Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
chuyện tình 30T4Đ
Tác giả:
Lê Đức Luận
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Ngồi trên bãi biển
Nha Trang khi thủy triều xuống cuốn nước xa bờ để lại vạt cát
dài
màu trắng mịn, và lúc nắng chiều chiếu xiên trên mặt biển gợn
sóng lăn tăn, trông như dải lụa dát vàng lung linh đến tận các
hải đảo xa mờ mây nước, khách nhàn du sẽ mê mẩn với sắc màu kỳ
diệu của buổi chiều tà mà quên hết cảnh huyên náo chung quanh.
Mùa hè năm rồi, Ông bà Frank đã chọn
phố biển Nha Trang làm nơi nghỉ dưỡng. Bà Frank chọn Nha Trang là
do tình cờ đọc được quảng cáo về các “Tour Du Lịch Sinh Thái” ở
Việt Nam, còn ông Frank chọn Nha Trang là vì ông muốn tìm lại
những kỷ niệm của mối tình đầu dang dở gần năm mươi năm về trước.
Năm 1972, Ông Frank sang Việt Nam, làm
việc trong Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Nơi đây ông
gặp một người con gái trong đêm dạ vũ. Nàng có vẻ đẹp liêu trai
với làn tóc mượt mà, óng ả xõa ngang vai làm ông say đắm. Nhưng
không dễ chút nào, vì nàng con nhà lễ giáo, cha nàng là một sĩ
quan cao cấp của trung tâm và rất nghiêm khắc. Vậy mà, tiếng sét
ái tình đã đem đến cho họ một mối tình lãng mạn, thăng hoa và
trong sáng.
Gần một năm đằm thắm trôi qua, đợi một lễ cưới trang trọng theo ý
muốn của cha nàng. Nhưng cuối năm 1974, tình hình chính trị ở
Việt Nam biến chuyển, ông Frank được lịnh rời khỏi Việt Nam gấp
rút. Họ đành chia tay trong nỗi ngậm ngùi.
Trước đêm chia tay, họ trao cho nhau
tất cả ân tình... và hẹn ngày tái ngộ. Không ngờ một lần ân ái,
Frank đã để lại giọt máu của mình trong thân thể người đàn bà.
Rồi biến cố ngày 30/4/1975 đã cắt đứt
mọi mối dây liên lạc. Từ đó hai mảnh đời son trẻ rẽ ra hai hướng.
Frank về Mỹ, mấy năm đầu sống trong sự nhớ thương ray rứt...
chàng tìm đủ mọi cách để trở lại Việt Nam tìm người yêu, nhưng
không được vì lúc đó Mỹ đang cấm vận Việt Nam. Thất vọng, chán
chường! Ba năm sau Frank lập gia đình với người bạn gái, học cùng
trường thời High School. Còn nàng thì rời khỏi Nha Trang, lên
Buôn Mê Thuột, sau khi nhà cửa ở Nha Trang bị tịch thu và người
cha bị đưa vào trại cải tạo.
Chiều nay, trên bãi biển Nha Trang, ông
Frank nhớ đến mối tình đầu trên miền duyên hải thơ mộng này, ông
kể cho vợ nghe. Bà Frank là người dễ tính, bà nhớ lại hồi còn học
chung trường ở High School, Frank rất đẹp trai, những đứa bạn của
bà theo tán tỉnh Frank, nhưng Frank không có tính trăng hoa và từ
khi lấy bà, Frank là người chồng tử tế, chí thú làm ăn, lo cho vợ
con, không “mèo chuột” linh tinh. Bà hiểu đàn ông, mấy ai không
có những “mối tình gác trọ” nên bà rất thích nghe chuyện tình
hiếm hoi của chồng.
Frank đang kể đến chỗ bi thương, thì
một con bé khoảng ba tuổi, rời tay mẹ nó, chạy lẫm chẫm đến chỗ
hai ông bà đang ngồi, trao cho bà chiếc vỏ sò. Một chút ngỡ
ngàng, nhưng bà hiểu ra, con bé muốn tặng cho bà.
Ôi! Nó đẹp như thiên thần.
Bà ôm nó vào lòng, nó tỏ ra sung sướng
lắm. Ông Frank nhìn nó cười, rồi vẫy tay chào Hello! Nó lại chạy
qua ôm chân ông Frank, rất thân thiện. Mẹ nó cười buồn nhìn con
thầm nhủ: “Sao tự nhiên nó lại thân thiện với ông bà già Mỹ này
như vậy nhỉ?”
Chiều hôm sau, con bé đòi ra biển sớm để chơi với ông bà già
người Mỹ, mẹ nó chần chừ. Nó khóc! Thế là phải dẫn nó ra biển.
Chiều hôm ấy, biển vắng! Ông bà Frank
nằm trên ghế dài ngó mông ra biển. Con bé gỡ tay mẹ, lẫm chẫm
chạy tới phía sau ông bà lay nhẹ. Ông bà rất vui khi gặp lại. Bà
Frank quay sang ôm nó vào lòng. Bà lấy thỏi kẹo chocolate cho nó.
Con bé cầm thỏi kẹo săm soi, bỗng nói: Thank you! Ôi! Sao mà dễ
thương quá! Bà Frank âu yếm vuốt ve, hôn lên mái tóc nó. Người mẹ
ngạc nhiên, tại sao nó nói được tiếng Anh? Có lẽ nó bắt chước
những người lớn trong khu nghỉ dưỡng.
Hôm nay, người mẹ đứa bé ngồi lại với
ông bà già Mỹ khá lâu. Nàng im lặng vì không nói được tiếng Anh,
nhưng trong ánh mắt và cử chỉ cho thấy nàng muốn thổ lộ tất cả
tâm tình. Ông Frank có dịp nhìn kỹ người con gái ấy, trông hao
hao giống người yêu của ông mấy mươi năm trước, cũng mái tóc thề
tỏa xuống ngang vai, đôi mắt bồ câu đen láy biểu lộ nét thông
minh, nhưng nước da trắng bệch, thân hình gầy guộc trông rất
thương tâm.
Họ
ngồi bên nhau cho đến khi hoàng hôn buông xuống, ông Frank cõng
con bé trên lưng, rời bãi biển. Khi đến đường Trần Phú (Duy Tân
cũ) ông Frank trao con bé cho mẹ nó. Họ chia tay về khách sạn,
hẹn gặp lại chiều mai trên bãi biển.
Chiều hôm sau, mẹ con nàng ra biển
muộn. Ông bà Frank có ý mong chờ. Khi nắng chiều sắp tắt, mẹ con
nàng đến đứng sau hai chiếc ghế, nàng khẽ để chiếc túi nhỏ bên
cạnh ông Frank, con bé chạy vòng tới trước nũng nịu ngả vào lòng
bà Frank. Ông bà Frank nói huyên thuyên, nàng không hiểu hết,
nhưng đoán biết họ đang vui. Rồi nàng vừa bập bẹ vừa ra dấu cho
ông bà Frank hiểu rằng: Nàng muốn gởi con bé cho ông bà trông hộ,
nàng trở lại khu nghỉ dưỡng. Ông bà Frank hiểu ý, gật đầu, OK.
Tiếng OK làm nàng tin tưởng. Nàng muốn
đến trước mặt quỳ lạy hai con người nhân hậu này để gởi gắm đứa
con bé bỏng, nhưng nàng không đủ tiếng Anh để giãi bày tâm sự,
nàng sợ hai ông bà không hiểu hết nỗi bi thương mà từ chối thì sẽ
mất đi cơ hội để con nàng thoát cảnh bi thương sau khi nàng qua
đời. Nên nàng đánh liều để lại đứa con bé bỏng cho ông bà Mỹ,
lặng lẽ ra đi với nỗi lòng thương con dâng nghẹn...
Nàng biết từ đây sẽ không còn gặp lại
đứa con thơ bé bỏng, nước mắt cứ tuôn ra! Nàng không muốn hai ông
bà người Mỹ và đứa con thân yêu trông thấy những giọt nước mắt
đang nhỏ xuống. Nàng vội quay đi, bước về hướng bắc.
Bãi biển nơi đây vắng người, nàng bước
ra mép nước, nghe tiếng sóng vỗ rì rào, cảm thấy đời mình không
còn lối thoát. Nàng có ý định quyên sinh để không phải chịu đựng
những cơn đau khủng khiếp hành hạ mà không có tiền mua thuốc giảm
đau. Chỉ cần từ mép nước này đi mãi xa bờ, làn sóng sẽ cuốn thân
xác nàng vào lòng biển cả... nàng sẽ thoát cảnh khổ trần ai.
Nhưng khi nhìn lên tượng Chúa trên đồi
La San, nàng nghe như có tiếng thì thầm bên tai: “Đừng quên lời
răn thứ năm của Chúa: Hãy quý trọng thân xác và sự sống của mình
cũng như của người khác.” Là con chiên ngoan đạo, nàng bỏ ý định
quyên sinh, quay về khu nghỉ dưỡng, kéo chiếc va li ra khỏi
phòng, đi về hướng bến xe. Không ai biết nàng sẽ đi về đâu.
Từ lúc gởi đứa con cho ông bà già Mỹ
đến khi hoàng hôn buông xuống đã gần hai tiếng đồng hồ, nhưng
không thấy nàng trở lại, ông bà Frank hơi lo lắng. Đợi đến khi
phố xá lên đèn cũng vẫn chưa thấy bóng dáng nàng đâu, lúc này ông
bà Frank thực sự bối rối.
Ông Frank đi tìm viên chức coi an ninh
khu vực, trình bày sự việc. Viên công an bảo ông Frank đem đứa bé
giao cho Phường, rồi họ sẽ xúc tiến công việc đi tìm người mẹ.
Ông bà Frank xin được chăm sóc đứa bé đêm nay, để chờ kết quả tìm
kiếm mẹ nó như thế nào. Viên công an đồng ý. Ông Frank xin viên
công an viết cho giấy chứng nhận để tránh trường hợp vu cáo “bắt
cóc trẻ con.” Hắn lấy giấy nguệch ngoạc mấy chữ, đưa cho ông
Frank. Về lại khách sạn, con bé khóc tìm mẹ. Bà Frank vỗ về, cho
nó uống sữa, ăn bánh cookie, tắm rửa... rồi dỗ nó ngủ. Bấy giờ
ông Frank mới lấy túi nhỏ mà ban chiều người mẹ đứa bé để cạnh
bên ông ra xem. Trong đó có mấy bộ quần áo trẻ con, tã lót, bình
sữa và phong bánh kẹp, dưới cùng có hai phong bì.
Ông Frank mở ra đọc, lá thư thứ nhất
viết bằng Anh ngữ, lá thứ hai viết tiếng Việt. Ông đọc lá thư Anh
ngữ cho vợ nghe. Nội dung như sau:
“Kính thưa Ông Bà.
Trước tiên con xin Ông Bà rộng lòng tha
thứ cho con về việc gởi đứa con bé bỏng cho Ông Bà – ra đi mà
không nói rõ lý do.
Ông Bà ơi! Cho phép con giãi bày tâm
sự: Con bị ung thư phổi đến thời kỳ cuối, bác sĩ cho biết không
chữa trị được nữa và chỉ còn sống khoảng bốn, năm tháng nữa thôi.
Nghĩ đến những ngày sau khi con chết, người ta sẽ gởi đứa con bé
bỏng của con vào Viện Mồ Côi hay nó sẽ bơ vơ trên cõi đời oan
nghiệt, lòng con đau như xé... tim con thắt lại! Nên hằng đêm con
cầu xin Đức Mẹ soi sáng, dẫn đường cho con gặp được người nhân
hậu để gởi gắm đứa con bé bỏng, trước khi con rời cõi nhân gian.
Ông Bà ơi! Đức Mẹ đã nhận lời cầu xin
của con để buổi chiều hôm ấy, mẹ con con gặp được Ông Bà trên bãi
biển.
Con bé
Linh (tên của nó) rất sợ người lạ, ai thấy nó dễ thương muốn bồng
bế, nó khóc và ôm lấy mẹ. Thế mà chiều hôm ấy nó tự động gỡ tay
con, chạy đến tặng cho Bà chiếc vỏ sò nó nhặt được trên bãi biển
mấy hôm trước và cất giữ như món đồ chơi quí giá.
Linh tính báo cho con biết: Chúa và Đức
Mẹ đã tìm được cho con nơi gởi gắm đứa con thơ bé bỏng.
Ông Bà ơi, xin thông cảm cho con, con
không đủ tiếng Anh để giãi bày hoàn cảnh bi đát và nỗi thương
tâm... Nên đêm qua con ngồi viết lá thư này và nhờ người dịch ra
tiếng Anh để Ông Bà đọc, với hy vọng đứa con bé bỏng của con sẽ
được lớn lên trong vòng tay yêu thương và nhân hậu của Ông Bà.”
Đọc xong thư này, Ông Bà lật dưới đáy
túi xách để xem tấm hình và sợi dây chuyền vàng là chứng tích của
hai cuộc tình bi thảm của bà ngoại và của con. Con phải giấu kín
vì sợ công an bắt gặp tấm hình, họ sẽ kết tội con làm gián điệp;
còn sợi dây chuyền sợ bọn bất lương đánh cắp.
Ông Frank gỡ cặp kính lão lau nước mắt,
lật đáy túi xách lấy ra phong thư, trong đó có tấm ảnh đã phai
màu và một sợi dây chuyền vàng gắn tấm “lắc” hai chữ NL.
Cầm tấm hình lên xem, ông Frank ôm đầu,
nấc lên rồi bật khóc! Trời ơi! Đó là tấm hình chụp ông với Loan,
người tình đầu trên bãi biển Nha Trang mấy mươi năm trước.
Bà Frank ôm vai chồng, ôn tồn nói:
– Đây là thánh ý Chúa! Frank bình tĩnh
lại, đưa lá thư tôi đọc tiếp xem nào. Bà đọc tiếp lá thư cho
chồng nghe:
“Ông Bà ơi! Sau đây là những lời bà ngoại nói với mẹ con, rồi mẹ
con kể lại con nghe và con nhớ mãi đến bây giờ: ‘Tháng 3/1975,
Việt cộng chiếm Nha Trang. Họ đuổi gia đình bà ngoại ra khỏi khu
villa xinh đẹp. Ông cố của con bị bắt và chết trong tù. Bà cố dẫn
bà ngoại về đồn điền cà phê của gia đình ở Buôn Mê Thuột, trong
lúc bà ngoại đang mang bầu được bảy tháng. Bà ngoại sinh mẹ con
vào tháng 7 năm 1975. Ba tháng sau đồn điền bị tịch thu. Bà ngoại
làm lao công trong đồn điền cà phê của mình. Bà ngoại và mẹ con
sống trong cơ cực, thiếu thốn. Đến năm 1987, chính phủ Mỹ cho
phép con lai Mỹ được định cư ở quê cha. Lúc đó bà ngoại phải nuôi
dưỡng bà cố già yếu, nên không đi Mỹ. Có người đến đề nghị mua mẹ
con để họ lập sơ giả đi Mỹ, nhưng bà ngoại nhất định không bán và
mẹ con cũng nhất định không rời bà ngoại. Thời gian trôi qua, mẹ
con lớn lên lai Mỹ rất đẹp. Năm 25 tuổi, mẹ con lấy chồng, một
người chồng hiền lành, tốt bụng, cùng làm việc trong đồn điền.
Con được sinh ra tháng 9 năm 2001 ở trong khu đồn điền này.
Khi con lên hai thì bà ngoại con qua
đời. Trước lúc lâm chung bà ngoại đưa cho mẹ con tấm ảnh và căn
dặn giữ kỹ tấm ảnh này để có ngày tìm được người cha rất tốt
bụng... nhưng vì hoàn cảnh phải chia ly.’
Cha mẹ con làm cu li trong đồn điền, cơ
cực quá nên bỏ Buôn Mê Thuột xuống Nha Trang làm nghề khai thác
tổ yến trên các hải đảo ngoài khơi biển Nha Trang. Bất hạnh thay,
trong một đêm mưa to, gió lớn, thuyền của cha mẹ con bị chìm. Cha
mẹ con chết mất xác. Lúc đó con lên chín tuổi, nhưng thân hình
nhỏ như đứa bé lên sáu.
Trong cảnh mồ côi cha mẹ, một ông già
mù lòa, không có vợ con, nhận con làm con nuôi. Con theo ông về
túp lều vải gần ga xe lửa. Con chỉ mang theo một cái xách tay của
cha mẹ con để lại, trong đó có mấy bộ quần áo của con và một hộp
nhỏ đựng ít tiền và tấm ảnh này. Từ khi làm con nuôi ông già mù
loà, ông rất thương yêu con. Ngày ngày ông cháu dẫn nhau đi hát
dạo trên bãi biển, trong công viên kiếm sống... Ông có giọng ca
rất truyền cảm. Ông dạy con nhạc lý và tập luyện giọng. Chỉ một
thời gian ngắn, ông cháu song ca rất mùi. Khách qua đường cho khá
nhiều tiền. Nhưng bốn năm sau, ông già qua đời, con lại bơ vơ.
Lúc đó con ở tuổi mười ba.
Một bà chủ nhà hàng thương tình, cho
con vào rửa chén và làm những việc lặt vặt... được bao ăn, ở.
Trong thời gian làm việc ở nhà hàng, con được ăn uống đầy đủ, nên
trổ mã cao lớn rất nhanh.
Một hôm, tình cờ thấy trên TV thông báo
tuyển lựa tài năng mới. Con đánh liều, trốn bà chủ đi thi thử.
Không ngờ được chấm hạng nhất. Từ đây đời con bước vào ngã rẽ
mới. Nhiều nơi gọi con đi hát, được trả ‘cát sê’ rất cao và con
trở thành ca sĩ nổi tiếng, kiếm rất nhiều tiền.
Nhưng đường tình duyên của con không
được may mắn. Năm mười chín tuổi, con gặp một anh Việt kiều,
trong một đêm ca nhạc; trông anh ta rất hiền lành, lịch sự, đẹp
trai ngỏ lời yêu thương và muốn cưới con đem về Mỹ. Lúc đầu con
sợ lòng người dối trá, nhưng sự theo đuổi say đắm của anh ta làm
con ngã lòng và sự khờ khạo của tuổi trẻ, con đã cho anh tất cả.
Khi hay tin con có bầu, anh ta về Mỹ hứa sẽ trở lại làm đám cưới
và bảo lãnh con sang Mỹ, nhưng rồi biệt tăm. Không hiểu anh ta
phụ tình hay gặp tai nạn (?) Con vô cùng đau khổ và sinh bé Linh
trong cô đơn.
Khi bé Linh gần ba tuổi, thì con bị bịnh ung thư phổi vào thời kỳ
cuối. Bao nhiêu tiền kiếm được trước đây, đổ vào bệnh viện, nhưng
không qua khỏi căn bịnh ung thư. Đời con sao mà lắm nỗi thê
lương!?
Ông Bà
ơi! Xin rộng lòng thương xót mà bảo bọc đứa con bé bỏng của con.
Khi nó lớn lên, Ông Bà đưa cho nó sợi dây chuyền mà cha nó tặng
cho con và giải thích về tấm ‘lắc’: N là viết tắt chữ Ngọc, tên
của cha nó và L là viết tắt chữ Liên, tên của con. Đây là chứng
tích một cuộc tình... may ra nó sẽ tìm được người cha đang sống ở
CA.
Thư đã
dài, con xin chấm dứt ở đây. Khi về bên kia thế giới con sẽ dõi
theo và phù hộ Ông Bà cùng đứa con thân yêu của con.
Xin đội ơn... Vĩnh biệt Ông Bà!
Liên.”
Ông Frank chống tay lên cằm, nước mắt
ứa ra theo từng lời đọc của vợ và bà Frank cũng đầm đìa nước mắt,
nói với chồng:
– Đây là sự an bài của
Thượng đế. Bằng mọi cách phải đưa con bé Linh theo mình về Mỹ ông
ạ.
Ngày hôm
sau, ông bà Frank liên lạc với Toà Đại Sứ Mỹ, trưng dẫn những
bằng chứng và tiến hành mọi thủ tục. Cuối mùa hè năm ấy, ông bà
Frank dẫn bé Linh theo ông bà về Mỹ và nhờ Tòa Đại Sứ tìm giúp
người mẹ của bé Linh. Ông bà Frank cũng cố gắng tìm người cha của
bé Linh, nhưng chưa có kết quả.
Bốn tháng sau, ông bà nhận được thư báo
tin từ Toà Đại Sứ Mỹ, ở Hà Nội: “Bà Nguyễn Thị Ngọc Liên đã yên
nghỉ nghìn thu bên ngôi mộ của bà ngoại Hoàng Bích Loan.” Kèm
theo lá thư là tấm hình chụp hai ngôi mộ nằm song song duới chân
đồi một đồn điền cà phê thơ mộng.
Lê Đức Luận
(Tháng 3/2024)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by viet nam truong chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, April 28,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang