Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
thần tượng
Tác giả:
Trần Văn Khang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Tác giả: Truyện ngắn dưới đây được viết theo lời kể của Huân. Tên các nhân vật và một vài địa danh đã được thay đổi để tránh trùng hợp và ngộ nhận ngoài đời. Nếu có sự trùng hợp về danh tánh, chỉ là do ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của người viết. Truyện được viết vào những năm cuối cùa thập niên 1990, lúc bang giao Việt Mỹ mới được thiết lập. –TVK
Dù
thời giờ hạn hẹp, chuyến về Việt Nam kỳ này, tôi đã thăm được
Toàn, người bạn cũ từ lúc còn học lớp nhì, lớp nhất tại làng Hòa
Cam hồi tản cư. Trong cuộc chiến tại Việt Nam, biết bao nhiêu lần
chạy loạn, tản cư, hồi cư, di cư, rồi di tản... ít có ai cỡ tuổi
tôi mà còn giữ được liên lạc với bạn quen từ hồi tiểu học. Hai
đứa quen nhau lâu và thân đến nỗi khi đã khôn lớn, vẫn còn mày
tao khi nói chuyện. Toàn bây giờ an phận sống tại Sài Gòn, vẫn
dạy học trò như hồi trước 1975, chờ ngày về hưu. Với đồng lương
nhà giáo, ít bổng lộc, lại vật giá đắt đỏ, vợ Toàn phải tần tảo
buôn bán kiếm thêm bằng một sạp bán vải và quần áo tại Chợ Bến
Thành.
Cũng
nhờ gặp lại Toàn, tôi biết được tin tức của Anh Chính và Chị
Dung. Vì thế sau khi ở Sài Gòn ít ngày, tôi dùng AirBus bay ra
miền Bắc. Dự định lo xong công việc được sở làm của tôi là một
hãng thông tấn giao cho, tôi sẽ đi thăm thành phố Hải Phòng, nơi
tôi đã sinh sống nhiều năm lúc còn nhỏ để gặp lại vợ chồng Anh
Chính Chị Dung, hai người quen cũ ngày xưa. Nghe Toàn nói anh
Chính mang bệnh gan, tôi càng muốn thăm anh hơn. Anh là thần
tượng của tôi và Toàn hồi chúng tôi còn nhỏ.
*****
Thời gian lúc đó là vào khoảng năm
1948. Từ khi có Anh Chính về công tác tại đây, làng Hòa Cam tỉnh
Hà Ðông như thêm sinh khí. Chiến tranh Việt–Pháp bùng nổ cuối năm
1946 và lan tràn đã hai năm. Pháp chiếm hết thị thành miền Bắc.
Hải Phòng, Hà Nội rồi Nam Ðịnh, Ninh Bình... Dân thành phố tản cư
về Hòa Cam cũng nhiều, cán bộ tới lui cũng lắm. Bộ đội với các
đơn vị lớn nhỏ thoáng đến rồi lại thoáng đi.
Riêng anh Chính thì khác. Anh ở lại
công tác tại làng này khá lâu, đã trên sáu tháng. Có khi anh đi
đâu năm bữa, nửa tháng rồi lại trở về. Mọi người biết anh là cán
bộ, nhưng không rõ anh thuộc cấp nào, có lẽ cao cấp. Anh tạm ở
trọ tại một gia đình trong làng. Thỉnh thoảng lại có các cán bộ
từ đâu đâu lại, sinh hoạt với anh vài ngày. Ðôi khi người ta thấy
anh Chính đến thăm, nói chuyện riêng cả tiếng đồng hồ với ông Chủ
Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kiêm Kháng Chiến địa phương. Dân làng chỉ
biết vậy, không ai muốn tìm hiểu gì thêm. Ðang thời buổi toàn dân
chống Pháp giành độc lập, “tích cực cầm cự chuẩn bị tổng phản
công”, ai không có phận sự đừng hỏi, đừng biết gì là hay hơn.
Những chữ bí mật quân sự, bí mật quốc phòng, bí mật công tác đủ
để cho mọi người tránh tìm hiểu, dây dưa, rắc rối. Có chuyện gì
xảy ra, khỏi bị dính dáng, khỏi bị liên lụy kết án là Việt gian,
bán nước.
Trước mắt mọi người, anh Chính hiền hòa và dễ mến. Mà anh dễ mến
thật, từ cách cư xử đến lối giao thiệp với dân làng. Anh trẻ
tuổi, độ hăm bốn, hăm lăm. Dáng dấp cao, vừa mạnh dạn, vừa nghệ
sĩ. Anh không mang y phục cán bộ, nhưng có tới ba bốn bộ quần áo
bằng vải phin từ nội thành, nhuộm nâu, lúc nào cũng tươm tất, có
vẻ sang trọng nhưng lại hòa đồng với mọi người trong làng vì màu
nâu của trang phục. Nhìn sắc diện, ai cũng biết anh là gốc thị
thành. Anh đẹp trai, tóc ngắn gọn, ăn nói lễ độ, duyên dáng. Anh
Chính lại rất hào hoa. Các quán nước, các hàng quà bánh trong
làng cũng như ở các làng bên, anh thường ghé thăm, trò chuyện,
chi tiêu rộng rãi. Trong khi có vài anh bộ đôi, tính nghệ sĩ,
phải nhịn một bữa ăn để đủ tiền mua một điếu thuốc hạng sang, anh
Chính thường có trong túi áo cả một bao Cotab, thứ thuốc lá sang
gần như bậc nhất thời bấy giờ ở vùng kháng chiến. Anh sẵn sàng
mời thày giáo làng, hay ông cán bộ thông tin điếu thuốc mỗi khi
có dịp. Anh có một cây đàn ghi–ta, và đàn hay hát giỏi, thường
giúp vui mọi người trong những dịp lễ, mít tinh. Với những ưu
điểm ấy, cộng thêm với tinh thần yêu nước của dân chúng chống
thực dân Pháp thời bấy giờ tại vùng kháng chiến Liên Khu Ba, hễ
ai chống Pháp là được đề cao, anh Chính mau chóng có được cảm
tình của mọi người. Nhiều bậc cha mẹ trong làng quý mến anh, muốn
gả con gái cho anh. Các cô gái tản cư đến từ thị thành cũng như
những thôn nữ chưa lập gia đình trong làng, nhiều người mong được
anh lưu ý. Vì vậy, như đã nói ở phần trên, đối với tôi và nhiều
đứa trẻ trong làng thời ấy, anh Chính là thần tượng.
Lúc đó tôi mới trên mười tuổi, cùng gia
đình tản cư về làng Hòa Cam, sau khi cả nhà đã tản cư hết nơi này
đến nơi khác, khi thì tạm trú tại làng mạc, khi thì mua thuyền
ngược xuôi trên sông nước vùng Gia Viễn, Nho Quan, Bùi Chu, Phát
Diệm, Bến Xanh... vừa chạy giặc, vừa buôn bán để kiếm sống. Về
tới làng này, tôi quen với Toàn. Nó cùng tuổi, cùng học lớp nhì
rồi lớp nhất trường làng với tôi. Ðây là quê nội của Toàn. Gia
đình Toàn cũng như gia đình tôi và mọi người trong làng, lo tăng
gia sản xuất. Khi chiến tranh chưa lan tràn tới, ai có chút vốn,
chút vàng dành dụm được từ khi mới tản cư đem ra tiêu dùng, và
cần cù canh tác, ươm tơ, dệt vải, kéo cúi làm sợi cũng tạm sống
đạm bạc. Cha Toàn trước khi chiến tranh là một tiểu công chức
ngành quan thuế tại Hải Phòng, cũng là thành phố gia đình tôi đã
sanh sống lúc chưa tản cư. Mẹ Toàn nội trợ như nhiều bà mẹ khác
thời bấy giờ. Gia đình Toàn có bốn anh chị em. Người anh lớn
nhất, đã gần hai mươi. Chị Dung mười tám. Một anh nữa mười sáu.
Toàn là con út trong gia đình.
Thời kỳ tản cư tại đây cho tôi và Toàn
nhiều kỷ niệm nhất khi còn trẻ dại. Chúng tôi đi học, câu cá, ra
đồng bắt cua, đào hố trú ẩn để tránh bom giặc Pháp, đi cắt rạ sau
mùa gặt đem về làm nhiên liệu nấu bếp, thả diều cùng với những
mục đồng... Mỗi sáng sớm tinh sương, hai người anh của Toàn chuẩn
bị sách vở, nón lá, áo tơi, cơm nắm độn khoai, độn bắp, kèm thêm
muối vừng. Hai anh đi bộ bảy cây số từ làng Hòa Cam đến Xêu Ðặng
để học trung học, lớp đệ lục, đệ tứ gì đó. Chiều tối mới thấy hai
anh đi bộ về. Cơm tối xong, trong ánh đèn dầu trổi tù mù, các anh
Toàn vừa học bài, vừa kéo cúi, se những sợi chỉ từ những bông cúi
trắng tinh. Khi đủ nhiều bó sợi, chị Dung lại đem đi các chợ bán
cho người dệt vải hay cho những người buôn. Mẹ Toàn và chị Dung
ngoài việc bếp núc, cũng lo kéo cúi, làm sợi, dệt vải để thêm lợi
tức. Cha Toàn kèm các con học, lo thêm chút vườn tược để có thêm
rau bắp cho những bữa ăn.
Con gái làng Hoà Cam nổi tiếng là đẹp
trong vùng, có lẽ là trong tỉnh nữa. Tôi còn nhỏ nghe nói vậy,
cũng lưu ý nhận xét và thấy là đúng. Các cô ở đây đa số ăn nói
nhẹ nhàng, nước da tươi mát mặn mà, mắt to tình tứ, má thắm môi
hồng. Thế mà có người nói là Chị Dung của Toàn đẹp nhất làng. Có
lẽ chị được thừa hưởng dòng máu đẹp bên nội, lại thêm những nét
mới mẻ của những cô gái đến từ thành thị, nên mọi người càng chú
ý nhiều hơn. Ðã có vài cán bộ trẻ tuổi, hai ba anh bộ đội có dịp
công tác trong vùng có ý xin tính chuyện cưới hỏi, nhưng thời
gian quen biết ngắn quá. Họ đến rồi lại đi. Chị Dung chưa có cảm
tình với ai. Cha mẹ Toàn thì nói là đang lúc tản cư, đang thời
chinh chiến, ngày mai chưa biết ra sao, nên không khuyến khích
chuyện lập gia đình cho chị.
Trong một buổi học, một tờ báo Cứu Quốc
được ban thông tin trong làng truyền tay tới lớp tôi. Toàn là
trưởng lớp, được thày giáo giao cho hai việc. Ðiều động học sinh
viết thư để gửi vào Hà Nội, ủng hộ khuyến khích, tán dương việc
bãi khóa của sinh viên, học sinh trong vùng Pháp kiểm soát thời
bấy giờ. Việc thứ hai là tập hát ngay một bài nhạc in trong tờ
báo, để ca hát trong dịp 19 tháng 5 sắp tới. Viết thư thì dễ,
thày giáo đã gà cho, học trò viết ca tụng, cổ võ việc bãi khóa
trong thành, thư nào cũng như thư nào, để gửi tới các sinh viên,
học sinh Hà Nội. Nhạc thì cả lớp không biết đọc ký âm pháp. Các
anh của Toàn chỉ lo “học gạo” và kéo cúi, không ai đàn hát. Nhưng
thật may, đã có anh Chính là bạn của đám nhi đồng cứu quốc chúng
tôi từ lâu, Toàn bèn nhờ anh dạy hát. Thế là tối hôm ấy, cơm nước
xong, ngoài thềm nhà, dưới ánh trăng, anh Chính đem cây đàn đến
nhà Toàn dạy một đám bạn bè học trò chúng tôi hát bài Ðoàn Quân
Du Kích, bản nhạc có in trong tờ báo mới gửi đến lớp học. Anh
Chính đệm đàn, nhanh chóng bắt được nhịp điệu, cất tiếng hát với
giọng trầm ấm và hùng:
Ðoàn quân du kích tiến, những đêm kinh
hoàng
Ta xung phong, giết tham tàn, hợp
cùng đoàn Vệ Quốc Quân
Cướp súng giặc,
giết giặc
Ðánh úp thù, phá đồn
Ðoàn ta không súng, chiến đấu thay bằng gươm giáo
Cướp súng giặc, giết giặc
Cắt đứt đường,
phá cầu,
Ðoàn ta không súng, khiến Tây
mất hồn...
Nhóm học trò chúng tôi hát theo, vang cả một khu xóm. Mẹ Toàn bảo
chị Dung đem mời anh Chính một bát nước chè tươi. Ðây là lần đầu
tiên anh gặp chị Dung. Anh Chính mau chóng trở thành bạn của gia
đình Toàn. Mỗi lần anh đến, kể chuyện trong vùng Tề, chuyện chiến
sự, chuyện thời cuộc tại Hà Nội, Hải Phòng... Công dân Vĩnh Thụy,
mới ngày nào sau cách mạng tháng tám được Việt Minh phong là Cố
Vấn tối cao của Bác Hồ nay bị gọi là Việt Gian số một, đã ký hiệp
ước với Pháp, thành lập Quốc Gia Việt Nam trong vùng Pháp chiếm
đóng. Cha của Toàn rất thích nghe những tin tức này. Anh Chính
cũng hay đem đàn đến nhà dạy Toàn và đôi khi có cả tôi tập đàn,
tập hát. Toàn và tôi tập tễnh biết đàn từ đó. Anh Chính kể cho
chúng tôi và chị Dung chuyện những ngày anh ở chiến khu gần biên
giới Việt–Hoa, những lần gặp gỡ các lãnh tụ, đời sống đường rừng
sơn cước, có suối reo, hoa dại, thú rừng, cùng những cô sơn nữ
mộc mạc, đơn sơ... Chúng tôi say mê anh kể chuyện và thầm phục
những từng trải của anh trong cuộc sống. Một lần, thấy chị Dung
đan áo chuẩn bị cho mùa lạnh, anh dạy chúng tôi và chị Dung bài
ca, bài Tấm Áo Mùa Ðông hay Mùa Ðông Ðan Áo, lâu quá tôi không
nhớ rõ tựa đề, và chỉ còn nhớ ít câu:
Gió bấc tới đây,
xào xạc rung cây lá lá bay,
một mùa
đông,
ơn người đan áo...
Tấm áo xông pha,
mùa lạnh che thân chiến sĩ ta,
đây là
áo, nơi quê nhà...
Suốt mấy ngày sau, khi đến chơi với
Toàn, tôi thấy chị Dung vừa đan áo, vừa hát bài này, mắt chị mơ
mộng, má chị hay ửng hồng khi nhắc tới anh Chính. Rồi Chị Dung
tặng Anh Chính chiếc áo khi vừa đan xong. Mặc dù lúc bấy giờ, chỉ
thịnh hành những bài ca kháng chiến, yêu nước, chẳng mấy ai còn
hát những bài có tính cách lãng mạn của tư sản, anh Chính vẫn đôi
lần thích thú hát những bài Suối mơ, Bến Xuân, Thiên Thai, Trương
Chi... cho chị Dung nghe. Một buổi chiều, anh Chính nhận lời mẹ
của Toàn, ở lại dùng cơm với gia đình. Mẹ Toàn mới làm được một
hũ mắm tép đáo kỳ, muốn đem mời khách, và sai Toàn ra bờ ao hái
mấy quả sung. Tôi cũng đi theo, định ở chơi thêm đến khi cả nhà
Toàn dùng cơm tối, tôi sẽ về nhà mình. Chị Dung được bảo ra vườn
sau nhà hái khế. Toàn và tôi hái sung xong, chạy ra vườn muốn
giúp chị Dung trèo cây. Hai chúng tôi thấy dưới tàn cây khế ngọt,
khuất nơi một góc vườn rất nên thơ, anh Chính ôm hôn chị Dung
trên má và trên môi. Cơn gió thổi, những sợi tóc chấm vai của chị
bay phớt trên mặt hai người. Chợt thấy Toàn và tôi, hai người
ngưng hôn nhau. Anh Chính nhìn chúng tôi, ánh mắt thân mật, bình
tĩnh. Chị Dung thì ngượng ngùng, má chị hồng thêm. Tôi thấy chị
thật đẹp. Chị nhẹ nhàng nói với Toàn:
– Em đừng mách thày me nhé.
*****
Tin chiến sự và chiến thắng về dồn dập.
Mọi người biết vậy thôi. Không rõ thực sự bên ta thắng hay thua.
Luôn luôn có tin là địch thua nhiều, ta đại thắng. Cùng lắm là
bên ta có hai chiến sĩ hy sinh trong mỗi trận đánh. Người mõ làng
của thời phong kiến ngày xưa, “một mình một chiếu thảnh thơi
ngồi”, bây giờ được danh hiệu là ông ủy viên thông tin, mỗi chiều
đứng đầu làng, cuối xóm, với chiếc loa cầm tay, đọc lời hiệu
triệu của Bác, đọc tin chiến sự, hay kêu gọi dân làng đi họp
mít–tinh. Mít–tinh tối nay để mừng chiến thắng mới nhất, và học
tập kế hoạch người người thi đua, ngành ngành thi đua, chuẩn bị
tổng phản công. Anh Chính vừa tự đệm đàn, vừa hát những lời ca
hùng tráng:
Trùng trùng, say trong câu hát
Lớp lớp,
đoàn quân tiến về
Chúng ta đi nghe vui,
lúc quân thù đầu hàng,
cờ ngày nào tung
bay trước gió...
Trùng trùng, quân đi
như sóng
Lấp lánh, lưỡi lê sáng ngời...
Khi anh Chính kết thúc bài hát:
Năm cửa ô đón mừng
Ðoàn quân tiến về
Hà Nội bừng tiếng quân
ca...
Anh được
những tiếng vỗ tay vang dậy của dân làng.
Thanh niên trong làng sau đó được kêu
gọi ra đi tòng quân cứu nước, diệt giặc Pháp, hoặc lên đường đi
công dân vụ, yểm trợ chiến trường Việt Bắc. Một số đi không thấy
trở về. Một vài tin tức. Hai ba lễ truy điệu tổ chức trong làng.
Vài người quả phụ thắt khăn sô. Hai ba bà mẹ sụt sùi. Chuyện buồn
sao tránh khỏi trong mùa chinh chiến. Rồi một số người đi nghĩa
vụ được trở về với da mặt xanh, vàng bủng vì sốt rét.
Một hôm, có một toán được gọi là Việt
gian từ đâu không biết, bị tạm giải đến đình làng. Toàn rủ tôi
cùng vài đứa bạn kéo nhau đi xem Việt gian mặt ngang mũi dọc,
hung ác ra sao. Chúng tôi chỉ thấy trên ba chục người gầy ốm, mặt
mày thiểu não đáng thương. Phía trên cánh tay phải của họ, được
cột bằng dây thừng, người nọ nối tiếp người kia với một khoảng
cách độ hai ba bước chân. Họ thẫn thờ, mệt mỏi ngồi xổm trên nền
gạch đỏ của đình làng. Toàn chợt nhận thấy một người trong đám
Việt gian giống như Bác Huyện. Toàn cho tôi biết là trước khi tản
cư khỏi Hải Phòng, Bác Huyện có đến thăm gia đình Toàn một vài
lần tại đất Cảng. Toàn không rõ bác tên gì, chỉ biết là bác có họ
với mẹ, và cả nhà gọi là Bác Huyện. Bác là con cháu Cụ Bảng, làng
Hòa Xá, quê ngoại của Toàn. Làng Hòa Xá cũng ở Hà Ðông. Làng này
sản xuất nhiều vị khoa bảng. Nghe nói Bác Huyện đậu cử nhân luật
bên Tây. Trở về làm tri huyện chỉ ít tháng. Sau đó chán ngành
quan lại, bác ra làm công chức cao cấp tại Hà Nội. Có lẽ nhờ vậy
nên sau ngày Cách Mạng Tháng Tám, Bác Huyện không bị thanh toán,
không bị xử tử như nhiều vị tri phủ, tri huyện hay quan lại khác.
Ðang tính đến bên bác, Toàn bị mấy người bộ đội dẫn giải tù nhân
xua đi, không cho lại gần. Sau đó, thấy anh Chính đến bàn bạc gì
với một người bộ đội, có lẽ là trưởng toán dẫn giải tù nhân. Toàn
chạy về nhà, nói cho mẹ biết “hình như có Bác Huyện trong đám
Việt gian”. Mẹ và cha Toàn lộ vẻ lo lắng, suy nghĩ. Anh Chính
tới, mẹ Toàn cầu cứu anh xem hư thực, có đúng là bác Huyện làng
Hòa Xá không. Anh Chính đi, khuya đó trở lại, nói gì riêng với
cha mẹ Toàn, anh chị em của Toàn không được biết. Bác Huyện vẫn
bị giữ trong đám tù nhân.
Mới mờ sáng hôm sau, máy bay khu trục
của Pháp, từng đoàn oanh tạc dữ dội Vân Đình và các làng mạc
chung quanh. Làng Hòa Cam nơi chúng tôi cư ngụ may mắn không là
mục tiêu oanh tạc, nhưng dân làng rúng động, chuẩn bị tản cư.
Ngay sáng đó, quân Pháp nhảy dù xuống Vân Ðình. Nghe nói quân
Pháp hành quân chớp nhoáng, mục đích tóm bắt trọn vẹn những cán
bộ Việt Minh kháng chiến cao cấp đang có cuộc họp quan trọng tại
đây. Mục tiêu của Pháp không thành công trong cuộc hành quân này.
Nhưng quân Pháp tiếp tục mở những cuộc hành quân tảo thanh.
Bên con đường qua nhiều đồng ruộng,
cách làng Hòa Cam độ bốn năm cây số, có một gò đất lớn giữa đồng,
bên trên có một kiến trúc xây bằng gạch, dân trong vùng gọi là
Chùa Rồng. Trước kia không biết ra sao, nhưng từ sau cách mạng
tháng tám, Chùa Rồng luôn luôn đóng kín cửa, không ai nhang khói,
không sư sãi. Cúng kiến, lễ chùa với chế độ mới không được khuyến
khích, đôi khi bị những thành viên cộng sản quá khích coi là còn
đầu óc mê tín, dị đoan. Nhưng chùa có nhiều cây cao, bóng mát
chung quanh, vẫn tiếp tục là nơi để mục đồng, nông phu, người
buôn, kẻ đi chợ và các học trò như tôi và Toàn mỗi trưa nắng đi
ngang qua nghỉ chân rất mát và thoải mái. Nhưng sau khi Pháp nhảy
dù Vân Ðình ít ngày, ai qua đường ngang Chùa Rồng đều thấy một
mùi hôi tanh không chịu nổi. Người ta nói nhỏ với nhau, kín đáo
đồn rằng khi thấy quân Pháp hành quân gần kề, đám Việt gian hôm
trước đã được chôn sống tại đây. Thấy tin đồn bất lợi, chỉ ít
ngày sau, các xác chết được thầm lặng ban đêm đào đem đi đâu
không ai biết. Tôi và Toàn một lần cùng lũ bạn, nhân một chuyến
thi đua viết luận văn với các học sinh làng xã khác, phải đi
ngang qua Chùa Rồng. Chúng tôi nhận thấy còn dấu vết một hố rất
lớn trên gò đất. Từ đó, mỗi khi phải đi trên đường bên chùa,
nhiều người rảo chân bước nhanh, tránh tử khí còn phảng phất,
không ai dừng lại nghỉ chân như xưa.
Tuy có nhiều tin chiến thắng, nhưng chỉ
thấy quân đội Pháp và quân của Bảo Ðại tảo thanh càng ngày càng
thường hơn trong vùng. Dân quê không cầy cấy được như xưa. Ða số
thanh niên trai tráng phải đi tòng quân, tham gia kháng chiến,
hoặc đi phụ dịch. Hoa màu, khoai sắn được thu mua để yểm trợ
chiến trường. Nhiều gia đình đã ăn cháo. Nhiều người đã “dinh tê”
vào vùng tề, rồi trở về các thành phố lớn, do Pháp kiểm soát, với
danh nghĩa là về vùng quốc gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Ðại
lãnh đạo. Cha của Toàn đôi lần được kêu gọi nhận công tác, được
mời gia nhập đảng Cộng sản. Mấy anh của Toàn cũng được nhắn nhủ
nên bỏ học, tòng quân hay tham gia kháng chiến. Ðúng lúc ấy anh
Chính được chỉ thị công tác nội thành. Anh phải trở về Hà Nội và
Hải Phòng. Anh còn có nhiệm vụ hướng dẫn một vài cán bộ giả dạng
như thường dân về thành. Anh Chính đã ra vùng kháng chiến, rồi
lại vào vùng tề nhiều lần. Chị Dung cho biết nếu gia đình Toàn
muốn đi, anh sẽ hướng dẫn an toàn. Có lẽ anh và chị Dung đã yêu
nhau sâu đậm nhưng vẫn trong vòng lễ giáo. Vì tình yêu, anh không
muốn xa chị Dung. Anh muốn gia đình Toàn theo anh “dinh tê” vào
thành.
Cha
Toàn chỉ là một tiểu công chức cũ. Ông yêu nước, không ưa Pháp,
nhưng cũng không thích chế độ Cộng sản mà Việt Minh ngày càng lộ
rõ. Lại nặng gánh gia đình, với bốn đứa con. Ở lại vùng kháng
chiến đến giai đoạn này cũng không sống nổi nữa, vừa thiếu ăn vừa
chiến sự đã gần bên, các trường học trong vùng đã đóng cửa. Ông
đồng ý về thành. Gia đình tôi nhờ đó cũng tháp tùng cùng một
chuyến đi. Sau hai ngày đi bộ, có anh Chính hướng dẫn, chúng tôi
tới nhà tạm trú gần ga Văn Ðiển. Chỉ vài ngày, xong thủ tục làm
giấy tờ, gia đình Toàn và gia đình tôi vào Hà Nội, rồi xuống
định cư nơi cũ là thành phố Hải Phòng. Anh Chính cũng xuống Hải
Phòng. Không rõ sao, anh mau chóng trở thành quản lý một nhà in
nhỏ, có sáu nhân viên. Bảy tháng sau, anh làm đám cưới với Chị
Dung. Cha mẹ của Toàn có vẻ e ngại, vì đã biết rõ tính cách cán
bộ Việt Minh của anh Chính. Nhưng tình yêu của chị Dung với anh
đã sâu đậm và tha thiết quá, không ai ngăn cản được nữa.
Tôi và Toàn vẫn tiếp tục chơi thân với
nhau, cùng học một trường trung học, cùng nhau đá banh, dạo phố,
đi Ciné... cho tới tuổi mười sáu. Với thời gian và với cuộc sống
tại nội thành, “thần tượng Anh Chính” hình như từ từ thiếu một
chỗ đứng vững chắc trong tâm trí tôi. Tôi bắt đầu có thêm nhiều
thần tượng mới, đủ loại. Nhìn xa là các nhà khoa học lừng danh,
những lãnh tụ thế giới, những nghệ sĩ tài hoa, những tài tử màn
bạc... Trông gần là mấy ông giáo sư trung học của tôi, nhiều vị
giảng dạy hấp dẫn vô cùng, nhiều vị trẻ tuổi tài hoa, văn chương
chữ nghĩa đầy mình.
Nhà Toàn ở trên một căn gác đường Trại
Cau. Gia đình tôi mướn một căn trong dãy phố gần ngoại ô, đường
Chợ Con. Hai chúng tôi có thêm một người bạn mới cùng lớp, khá
thân tên Tuấn. Nhà Tuấn chỉ cách nhà tôi hơn mười căn phố, một
Villa nhỏ có vườn chung quanh. Tuấn là con một công chức sở Liêm
Phóng, mọi người trong khu phố gọi cha Tuấn là Ông Phán Thọ. Ông
ít giao thiệp với ai và mọi người trong phố cũng tránh tiếp xúc
với ông. Họ nói ông làm cho Sở Mật Thám, muốn bắt ai bỏ tù cũng
được! Tuy thế, tôi và Toàn chẳng sợ gì, vẫn thân với Tuấn, vẫn
đến chơi sau vuờn nhà ông Phán Thọ nhiều lần.
Một hôm mới chừng hơn năm giờ sáng, cả
khu phố của tôi thức giấc vì ba tiếng súng nổ. Mười lăm phút sau,
xe hồng thập tự hú còi và xe cảnh sát, rồi xe hiến binh Việt–Pháp
đến đậu quanh nhà ông Phán Thọ. Ông đã bị ám sát bằng ba phát
đạn, chết tại chỗ và được đặt trên mặt một tờ giấy viết chữ đỏ
Việt Gian Tử Hình. Tôi và Toàn rất buồn cho bạn mình, nhưng tôi
thấy Toàn từ đó hình như ít chuyện trò thân mật với Tuấn hơn.
Chiến tranh Việt–Pháp ngày càng lan
rộng, càng quyết liệt. Các anh của Toàn đã bị gọi động viên, nhập
ngũ từ cả năm trước. Quân Pháp đột ngột rút khỏi thành phố lớn
Nam Ðịnh. Rồi đánh lớn tại mặt trận Ðiện Biên. Hội nghị Genève
họp, và bên Việt Minh càng gia tăng mạnh mẽ áp lực chiến trường
để có lợi thế trên bàn hội nghị. Anh Chính, bấy giờ đã là anh rể
của Toàn, để tránh động viên, anh trở ra vùng kháng chiến, nghe
nói để hoạt động. Chị Dung đã có một con, về nhà Toàn ở cùng cha
mẹ. Thế là Toàn có hai anh ruột đi quân đội quốc gia, một anh rể
theo Việt Minh kháng chiến!
Hiệp định Genève kết thúc. Nước Việt
Nam được chia đôi ở vĩ tuyến mười bảy, bởi dòng sông Bến Hải. Ông
Ngô Ðình Diệm về nước làm Thủ Tướng và một cuộc di cư vĩ đại được
Mỹ tích cực yểm trợ di chuyển cả triệu người vô Nam. Gia đình tôi
nhanh chóng quyết định di cư. Gia đình Toàn cũng di cư mặc dù anh
Chính cử người nhắn về là nên ở lại, anh Chính sẽ bảo lãnh an
toàn. Nhưng có lẽ vì gia đình Toàn đã có hai người anh được động
viên, đang là sĩ quan quân đội quốc gia, cha mẹ Toàn quyết định
vào Nam. Chỉ có mình Chị Dung cùng với đứa con trai nhỏ, ở lại
miền Bắc, chờ chồng là anh Chính trở về. Tôi nghĩ anh Chính sẽ có
mặt trong đoàn quân cộng sản về tiếp thu Hà Nội. Có lẽ anh sẽ
sung sướng hát lại bài hát có câu “năm Cửa Ô đón mừng đoàn quân
tiến về...” mà mấy năm trước anh đã từng ca tại làng Hòa Cam...
*****
Trở về Việt Nam kỳ này, tôi có nhiệm vụ
viết một loạt bài về sinh hoạt của dân chúng, khả năng tiêu thụ
cũng như tình hình kinh tế tại Việt nam cho một cơ quan truyền
thông nước ngoài. Thương ước Việt–Mỹ đã ký kết. Thêm một số nhà
đầu tư muốn kinh doanh tại Việt Nam. Hãng truyền thông tôi làm
việc, muốn có thêm tài liệu và dữ kiện cho các nhà đầu tư. Những
bài viết của tôi lúc ở Sài Gòn được gửi bằng điện thư về cơ quan
không gặp một trở ngại nào và được đọc trên một hệ thống truyền
thanh và truyền hình tôi làm tại hải ngoại, chương trình nói về
Việt nam. Sau đó tôi làm việc tại Hà Nội đã ba ngày. Ði thăm
nhiều khu phố, một số xí nghiệp và một vài nhân vật. Hơn mười giờ
tối ngày thứ ba, tôi đang gõ máy điện toán xách tay bản thảo cho
một bài tường thuật sắp tới, và cũng là bài chót, chuẩn bị gửi về
thì có tiếng gõ cửa phòng khách sạn. Ba bốn người bước vào phòng
để gặp tôi. Viên quản lý khách sạn giới thiệu hai người cán bộ,
văn hóa và mậu dịch. Họ lịch sự mời tôi xuống làm việc, đả thông
với họ tại văn phòng của viên quản lý. Họ mặc thường phục. Nếu họ
có là công an hay nhân viên an ninh, hay điệp báo tôi cũng không
thể nào biết được.
Một người cán bộ mở đầu:
– Chúng tôi muốn biết anh đã nói gì,
gửi tin tức gì ra cơ quan truyền thông ngọai quốc trong ba ngày
vừa qua.
Tôi
trả lời, tự nhiên và trung thực:
– Những bài tường thuật của tôi đều
được đọc trên đài ngoại quốc, cơ quan truyền thông tôi đang làm
việc. Các anh muốn nghe, cứ mở đài. Nếu muốn nghe lại, tôi nghĩ
các anh hẳn đã thu âm những bài của tôi cũng như của người khác
nói về các cơ chế tại Việt Nam ngày nay, các anh cứ mở lại tapes
ghi âm nghe là rõ.
Người cán bộ nói với giọng khá nghiêm
nghị, hơi cứng rắn:
– Trong vài bài tường thuật của anh, có
đôi điều bất lợi cho chế độ. Anh có biết rằng chúng tôi có thể
rút chiếu khán, mời anh ra khỏi nước bất cứ lúc nào không?
Tôi cũng nghiêm trang trả lời lại:
– Chúng tôi chỉ làm phận sự của một
người làm nghề truyền thông, tường thuật trung thực, khen chê
đứng đắn có căn cứ những gì quan sát hay thâu lượm được. Chúng
tôi không có một lời mạt sát bất cứ chế độ nào. Còn nếu thấy cần
trục xuất tôi ra khỏi xứ, xin các anh cứ việc làm. Các cơ quan
truyền thông có cả trăm phái viên. Họ cử người khác đến thì làm
việc cũng như tôi thôi.
Người cán bộ khác nhẹ giọng lại:
– Chúng tôi nói vậy để anh tự xử lý.
Nhưng có một điều tôi muốn nói riêng với anh, nói chuyện giữa
người Việt Nam với nhau. Anh biết là nước ta bây giờ rất cần cảm
tình của thế giới để gia tăng mậu dịch, gia tăng kinh doanh và
đầu tư từ các nước ngoài. “Ðối tác” của nhà nước bây giờ là kinh
doanh của tư bản ngoại quốc. Anh làm được điều gì để có tiếng tốt
với dư luận thế giới, thuận lợi cho kinh tế Việt Nam được phồn
thịnh cũng là đóng góp lợi ích cho tổ quốc.
Tôi không muốn kéo dài cái đối thoại
“dơ cao đánh khẽ, khi tiến khi lùi, khi đe dọa khi vỗ về” nên chỉ
đáp ngắn cho xong:
– Tôi sẽ suy nghĩ về điều anh vừa nói.
Tôi nói suy nghĩ, không phải là để sẽ
viết theo đường hướng của những người cán bộ dẫn dụ. Tôi suy
nghĩ về một chủ thuyết luôn luôn đề cao vô sản, từng đánh tư sản
nặng nề, muốn tiêu diệt tư bản tận gốc, bây giờ lại có “đối tác”
là tư bản. Từ ngữ đối tác còn xa lạ với tôi. Rất nôm na, tôi hiểu
đối tác là đối tượng để tác dụng, để hợp tác. Ðối tác trong hoàn
cảnh này, không thể nào hiểu là đối phương để tác chiến được.
Họ rút lui và tôi trở về phòng, tiếp
tục bài viết còn dang dở đến gần một giờ sáng. Ngày hôm sau tôi
bao mướn một taxi xuống Hải Phòng, đi thăm một vòng những nơi có
nhiều kỷ niệm ngày xưa. Năm giờ chiều tôi đến thăm Anh Chính và
Chị Dung.
*****
Vợ chồng
anh Chính vẫn ở căn nhà cũ của cha mẹ Toàn, phường Trại Cau. Căn
nhà, sau gần nửa thế kỷ xa cách, giờ đây tôi mới có dịp ghé lại.
Ít được tu bổ, nó tiêu điều hơn ngày gia đình tôi rời miền Bắc để
vô Nam năm 1954.
Có lẽ đã được Toàn thông báo trước, Anh
Chính, Chị Dung tiếp tôi niềm nở và thân tình. Anh Chính bây giờ
đã bảy mươi lăm. Nghĩ lại mình, tôi cũng không còn trẻ gì nữa.
Anh Chính vẫn có vóc dáng gọn gàng, phong thái nghệ sĩ, nhưng
tuổi đời và những từng trải trong cuộc sống của những năm dài
chiến tranh, làm vẻ mặt anh có nhiều nét ưu tư. Chị Dung nay cũng
phải gần bảy mươi. Tóc chị thưa, khá nhiều sợi bạc, và búi gọn
phía sau. Tôi vẫn cố hình dung, nhớ lại mái tóc mây của chị ngày
nào, dưới tàn cây khế, những sợi tóc mềm gặp gió bay nhẹ trên mặt
chị và anh Chính lúc Toàn và tôi bắt gặp hai người hôn nhau. Một
hình ảnh yêu thương quá đẹp mà tôi khó quên.
Tôi hỏi thăm:
– Em nghe Toàn nói là anh bị bệnh gan,
tưởng là anh gầy yếu, vàng da. Nhưng thấy cả anh và chị còn mạnh
giỏi, em mừng cho anh chị.
Anh Chính đáp:
– Anh bị mang siêu vi gan B, nhưng thử
nghiệm thì hiện giờ chức phận gan còn khá.
Quan sát nơi ăn chốn ở, tôi nghĩ rằng
gia đình anh Chính chỉ tạm đủ sống. Lúc thăm Toàn tại Sài Gòn,
bạn tôi có cho hay là anh Chính đã về hưu, hai năm sau tháng tư
1975. Toàn nói là anh Chính có vào Sài Gòn công tác. Gia đình
Toàn đã nhờ anh Chính can thiệp và bảo đảm cho hai người anh là
sĩ quan Ngụy đi cải tạo được ra sớm. Hai người anh của Toàn sau
đó học tập có 5 năm và 7 năm, đáng lẽ còn lâu hơn! Tôi cũng được
Toàn cho biết là anh Chính phục vụ ngành tình báo và phản gián từ
thời kháng chiến. Hồi ở làng Hòa Cam, anh là một trong những cán
bộ ngành công an tình báo, phụ trách nhiều tỉnh phía hữu thuộc
Liên Khu Ba. Vì lập gia đình với Chị Dung, có gốc tiểu tư sản và
mẹ Chị Dung có gốc dòng dõi quan lại của làng Hòa Xá, nên anh
Chính không được thăng tiến nhiều trong đảng bộ. Cũng có thể là
tại anh thẳng thắn quá không chừng. Toàn đã cho tôi hay như vậy.
Nhớ lại mấy hôm truóc, lúc hai đứa chúng tôi ngồi uống bia tại
Sài Gònn, Toàn đã nói xa gần cho biết anh Chính có liên hệ đến
vụ ông Phán Thọ và vụ Bác Huyện. Vì thế, đã nửa thế kỷ trôi qua,
tôi vẫn còn nhiều điều muốn biết về con người Anh Chính.
Anh chị Chính mời tôi ở lại hàn huyên,
dùng cơm chiều. Tôi vui vẻ nhận lời. Năm mươi năm không gặp lại,
nhưng tôi cảm thấy mối thân tình thuở xưa vẫn còn. Ngày trước,
mỗi lần đi đá bóng với Toàn về, chị Dung hay lấy cơm cháy còn
trong nồi, và muối vừng cho hai đứa tôi, đang đói ăn ngon vô
cùng. Chưa bao giờ tôi biết khách sáo với chị Dung.
Ðồ đạc trong nhà anh Chính bây giờ quý
nhất có lẽ là cái sập gụ của cha mẹ Toàn để lại từ ngày vô Nam.
Nước gỗ lâu năm sẫm hơn và rất bóng. Chị Dung cho dùng cơm gia
đình, Anh Chính và tôi ngồi kiểu xếp chân vòng tròn trên chiếc gụ
ngày xưa. Kể từ nhiều năm rồi, tôi không ngồi kiểu này nên khá
mỏi đầu gối. Lần này Chị Dung cho dùng món mắm tôm chua chứ không
phải là mắm tép làng Hòa Cam. Có thịt ba chỉ thái mỏng. Thiếu mất
mấy quả sung bên bờ ao hồi trước. Tôi nhớ mấy quả sung ấy, nó
chát chát nhưng nếu ăn với mắm rất hợp vị. Không có sung nhưng có
đủ vị khế, gừng, hành, chuối xanh và rau thơm. Tôi không còn giữ
cái dè dặt tránh dùng rau sống như khi ăn tại hàng quán Sài Gòn
và Hà Nội. Chị Dung còn làm món canh rau dền nấu với trứng cáy,
từ rất lâu tôi chưa được dùng qua. Hải Phòng thì thiếu gì cua
cáy. Lại thêm một món cá thu kho. So với những bữa ăn hồi tản cư,
đây là một bữa tiệc thịnh soạn. Bữa ăn chỉ có ba chúng tôi. Anh
Chị Chính con cái đã lớn, lập gia đình ở riêng, và anh chị có vài
đứa cháu nội, cháu ngoại.
Dùng cơm xong, anh Chính kéo tôi lên
căn gác lửng. Một cây đàn ghi–ta treo trên vách, nhưng chắc chắn
không phải cây đàn hồi tản cư. Tôi nhớ cây đàn ngày xưa có khắc
chữ Dung nho nhỏ trên mặt đàn. Chúng tôi uống trà mạn, dùng bánh
đậu xanh Hải Dương và hàn huyên tiếp. Anh hỏi tôi:
– Sao, Huân về Việt Nam, em thấy thế
nào?
Câu hỏi
quá rộng rãi, quá tổng quát. Tôi cũng khó trả lời, nên đáp:
– Em về đây kỳ này là lần thứ hai. Nói
chung em thấy có nhiều tiến bộ, so với hai năm trước. Miền Nam có
vẻ sung túc, khá hơn. Miền Trung và Miền Bắc của mình còn nhiều
người nghèo khó, mực sống còn thấp anh ạ.
Anh Chính nhẹ nhàng:
– Từ xưa vẫn vậy, miền Nam là vựa lúa
của nước ta, lại ít thiên tai. Nhưng anh vẫn có tin tưởng là nước
mình còn nhiều tài nguyên, dân mình chịu khó và thông minh, trong
tương lai đất nước sẽ khá hơn nhiều lắm.
Tôi nhân cơ hội, muốn tìm hiểu tư tưởng
một một người cán bộ trên năm mươi tuổi đảng như anh Chính, nay
đã hồi hưu, chắc anh cũng không cần phải dè dặt nhiều nữa, tôi
hỏi:
– Anh có
nghĩ rằng mình cần phải có đường lối tốt, lãnh đạo tốt thì mới
mong có tiến bộ không?
Anh Chính nhìn tôi, miệng cười và không
trả lời thẳng câu hỏi có tính cách chánh trị này. Anh nói:
– Huân đúng là phái viên truyền thông,
muốn phỏng vấn anh hay sao?
Tôi trấn an và chuyển đề tài:
– Không, em chỉ muốn biết ý kiến của
các vị hơn tuổi em, từng sống nhiều với chế độ miền Bắc như anh.
Em cảm thấy buồn là sau gần nửa thế kỷ, em trở về đây thăm lại Hà
Nội, rồi Hải Phòng. Em không thấy Hà Nội đẹp hơn xưa. Hàng Ngang,
Hàng Ðào, Hàng Gai sao bây giờ vẫn còn luộm thuộm, cống rãnh còn
lộ thiên. Kiến trúc trong thành phố còn vá víu, không có một trật
tự, một quy chế nào cả. Hồi nãy, trước khi đến thăm anh, em có đi
quanh vài chốn cũ của Hải Phòng. Những nơi được coi là đẹp của
ngày xưa em và Toàn vẫn thích, bây giờ khác xa, thua kém ngày
trước. Phố Cầu Ðất, Phố Ga, Phố Tây, Bến Tàu, Vườn Hoa Con Cóc,
Chợ Sắt, Ðường Cát Dài... thời xưa, bây giờ cho em những ấn tượng
khác.
Anh
Chính suy nghĩ một chút rồi trả lời tôi:
– Có hai yếu tố Huân ạ. Thứ nhất quá
khứ bao giờ cũng đẹp. Em xa quê hương nhiều năm rồi, tuổi đời
cũng lớn, không bao giờ em có lại được cảm giác của ngày xưa. Thứ
hai là vì nước ta nhiều năm chiến tranh, không thể nhanh chóng
tạo dựng những đô thị khang trang quy mô, có tổ chức như những
nước ngoài. Rất khó khăn để biến cải những thành phố đã bị coi là
cổ. Còn nói về Hà Nội, thì Huân biết không, vài ngàn năm trước là
vùng đồng lầy, rất nhiều ao hồ. Bây giờ Hà Nội còn dư lại nhiều
hồ ngay tại giữa thành phố. Khi mùa nước lớn, đất Hà Nội thấp hơn
mức nước sông Hồng Hà, thấp hơn cả mặt biển khi thủy triều lên.
Dân chúng tại thành ngày lại càng gia tăng vì dân quê đổ tới. Vì
vậy giải quyết vấn đề thủy lợi, thoát nước, lập một hệ thống cống
rãnh hữu hiệu cho Hà Nội có rất nhiều khó khăn. Riêng em nhận xét
về Hải Phòng thì khá đúng. Anh nghĩ Hải Phòng sau này sẽ là thành
phố lùi dần về kinh tế và giao thương. Lý do là sông của cửa khẩu
cạn, cần phải đào vét hàng năm tàu lớn mới vào Cảng được. Vì vậy
sẽ phải có một hải cảng khác thuận tiện cho tàu bè hơn là Hải
Phòng. Nhà nước có trù liệu chương trình lập một cảng mới tại gần
Bãi Cháy hay gần Cát Bà.
Tôi không hiểu những điều anh Chính vừa
nói có chính xác hay không, nhưng tôi không ngờ con người một
thời chuyên về công an, tình báo như anh Chính, cũng để ý và quan
tâm về địa dư, về kinh tế như thế. Tôi nói tiếp chuyện với anh:
– Anh có nghĩ nước mình bất hạnh không?
Cuộc chiến giữa hai miền Bắc–Nam vừa qua, trên 20 năm, hao tổn
hàng triệu sinh mạng, phí phạm bao nhiêu tài nguyên, hai miền
cùng chịu nhiều tang tóc để có được một nước Việt Nam bây giờ,
mức sống của dân được coi là một trong những nước nghèo nhất trên
thế giới. Anh hãy coi, những nước nhược tiểu ngày trước như
Maroc, Tunisie, Algerie, Madagascar... xưa là những nước bị trị,
là thuộc địa như nước mình, thế mà họ không bị chiến tranh tàn
phá vẫn có được độc lập.
Anh Chính trả lời:
– Anh nghĩ nước mình bất hạnh một phần.
Mặt khác, chỉ vì thời cuộc và cục diện thế giới đã đè nặng vào
dân mình, do vị trí chiến lược của Việt Nam. Mình ở cái thế không
chiến đấu không được Huân ạ. Em nhớ không, sau đệ nhị thế chiến,
quân Nhật đầu hàng, thì Pháp lại tìm cách trở lại với dã tâm
thiết lập lần nữa chính sách thực dân đô hộ. Ðiều này làm dân
mình bắt buộc phải tranh đấu chống xâm lăng. Cô đơn chiến đấu lâm
vào thế phải tìm đồng minh để chống xâm lược của Pháp.
Tôi nghĩ là anh Chính có ý bào chữa,
biện hộ cho việc kháng chiến phải chọn con đường đi theo cộng
sản. Thấy không nên đi sâu vào việc nói chuyện chính trị với anh
Chính, tôi tìm câu trả lời cho những thắc mắc riêng tư đã ám ảnh
tôi nhiều năm về anh Chính:
– Ða số chúng ta thời ấy đều được kích
thích lòng yêu nước. Gia đình của Toàn cũng như gia đình em, đã
một thời ra vùng kháng chiến, rồi về Hòa Cam, nơi anh gặp chị.
Hồi ấy, anh là thần tượng của tụi em, em và Toàn...
Tôi đang định nói tiếp thì Anh Chính
ngắt lời, cười hỏi:
– Bây giờ thì chắc anh hết là thần
tượng của mấy chú? Thần tượng long chân, sụp đổ rồi phải không?
Thấy anh vui, tôi cũng cười:
– Khi mỗi người ở mỗi bên chiến tuyến,
chúng em phải xét lại. Thần tượng cũng thay đổi theo thời gian và
không gian. Nhưng bây giờ anh có thể cho em biết tại sao hồi
trước đang học tú tài, anh lại cương quyết theo kháng chiến tới
cùng, khi trở về thành anh không học tiếp để thành giáo sư, kỹ
sư, luật sư... như nhiều thanh niên khác?
Anh Chính thổ lộ:
– Chuyện anh tích cực theo kháng chiến
kể thì dài lắm, nhưng anh tóm tắt cho Huân. Cha anh ngày trước
theo Nguyễn Thái Học, chống Pháp. Lúc nhà cách mạng này bị xử tử
hình cùng nhiều đồng chí, ba anh vì còn liên quan ít, nên chỉ bị
Pháp bắt giam vào hỏa lò Hà Nội. Mẹ anh trong một lần tìm cách
thăm cha anh, thì bị tên đội mật thám Tây bắt giữ luôn để điều
tra. Anh nghe nói nó xử rất tàn tệ với phụ nữ, nó có hãm hiếp bà,
quyền sanh sát trong tay nó thời bấy giờ. Cha anh sau đó bị đày
ra Côn Ðảo và chết tại Côn Ðảo, người có nhắn nhủ lại là anh nên
tham gia cách mạng và anh đã nghe lời. Vào thời anh lúc đó, chỉ
có Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội là có nhiều đoàn viên và
nhiều thực lực nhất. Anh theo Việt Minh và tình nguyện vào ngành
tình báo, an ninh, phản gián từ trước lúc Nhật đầu hàng đồng
minh.
Tôi nhân
dịp hỏi thêm để giải tỏa những thắc mắc khác còn vương lại từ hồi
nhỏ:
– Em nghe
Toàn nói là anh có vài liên hệ đến vụ ông Phán Thọ ba thằng Tuấn,
bạn của tụi em hồi trước di cư, và vụ Bác Huyện của chị. Anh có
thể cho em ít chi tiết về chuyện ngày xưa được không?
Tôi bỗng nhiên cảm thấy ngôn từ của
mình như trẻ lại. Tôi vẫn gọi tên người bạn cũ của tôi là thằng
Tuấn. Tôi nhớ lại khuôn mặt đau khổ của nó sau ngày ba nó chết,
“ba nó bị ám sát chết”. Chuyện này cứ ám ảnh tôi. Không biết
“thằng Tuấn” của tôi bây giờ ở đâu. Nó đang là một thày giáo hiền
hòa. Hay nó đang lo mánh lới buôn bán để kiếm sống. Có khi nó đã
chết vì B52 khi theo bộ đội vượt Trường Sơn vào xâm nhập Miền Nam
từ nhiều năm trước... Tôi đang suy nghĩ thì nghe giọng anh Chính
thong thả:
–
Anh lớn tuổi rồi, cũng chia sẻ phần nào những chuyện trước kia
cho mấy em. Anh nghĩ cũng chẳng hại gì, khi nói những chuyện nhỏ
của năm chục năm về trước. Huân nên biết là trong ngành tình báo,
phản gián, luôn luôn phải ra tay trước, hoặc là trốn chạy. Lúc đó
đảng bộ nội thành Hải Phòng, cho anh làm quản lý một nhà in chỉ
để làm bình phong, che giấu những hoạt động của anh. Nhà in cũng
là chỗ để tụi anh in truyền đơn nữa. Khi Phán Thọ đã gỡ mối, tìm
giây sắp lần ra tung tích, hoạt động của anh, anh phải gấp rút
chỉ thị thuộc cấp, ban ám sát, xử tử hình ông ta. Nếu anh không
thanh toán ông ta, anh sẽ phải ngưng hoạt động, trốn sớm ra vùng
kháng chiến, hoặc là sẽ bị bắt, bị tra tấn, bị cầm tù, ra Côn Ðảo
như cha anh ngày trước.
Tôi nghe thì biết vậy, nhưng hơi rùng
mình. Chúng tôi chỉ biết anh Chính hoạt động từ vùng kháng chiến
rồi vào thành, nhưng thực sự ngày ấy không biết là anh ở trong
ngành điệp báo. Hồi nhỏ, tôi cứ nghĩ là sau khi vào thành, làm
quản lý nhà in, lập gia đình, với cuộc sống đầy đủ hẳn anh đã
“giã từ vũ khí”. Nhưng tôi ngạc nhiên, và ấm ức trong lòng về
việc xử tử “ba thằng Tuấn”, cha một bạn thân của tôi, đối với anh
Chính chỉ là chuyện nhỏ. Tôi hỏi tiếp:
– Còn vụ Bác Huyện, người anh họ xa của
mẹ chị Dung.
Anh Chính hơi trầm ngâm, suy nghĩ rồi trả lời với một giọng buồn:
– Ngay sau khi Pháp nhảy dù Vân Ðình,
Liên Khu Ba trù liệu là Pháp sẽ đánh lớn vì họ tung ra rất nhiều
vụ tảo thanh, nhiều mặt trận. Lệnh từ trung ương là khi chạy
giặc, nếu không áp tải được Việt gian trong lúc khẩn trương thì
có thể hy sinh họ, tránh bị họ phản lại hay trốn chạy nhân khi ta
bị tấn công, phải cố tránh vướng bận vì họ mà lực lượng mình bị
tổn thất, không rút lui an toàn được. Lúc đó anh được báo cáo là
Bác Huyện của Chị, được các bạn bè trí thức thân Pháp, móc nối để
vào thành làm việc cho chánh quyền mới thành lập của Bảo Ðại.
Kháng chiến bên này biết bác Huyện là người giỏi, không muốn bác
sẽ làm thêm vây cánh cho bên chính phủ theo Pháp. Bác Huyện trên
đường tìm cách vào thành thì bị bắt. Thực ra bác Huyện chưa phạm
một tội gì. Chỉ vì Pháp nhảy dù Vân Ðình, bác đã chết oan tại
Chùa Rồng.
Trong lòng tôi còn chút thắc mắc, muốn hỏi thêm có phải khi chiến
sự gần kề anh Chính ra lệnh cho hy sinh nhóm người được gọi là
Việt gian ngày trước không. Nhưng thôi, biết thế đủ rồi, tôi tự
nhủ. Vấn đề khá tế nhị. Câu hỏi có thể làm bối rối cho anh Chính.
Có hỏi, chưa chắc anh đã trả lời. Và nếu anh trả lời, chưa chắc
đã trung thực. Tôi cường điệu nghĩ rằng thần tượng của ai cũng có
lúc không trung thực. Thần tượng không thể nào là thần thánh.
Nhất là thần tượng tuổi thơ của tôi bây giờ hình như đã mất chân,
nếu nói về chủ thuyết mà anh hằng theo đuổi để mong tìm hạnh phúc
cho con người và độc lập cho xứ sở.
Mười giờ tối, tôi từ biệt anh chị
Chính, dùng chiếc xe Taxi đã bao thuê trở về Hà Nội. Công việc sở
giao cho đã xong, sáng hôm sau tôi ra phi trường Nội Bài, trở về
nước tôi đang cư ngụ. Rời Việt Nam, tôi vẫn nhớ câu nói của anh
Chính lúc chia tay:
“Ðất nước mình đã hết chiến tranh, về
thăm quê hương, Huân cứ vô tư thoải mái”.
Thoải mái là một trạng thái thư dãn của
tâm hồn, không căng thẳng của cơ thân, và khoan thai của hành
động. Tôi có thể tìm được bằng cách cố sống ung dung tự tại,
tránh những phiền nhiễu, những va chạm hay những đối đầu mỗi khi
không cần thiết. Nhưng vô tư thì khó quá. Làm sao tôi quên được
những kỷ niệm buồn vui của tuổi thơ, những tang thương của một
thời chinh chiến, những mất còn của bao người thân sơ. Chuyến bay
dài. Cô gái Việt trẻ tuổi ngồi bên, có mái tóc mây đẹp như tóc
Chị Dung thuở nào, đã khép đôi hàng mi dài muốn ngủ. Tôi cũng cố
chợp mắt mà ngủ không được. Tâm trí tôi còn vương bận tới hình
ảnh Chùa Rồng ngày xưa, và bên tai còn như lảng vảng lời nói của
anh Chính về một chuyện theo anh cũng nhỏ thôi: “Bác Huyện chưa
phạm một tội gì, bác đã chết oan tại Chùa Rồng”.
Trần Văn Khang
Nguồn:
blog người phương nam
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by kb chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, August 4,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang