỳ cùng.
Khi địa ngục đã xây huyệt trong lòng
người, còn có cách nào khác hơn là phải dấn thân mình dập vùi
trong địa ngục, chịu tuốt da một lần tối hậu qua hành lang nhỏ
hẹp đầy gai góc, để đạp tung cánh cửa mở hướng về trần gian tươi
đẹp.
Còi tàu
đã hú lên vài hồi, hai hàng bánh sắt từ từ lăn trên đường rầy, để
lại một chút mùi khói than cay cay trong không khí. Và đúng như
những dòng phấn trắng của chị Lục đã viết trên bảng đen, không có
Toàn trên chuyến tàu ra đi vô định đó.
Lần này, Toàn choàng tay lên vai chị
Lục, những bước chân của anh chậm rãi nhưng cương quyết ngược
chiều với sân ga mãi mãi.
– Mình về thôi, Toàn. Bữa nay vì Toàn
mà tôi đã bỏ một buổi nói chuyện sáng thứ Hai đó. Rồi mấy anh
đồng nghiệp sẽ xì xầm, Toàn phải... đền cho tôi cái gì đi...
– Tôi sẽ tìm mấy cái vỏ ốc, áp vào tai,
sẽ được nghe rất nhiều bản tình ca.
Chị Lục mỉm cười. Giờ đây, với một
người thương luôn gần gũi bên cạnh, Toàn sẽ đổi khác, sẽ lành
mạnh, sẽ dứt khoát hẳn với những ám ảnh bệnh hoạn trong người. Từ
hôm nay cho đến ngày mai hồng sáng sủa đó, một cuộc chiến mới đã
mở ra đối với Toàn. Không súng đạn, không ảo tưởng, không một
mệnh lệnh, anh sẽ hoàn toàn tự do tiến bước trên mặt trận cuối
cùng này.
Hoàng Ngọc Tuấn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by cathy chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, May 19,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang