Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
lính
Tác giả:
Trường sơn Lê Xuân Nhị
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Tác giả: Thân tặng các anh em Lôi Hổ và
Lực Lượng Đặc Biệt...
Câu chuyện ngắn sau đây, tuy dựa
trên những sự kiện của lịch sử, nhưng, ngoài Thiếu tướng Phạm Văn
Phú, tất cả các nhân vật khác và chi tiết khác đều là một sản
phẩm của tưởng tượng. Nếu có một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào, đó
là hoàn toàn ngoài ý muốn của tác giả.
Trân trọng
Trường sơn Lê Xuân Nhị
*****
Thiếu tướng
Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu II rút điếu thuốc
lá ba con năm ra khỏi cặp môi đen sạm, phà khói vào tấm bản đồ
trước mặt. Như thường lệ, mỗi khi có gì cần phải suy nghĩ, mặt
ông Tướng Phú nhăn lại một cách thảm hại...
Trước mặt ông ta là tấm bản đồ tình báo
tối mật với những tin tức mới nhất của Phòng 2 Quân Đoàn vừa
trình lên cho ông, chi chít những hình vuông, tròn, tam giác, và
những mũi tên dấu xanh dấu đỏ vẽ bằng bút chì mỡ. Màu Xanh là
biểu hiệu của phe mình, còn màu Đỏ là Việt cộng. Đứng bên phải
ông là ông là Đại tá Vân, Tham mưu trưởng Quân Đoàn II. Bên trái
ông là Đại tá Phùng, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn III Xung Kích
Lực Lượng Đặc Biệt. Bên cạnh ông Đại tá Phùng là Trung tá Khiếu,
trưởng Phòng 2 của Quân Đoàn, “tác giả” của tấm bản đồ bí mật.
Tất cả các
cặp mắt đều đổ dồn vào cái hai đường gạch đỏ kẻ bằng bút chì mỡ
rất đậm nét bắt đầu từ một mép ngoài bản đồ, phía bên kia của
biên giới Việt Nam, trong khu cao nguyên Boleven của đất Lào.
Xuất phát từ đây, một con đường bút mỡ đỏ bò ngoằn ngoèo, chạy
xuống phía Bắc của Daksut rồi tẻ ra làm 2 nhánh. Một nhánh đi
xuống phía Bắc của Dakto, còn nhánh kia rẽ phải một chút, bò qua
Thanh An, Thuần Mẫn, và chấm dứt ở Băng Đôn, một quận lỵ nằm ở
phía Bắc thành phố Ban Mê Thuột khoảng 50 cây số đường chim bay.
Con đường bút
đỏ thứ hai chạy xuôi về phía Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh ở bên
kia biên giới rồi bất ngờ rẽ vào mật khu Bù Gia Mập. Tại đây con
đường tẽ ra làm hai, một đi ngược lên phía bắc, xuyên qua quận lỵ
Đức Lập rồi tiến về phía Nam Ban Mê Thuột, đường kia đi xa hơn
lên phía Đông Bắc, xuyên qua Quảng Nhiêu và ngừng lại ở phía Tây
Ban Mê Thuột.
Ở cuối con đường thứ nhất, có 1 hình
vuông có “nhốt” một ngôi sao, dấu hiệu của sư đoàn bộ binh và con
số 968. Ở cuối con đường thứ hai thì có tới 3 hình vuông nhốt 3
ngôi sao với những con số 316, 10, và 3...
Tướng Phú có vẻ không khoái những cái
ngôi sao này nên mặt ông nhăn lại một cách khổ sở. Thỉnh thoảng,
ông ho lên sù sụ. 4 người đứng yên, nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ
một lúc, không ai nói với ai một lời nào. Cuối cùng, Tướng Phú
cầm cây gậy chỉ huy gõ nhẹ nhẹ vào cái con đường chỉ đỏ thứ hai
trên tấm bản đồ:
– Pourquoi? Ban Mê Thuột... Ban Mê
Thuột... Merde... Có lẽ nào chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột? Tôi
biết tụi nó đang chuẩn bị tấn công mùa khô nhưng tại sao lại đánh
Ban Mê Thuột? Qu'est ce que la raison... Merde...
Tướng Phú ít khi chửi thề, trừ những
khi gặp những vấn đề gì quá rắc rối. Và ông không chửi tiếng Việt
mà bằng tiếng Pháp. Tiếng “Merde” là ngôn ngữ nặng nhất của ông
tướng.
Đại tá
Phùng và Trung tá Khiếu liếc nhìn nhau trao đổi một cái nhìn bí
mật. Trung tá Khiếu tính nói gì đó nhưng Tướng Phú đưa tay ngăn
lại, rồi Tướng Phú lại... nhăn mặt nói tiếp:
– Merde, không khéo là mình bị lừa. Tôi
nghi là chúng nó muốn làm cho mình rối lên thôi... Chúng nó chỉ
muốn kéo quân về đó để làm nghi binh. Coi chừng Ban Mê Thuột chỉ
là diện, còn Pleiku mới thực là điểm. Dĩ nhiên Ban Mê Thuột dễ
đánh hơn, nhưng, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì? Chỉ
toàn cà phê không thôi chứ có mẹ gì... Merde...
Không có ai có thể trả lời nổi câu hỏi
của Tướng Phú. Phải, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì?
Tướng Phú xoay người ngồi xuống chiếc
ghế tư lệnh rất đồ sộ bằng da cọp. Chiếc ghế đó là món quà tặng
đặc biệt của ông Tư Lệnh Sư Đoàn 23 năm rồi. Đám sĩ quan liền
đứng vây chung quanh bàn giấy ông. Ông dụi điếu thuốc, lý luận
tiếp:
– Tôi
nghĩ chúng nó chỉ đặt nghi binh để chia lực lượng của Quân Khu II
mình ra thôi. Cứ theo dõi những trận đánh mấy tháng gần đây, tôi
thấy chiến dịch mùa khô năm nay chúng nó sẽ đánh như thế này:
Trước hết, về phía Tây, chúng nó sẽ cắt Quốc lộ 19 để chặt con
đường tiếp viện duy nhất của mình với miền duyên hải và hải cảng
Qui Nhơn. Đồng thời ở đây, chúng nó sẽ làm mọi cách để làm tê
liệt Phi trường Phù Cát... Phía Bắc, Kon Tum sẽ bị đánh. Phía
Nam, chúng sẽ cắt Quốc lộ 14 nối liền với Ban Mê Thuột. Cũng có
thể, 1 vài quận lỵ nhỏ ở đây sẽ bị tấn công như Buôn Hô, Thuần
Mẫn, v.v. Nếu chúng nó thực hiện được chuyện này mà mình không
chia quân ra giữ thì Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ bị vây hãm. Còn nếu
mình chia quân để tăng cường Ban Mê Thuột thì bộ tư lệnh sẽ bị
tràn ngập trong vòng 1 đêm...
Nói đến đó đột nhiên Tướng Phú đưa mắt
nhìn ông Trung tá Khiếu, ngừng một chút rồi lại nói tiếp. Hình
như cái chữ Ban Mê Thuột cứ trở về ám ảnh lấy ông:
– Tuy nhiên, nếu chúng nó xuất kỳ bất ý
đánh Ban Mê Thuột, thì tôi thấy thành phố này khó mà đỡ nổi. Khó
lắm, trừ phi mình có tiếp viện. Nhưng, chuyện... Tận cùng, nếu
mất Ban Mê Thuột, mình còn có thể gởi quân xuống lấy lại được.
Còn để mất Pleiku là cả cái Quân Đoàn II này coi như mất. Anh
Khiếu này, lúc nãy anh tính nói gì?
– Trình Thiếu tướng, Phòng 2 chúng tôi
có thêm tin tức là 1 trung đoàn xe tăng và 1 trung đoàn cao xạ
nặng cũng đã xuất hiện ở khu Bù Gia Mập.
– Như vậy thì
chung quanh Ban Mê Thuột có tới 4 sư đoàn chính qui Bắc Việt, 1
trung đoàn cao xạ, và 1 trung đoàn xe tăng?
– Thưa Thiếu tướng, đúng vậy nhưng tôi
chưa vẽ trên bản đồ vì chưa kiểm chứng được.
– Đó là chưa nói tới 2 trung đoàn 95A
và 95B vẫn thường xuyên quấy nhiễu vùng Kontum?
– Thưa thiếu tướng đúng như vậy.
Tướng Phú xoay chiếc ghế tư lệnh, nhìn
vào tấm bản đồ nơi có cái ngón tay của ông Trung tá Khiếu đang
chỉ. Bố khỉ, ngón tay đó lại nằm ở phía bắc của Ban Mê Thuột nữa.
Tướng Phú chau mày, thò tay móc điếu thuốc lá, châm lửa, trán
nhăn lại...
Ông không nói ra nhưng Tướng Phú xưa nay có cái tật không tin...
người Việt Nam lắm, nhất là những tin tức tình báo. Tướng Phú là
một vị tướng thuộc vào hạng khá của QLVNCH, nhưng suốt quãng đời
quân ngũ của ông, ông chỉ làm việc với người Pháp và Mỹ. Xuất
thân là một sĩ quan Nhảy Dù Pháp, làm việc với Pháp, ông tập được
lối đánh giặc và suy luận theo lối Pháp. Sau Điện Biên Phủ, ông
Phú vào Nam. Quân đội VNCH bấy giờ được Mỹ tái huấn luyện và
trang bị nên trong các chức vụ đơn vị trưởng, chung quanh ông
luôn luôn có cố vấn Mỹ. Tất cả mọi chuyện, từ quân xa cho đến yểm
trợ cho đến tin tức tình báo, ông luôn luôn nhờ người Mỹ lo liệu.
Đến khi ông về nắm Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt thì cái bịnh “tin
Mỹ” của ông lại càng trở nên nặng vì đơn vị này do Mỹ thành lập
và yểm trợ 100%. Khi ông ra nắm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, bệnh
này vẫn không thuyên giảm vì nếu không có sự yểm trợ ồ ạt và táo
bạo của không quân Mỹ thì cái Sư Đoàn ở vùng địa đầu giới tuyến
này chắc đã bị tràn ngập nhiều lần rồi. Bây giờ, không còn tin
tức tình báo của Mỹ, là một vị tư lệnh Quân Đoàn, Tướng Phú cảm
thấy trách nhiệm của mình nặng nề và khó khăn vô cùng.
Nhìn ông Trung tá Khiếu, Tướng Phú phải
công nhận rằng đây là một sĩ quan trẻ, rất có tài và làm việc rất
tận tâm nhưng ông vẫn cho rằng khả năng và kiến thức của một ông
Trung tá trưởng Phòng 2 của Quân Đoàn vẫn chưa đủ để phán đoán
hay nhận xét về những cuộc điều binh cấp Sư Đoàn hay Quân Đoàn.
Chỉ có ông. Phải, chỉ có ông hoặc là những sĩ quan cấp tướng như
ông mới đủ khả năng để lượng định.
Tướng Phú nhìn quanh một lượt rồi hỏi
trống không:
–
Bon, các anh em ở đây, có ai có ý kiến gì không? Đừng quên một
chuyện là chúng nó cũng có thể đánh Quảng Đức. Về chiến lược,
Quảng Đức càng dễ đánh hơn nữa vì ở gần Phước Long hơn, gần Quân
Đoàn III, gần Sài Gòn hơn.
Không có tiếng trả lời... Ngay lúc đó,
như một kẻ nhô ra từ trong bóng tối, ông đại úy sĩ quan tùy viên
xuất hiện bên cạnh Tướng Phú như muốn làm dấu nhắc nhở một điều
gì đó. Tướng Phú hiểu ý, nhìn đồng hồ tay rồi dụi tắt điếu thuốc,
đưa mắt làm dấu cho người sĩ quan tùy viên chuẩn bị cái cặp táp
rồi nói:
– Cám
ơn các anh em đến tham dự buổi giải trình hàng tuần của Phòng 2.
Không ngờ hôm nay lại có chuyện quan trọng như vậy...
Nghe vậy thì tất cả các ông sĩ quan cấp
tá trong phòng liền đứng thành một hàng ngang trước mặt Tướng Phú
để chờ lệnh. Tướng Phú nhìn quanh một lượt. Người đầu tiên được
ông Tướng Phú để ý tới là Trung tá Khiếu. Ông nhìn Trung tá Khiếu
nói:
– Cám ơn
anh Khiếu đã cho tôi những tin tức vô cùng quý giá. Anh tiếp tục
theo dõi, bám sát, ghi nhận, và nếu có thêm tin tức gì thì anh
cho tôi biết liền. Surtout, anh đưa báo cáo và bản giải trình của
anh cho phòng truyền tin để họ chuyển sang mật mã gởi về Tổng
Tham Mưu và dinh Độc Lập gấp cho tôi nội trong ngày hôm nay.
– Nhận rõ, thưa Thiếu tướng.
– Bon. Anh Vân, anh đánh công điện mời
tất các Tiểu khu trưởng của Quân Đoàn II về họp tại Nha Trang
trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Riêng 2 ông Tiểu khu trưởng của Ban
Mê Thuột và Quảng Đức, tôi muốn họ mang theo đầy đủ kế hoạch
phòng thủ của tiểu khu họ. Tôi muốn tất cả các Tiểu khu trưởng
phải có mặt trong buổi họp này.
– Trình thiếu tướng tôi nhận rõ.
Tướng Phú ngừng một chút. Người cuối
cùng chưa nhận được lệnh lạc gì cả là Đại tá Phùng, Chỉ huy
trưởng chiến đoàn III xung kích Lôi Hổ.
– Anh Phùng...
Ông Tướng Phú bỏ dở câu nói. Đại tá
Phùng đứng thế nghiêm.
– Tôi nghe phòng Quân Cảnh và người ta
than phiền mấy thằng lính của anh... ba gai, đánh lộn, phá quán
tùm lum... Anh về coi lại chúng nó. Tôi sẽ không tha thứ những
chuyện đó.
–
Trình thiếu tướng tôi sẽ thi hành theo chỉ thị.
Tướng Phú lắc đầu:
– Chưa hết đâu...
Ông ta đứng lên, từ từ tiến tới tấm bản
đồ ở phía sau lưng. Đại tá Phùng thấy tim mình đập nhanh hơn.
Tướng Phú đứng yên ngắm cái bản đồ một
lúc rồi đưa cây gậy chỉ huy chỉ vào 1 điểm phía bắc của quận
Dakto, nơi 1 nhánh của con đường đỏ chấm dứt ở đó:
– Tôi muốn anh cho con cái anh nhảy vào
đây cho tôi. Ít nhất là 2 toán. Tôi muốn tìm hiểu xem lực lượng
của chúng nó ở đó có bao nhiêu quân? Bao nhiêu tăng? Nhà cửa và
trang bị thế nào?
Đại tá Phùng ghi nhanh mấy cái tọa độ
vào sổ tay rồi nói:
– Thưa thiếu tướng tôi nhận rõ.
– Còn nữa, chưa đã hết đâu...
Cái cây gậy chỉ huy của Tướng Phú lại
chỉ xuống cái chỗ tẻ hai của con đường bút đỏ thứ hai, trong khu
Bùi Gia Mập. Ông gõ vào đấy mấy cái thật mạnh, giọng đanh lại:
– Đây là ổ tập trung quân an toàn nhất
của tụi nó, anh cho 2 toán nữa nhảy xuống đây cho tôi. Ngay chỗ
này này. Phải rán làm sao bắt được vài thằng lính, nếu sĩ quan
càng tốt, của chúng nó đem về đây cho tôi. Đó là 1 bằng chứng xác
đáng nhất về sự có mặt của chúng nó.
Đại tá Phùng gật đầu:
– Nhận rõ, thưa Thiếu tướng.
– Bon. Anh có 24 tiếng đồng hồ để chuẩn
bị. Trễ lắm là tối mai, tôi muốn con cái anh phải nhảy xuống và
có mặt ở vùng làm việc. Trong giai đoạn này, tôi chỉ muốn biết
quân số cùng trang bị của chúng nó như thế nào thôi. Nhớ lấy điểm
đó.
– Nhận rõ,
thưa Thiếu tướng.
Tướng Phú đội cái mũ lưỡi trai lên đầu,
đeo dây súng vào người:
– Trung tá Khiếu!
– Thưa Thiếu tướng tôi nghe.
– Anh làm việc chung với ông Đại tá
Phùng, phối kiểm các tin tức tình báo của anh và tin của Lôi Hổ
rồi làm cho tôi một tờ báo cáo. Đồng thời, làm việc đắc lực với
Không quân, cho chụp càng nhiều không ảnh càng tốt. Tôi muốn anh
chụp bất cứ cái gì mà anh có thể nghi ngờ. 3 ngày nữa, sau khi
tôi đi họp ở Nha Trang về, tôi sẽ đọc báo cáo kế tiếp của anh.
– Tôi nhận rõ.
– Đại tá Văn!
– Tôi nghe.
– Anh cho mời 2 ông tư lệnh Sư Đoàn,
các ông Trung đoàn trưởng, và Liên đoàn trưởng Biệt Động tối mai
về họp tại đây lúc 18:00g. Nhớ mời luôn ông Tướng Nhân Không Quân
và mấy ông Không đoàn trưởng qua luôn. Tôi có nhiều chuyện muốn
bàn.
– Tôi
nhận rõ.
Lúc
này thì Tướng Phú đã đứng ở cửa văn phòng mình. Ngoài sân, chiếc
UH1 có gắn bảng đỏ và hai ngôi sao bạc của Tướng Phú bắt đầu quay
máy. Hai người phi công đang bận rộn với mấy cái công tắc. Hai
cánh quạt dài khẳng khiu đang chậm chạp liếm từng luồng gió một
và từ từ tăng tốc độ...
– Ngoài ra có ai còn hỏi gì nữa không?
Không có tiếng trả lời.
– Bon, chào tất cả các anh.
– Tất cả... Nghiêm.
Đại tá tham mưu trưởng hô to và nghiêm
trang giơ tay lên chào theo đúng thủ tục của quân đội. Tướng Phú
gật đầu có vẻ hài lòng, giơ tay lên chào lại. Thì Đức Khổng Tử đã
chẳng bảo là khi người nước nào còn biết được giữ được lễ nghĩa
thì nước đó sẽ còn tồn tại được mà? Tướng Phú mỉm cười nhẹ nhàng
khi nghĩ đến đó. Ông bước từng bước một nhẹ nhàng ra khỏi phòng,
tiến về phía chiếc phi cơ...
Lúc cánh quạt chiếc trực thăng tăng tốc
độ để bốc máy bay lên, Tướng Phú nhìn qua đám cuồng phong của bụi
mù đất đỏ phía dưới con tàu và lại lẩm bẩm: “Ban Mê Thuột, Ban Mê
Thuột... đất Buồn Muôn Thuở, xứ Bụi Mịt Trời...” Ông lẩm bẩm như
vậy và mặt ông nhăn dúm lại một cách thảm hại...
*****
Tại Ban mê Thuột, trong căn gác nhỏ
nhưng sạch sẽ và tươm tất ở số 74B đường Lý Thường Kiệt, người
đàn ông mặc quần đùi nhà binh và áo thun trắng nằm nghiêng mình
trên chiếc giường nhỏ đọc say mê cuốn truyện. Trên đầu giường có
treo bộ đồ rằn ri, một cây súng lục, một con dao đi rừng. Chiếc
áo rằn ri có huy hiệu con cọp ở ngực và cặp lon đại úy màu đen
nơi cổ. Dưới giường là một đôi giày bốt đờ sô tuy cũ nhưng được
đánh bóng cẩn thận.
Bên cạnh giường, trên chiếc ghế làm
bằng gỗ thùng đạn, một người đàn bà xinh đẹp ngồi vòng tay trước
ngực tư lự nhìn ra ngoài. Hai người vừa làm tình với nhau xong.
Mặt người đàn bà vừa như giận dỗi và vừa như còn luyến tiếc hương
vị của cuộc ân ái vừa qua...
Một lúc sau, người đàn ông xoay người
hỏi:
– Em có
đói bụng không Diễm?
Diễm lắc đầu không nói gì.
– Em muốn đi ăn không?
Diễm cay đắng:
– Đi ăn với người đã có vợ, thiên hạ
cười chết.
Người đàn ông vất cuốn sách xuống giường, nhăn mặt có dáng mệt
mỏi và hơi khó chịu. Tuy vậy, giọng nói của anh ta rất dịu dàng:
– Em cứ đay nghiến anh mãi.
Rồi anh ta ngồi dậy, thò tay với lấy
gói thuốc Capstan trong túi áo, châm lửa mồi thuốc rồi uể oải
đứng lên.
Người đàn ông đã đứng sau lưng Diễm, vòng hai tay ôm lấy nàng.
Diễm tính hất tay anh chàng ta ra nhưng nghĩ sao lại để yên. Nàng
ngã người vào bộ ngực rắn chắc của người đàn ông, nói như qua hơi
thở:
– Em khổ
lắm anh Huân ơi, anh có biết không?
Huân gỡ điếu thuốc ra khỏi môi, hôn nhẹ
vào má nàng:
–
Anh hiểu. Anh xin lỗi em.
– Bây giờ anh tính sao đây?
Huân lắc đầu, bất lực:
– Anh ước muốn nếu mình có một quyền
năng gì đó...
Vừa nói đến đó, Diễm gỡ tay anh ra rồi bất ngờ tát đến bốp một
cái vào mặt Huân:
– Đồ đểu, đồ khốn nạn...
Rồi Diễm ôm mặt bật khóc. Huân đưa tay
lên xoa mặt, nhưng không hề biểu lộ một sự giận dữ.
– Anh cút đi, anh đừng động đến tôi.
Anh là đồ khốn nạn. Huân ngồi xuống giường trở lại. Mặt u buồn.
Đầu điếu thuốc lại lóe lên liên tiếp.
Bên ngoài, trời đã chạng vạng tối.
– Tại sao hôm đó anh lại tán tôi?
Huân cảm thấy tim mình đau nhói, không
trả lời nổi. Ừ thì mình bậy thật, ai bảo mình tán tỉnh nàng làm
chi để đến ra nông nỗi này? Nhưng mình là lính xa nhà, gặp con
gái đẹp mà không tán thì biết làm gì? Chẳng lẽ chỉ đứng xa mà
nhìn rồi tối về nhà thầm yêu trộm nhớ như hồi còn đi học ở trung
học?
Hai người
quen nhau cách đây gần năm. Hồi ấy Huân còn đeo lon trung úy, từ
Bộ Chỉ Huy ở Sài Gòn vừa được đổi lên Ban Mê Thuột. Buổi chiều
đầu tiên nhậu ở căn cứ say túy lúy. Buổi chiều thứ hai, chàng
phóng xe díp ra phố để mua vài thứ lặt vặt và cũng để rửa mắt,
coi thử thành phố Ban Mê Thuột tròn méo thế nào, dân tình ra sao.
Huân thấy thành phố dễ thương lắm. Và dân Ban Mê Thuột hình như
có một vẻ đẹp đặc biệt.
Trong một tiệm tạp hóa, chàng chỉ cây
bút máy Pilot trong tủ kính hỏi cô hàng trẻ tuổi đang ngồi mơ
màng, không biết đang mơ mộng hay suy nghĩ chuyện gì:
– Xin phép cô, nếu được, cô làm ơn cho
tôi xem cây viết pilot.
Đáng lẽ, Huân sẽ chẳng bao giờ thèm để
ý đến nàng nếu nàng không ngước mặt lên nhìn chàng, rồi nhìn bộ
đồ rằn ri như muốn hỏi tại sao một người mặt mũi lịch sự thanh
tao như vậy lại có thể mặc được bộ đồ rằn ri dữ tợn. Lúc ấy, Huân
mới để ý là cô nàng duyên dáng thật. Lại ăn bận lịch sự và đúng
mốt, hợp thời trang nữa. Bộ quần áo của nàng đang mặc Huân nhìn
thấy không nhiều ở đất cao nguyên này. Nhưng tất cả những cái đó
không bằng cặp mắt. Ánh mắt của nàng như muốn nói cho Huân biết
là nếu chàng chịu khó tán tỉnh, chàng sẽ chiếm đoạt được nàng.
Đời Huân, Huân đã gặp ít nhất vài ba người đàn bà như vậy.
Diễm mở cửa tủ kính, lấy cây viết đưa
cho Huân. Chàng cầm lấy, ngắm nghía rồi hỏi:
– Cô cho mượn lọ mực, tôi viết thử được
không?
Diễm
khoanh tay đứng nhìn Huân, ngần ngừ một lúc rồi xoay động đôi vai
nói:
– Đúng ra
thì lệ ở đây không cho khách thử viết nhưng với ông thì... đặc
biệt.
Huân
cười:
– Tiệm
này cũng có chương trình đặc biệt dành cho quân nhân chăng?
– Không! Tại vì tôi thấy ông lịch sự và
trang nhã.
Huân cười nhẹ:
– Riêng tôi, nói thật với cô hàng, tôi
mua bút cũng đã nhiều nhưng chưa bao giờ muốn thử cả. Cô có biết
vì sao tôi muốn thử cây bút này không?
Diễm cười lên khanh khách, hàm răng
thật trắng và đều đặn:
– Thôi đi, ông muốn nói tại vì tôi đẹp
phải không?
–
Cô lầm rồi. Tôi không có thói quen khen người khác phái là đẹp.
Tôi nghĩ một người đàn bà đẹp luôn luôn biết rằng mình đẹp, tất
cả những lời khen tặng đều là dư thừa cả.
Diễm mở nắp một bình mực, hút một tí
mực vào bút. Nàng đưa cây bút cho Huân và để ý, và nhìn thấy
những ngón tay dài đầy lông măng của chàng không có đeo nhẫn
cưới:
– Vậy
thì tại sao, ông lính?
– Tại vì hồi nãy tôi để ý thấy cô cứ
nhìn chằm chằm vào người tôi. Tôi biết cô có... cảm tình với tôi.
Diễm đỏ bừng mặt, cặp mắt “ngổ ngáo”
lúc nãy bây giờ chẳng dám nhìn thẳng vào mặt người khách. Ông
lính đẹp trai này quả là một nhà tâm lý tài tình, Diễm nói với
lòng mình như thế. Một lúc sau đó, nàng mới lấy lại được bình
tĩnh để nói:
–
Hay nhỉ, có cảm tình với ông. Sao mà ông lại tự tin lắm vậy?
Huân cười, vẫn nụ cười ngạo nghễ, nửa
như châm chọc, nửa như vuốt ve:
– Không phải tự tin mà là linh cảm.
Linh cảm của một người lính cô đơn và xa nhà.
– Ông vừa mở máy tán?
– Tại sao lại không nhỉ? Thật là bất
lịch sự và ngu xuẩn nếu đứng gần một người đẹp như cô mà không
chịu tán. Cô, à, cô gì nhỉ?
– Diễm.
– Diễm, hay quá. Tôi tên Huân.
Diễm không nói gì, vòng tay lại nhìn
Huân chờ đợi. Huân nhún vai, hỏi:
– Cô Diễm cho tôi xin miếng giấy.
– Ông tán gái hay lắm.
Huân lắc lắc cho cây bút xuống mực, cúi
người trên tủ kính rồi gạch vài gạch vào miếng giấy trắng. Rồi
chàng xuống hàng, ngón tay đầy nhựa thuốc lá nắn nót viết chữ...
“CAPSTAN” thật đều và thật đậm nét. Viết xong, Huân thẳng lưng
lên, nhìn ngắm chữ CAPSTAN mình vừa viết như một ông cụ đồ nho
ngắm câu đối tết vừa vẽ xong. Chàng xoay người đưa tờ giấy cho
Diễm coi, hóm hỉnh nói:
– Cô Diễm thấy chữ tôi viết có... đẹp
không?
Diễm
bật cười, gật đầu, bắt đầu cảm thấy thích anh chàng. Nàng chưa
gặp được một người nào tự nhiên và lại tự tin đến như vậy:
– Kể ra thì đẹp thật. Nhưng trên đời
này có thiếu gì chữ để viết, tại sao lại viết CAPSTAN là tên của
một loại thuốc lá?
– Cô Diễm cho thử một câu đi để tôi
viết.
Diễm
cười:
– “Anh
Là Lính Đa Tình,” được không?
Huân cũng cười, nhưng nhún vai:
– Đó là đầu đề của một bài hát, nhưng
nghe thấy ghê quá cô Diễm ạ.
– Vì sao thế?
– Vì lính là những người cô đơn nhất
trên trần gian này. Lính chẳng bao giờ có thể đa tình được cả.
– Đáng buồn thật, thế mà Diễm cứ tưởng
các anh lính đa tình lắm. Thế thì “Những Đồi Hoa Sim” được không?
– Nghe buồn quá.
– Thế “Xuân Này Con Không Về Mẹ Ơi” có
được không? Nghe có vẻ... “hiền lành hiếu thảo” vô cùng.
– Nghe ủy mỵ và yếu quá. Cô Diễm cho
câu khác đi.
Diễm suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu, nhún vai:
– Tôi chịu!
– Thế thì để tôi thử lại xem. Tôi vừa
nghĩ ra một câu.
Huân cười với ý nghĩ của mình. Chàng
nhích người đứng sát bên nàng, rồi cúi đầu xuống, cố ý để ống tay
áo rằn ri để cạnh tay áo màu xanh của Diễm. Diễm thấy hơi lạ
nhưng để yên, coi thử ông khách hàng “âm mưu” gì. Huân nắn nót
viết trên tờ giấy: “Chiếc Áo Phong Sương Tựa Áo Nàng”.
Huân lại đưa miếng giấy cho Diễm coi:
– CAPSTAN là ý nghĩa của câu này.
Diễm nhìn mảnh giấy rồi nhìn Huân và
cười thích thú, bảo:
– Hay quá nhỉ? Rất đúng hoàn cảnh mà
cũng hay nữa. Diễm không ngờ dân hút thuốc lá có nhiều thiên
tài... thi sĩ đến như vậy? Ông đã tựa bao nhiêu chiếc áo nàng
rồi?
Huân
không trả lời, đóng nắp cây bút lại, mắt vẫn không rời tờ giấy:
– Cô Diễm biết xuất xứ cái câu này như
thế nào không?
– Bắt chuyện hay lắm. Ông kể cho tôi
nghe đi.
–
Ngày xưa, có một ông Tây đi lính đánh trận sang Việt Nam...
Huân ngừng lại ở đó, đưa cây bút cho
Diễm:
– Cô
Diễm chọn cho tôi một màu khác đi, tôi không thích cái màu đỏ
này. Nó hung dữ quá, không hợp với những người... có tâm hồn thi
sĩ như tôi.
–
Nhưng ông chưa kể hết chuyện mà. Ông phải kể thì tôi mới chọn màu
hộ ông được.
–
Chuyện hay lắm, nhưng kể trong không khí này mất cái hay đi. Tối
nay, nếu Diễm có rảnh, mình gặp nhau ngoài công viên, tôi kể
tiếp cho Diễm nghe...
Ánh mắt Diễm thoáng lên một ngọn lửa
hoan lạc. Nàng mỉm cười sung sướng, đứng lặng một chút rồi nói:
– Dân nhà binh có khác. Đốt giai đoạn
mau lắm. Tối nay thì không được nhưng chiều mai thì Diễm rảnh.
Khoảng 2:00g được không?
Vậy là hai người quen nhau buổi chiều
hôm sau. Dễ dàng và thơ mộng. Đi với Huân lần đầu trong công
viên, nàng thấy bên trong lớp áo rằn ri dữ tợn của chàng là một
tâm hồn thật trẻ trung, vui tính và yêu đời. Dưới mắt chàng, hình
như, chẳng có chuyện gì là quan trọng cả. Đi ngang đám trẻ đang
đá banh, anh chàng ngứa giò, xin phép Diễm rồi cởi giày chạy ra
sút vài quả bóng với bọn trẻ. Nàng đứng im nhìn Huân lừa bên này
lách bên kia với đám trẻ và mỉm cười thích thú. Diễm không biết
trên thế giới này có được bao nhiêu người đi chơi với đào lần đầu
tiên mà lại xin phép cởi giày để đá bóng vài phút với bọn trẻ. Đi
dưới những tàn cây to lớn có đến hàng trăm tuổi, chàng chỉ và đọc
tên vanh vách cho Diễm nghe từng loại cây. Có vài con chim bay
lướt trên cao, Huân ngước nhìn rồi nói rõ lai lịch chúng nó. Kể
cả những loại tre loại trúc, Huân cũng biết rõ xuất xứ. Hình như,
với chàng, rừng rậm là một thứ mà chàng biết rất nhiều. Hình như,
rừng rậm và cây cối mới là quê hương, là nơi mà chàng có thể sống
thoải mái được.
Diễm chỉ để ý đến một điều là anh chàng
hút thuốc hơi nhiều. Một lần, Huân mồi thuốc và nói với Diễm:
– Mỗi lần mua một bao thuốc lá mới, anh
luôn luôn bị ám ảnh bởi câu “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng”
của gói CAPSTAN.
– Nghe có vẻ buồn hơn “Chiếc Áo Phong
Sương Tựa Áo Nàng”.
Huân phà khói thuốc, hỏi:
– Em có tin dị đoan không?
– Thỉnh thoảng.
– Hồi xưa, anh có một thằng bạn. Nó có
đeo một cái nanh heo rừng trong người. Nó bảo anh là ngày nào nó
còn mang nanh heo rừng thì súng đạn không đụng đến nó được...
Huân bỏ lửng câu nói. Diễm nhận ra là
nàng thích cái lối nói chuyện này. Nó làm cho người ta trở nên
hồi hộp:
– Rồi
sao nữa?
Chàng
nhìn ra xa xa:
– Một ngày nó đi nhảy toán, bị bắn
chết, bạn bè đem xác về được. Anh liệm nó vào hòm, mò mẫm tìm cái
nanh heo rừng nhưng không thấy.
Ngừng một chút, Huân tiếp:
– Em biết nó ở đâu không?
– Không!
– Anh cũng chẳng biết, cứ nghĩ là anh
chàng nào đó đã lấy rồi. Chiều đó anh đi tắm, mới thấy cái nanh
heo rừng nó bỏ quên, treo lơ lửng trên vòi nước.
Diễm rùng mình. Huân nói:
– Ở trên đời này, có nhiều chuyện mình
không thể giải thích được mà nó vẫn xảy ra.
– Chuyện nanh heo rừng em đã nghe vài
lần, nhưng cái câu gì đó thì dị đoan gì?
– Chính nó dạy cho anh. Nó bảo, khi mày
yêu ai, đi mua thuốc lá đừng nói “Bán cho tôi gói Capstan” mà
phải nói bán cho tôi 1 “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng”.
Diễm cười:
– Nếu không thì sao?
– Tình yêu sẽ tan vỡ.
Diễm lắc đầu:
– Em không ngờ mấy ông nhà binh lại lẩm
cẩm như vậy. Mà từ lúc gặp em, anh đã đi mua thuốc lá lần nào
chưa?
– Rồi!
– Anh nói thế nào?
– Anh bảo cô hàng bán cho tôi một
“Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng”.
Diễm nhìn xuống đất, giấu nụ cười:
– Sao anh lại nói vậy? Anh đã yêu Diễm
đâu? Mình mới quen nhau mà...
Huân cười:
– Gặp được một người như Diễm mà không
yêu thì thật là bất lịch sự...
Diễm bật cười, nói theo với Huân:
– Và ngu xuẩn... Diễm hỏi thật anh, anh
đã nói câu đó với bao nhiêu người đẹp rồi?
– Không nhiều lắm, chỉ với những người
mà anh thật thích như là Diễm.
– Đơn giản thật. Anh nói chuyện hay
lắm. Anh kể chuyện đời anh cho Diễm nghe đi.
– Chuyện đời anh nghe chán lắm, chỉ sợ
em buồn ngủ.
Diễm đưa mắt liếc Huân:
– Xin anh chớ quên là từ chối lời yêu
cầu của một người đàn bà trong hoàn cảnh này là bất lịch sự và
ngu xuẩn đấy nhé.
Huân cười:
– Anh cũng định nói vậy. Thôi được, vậy
em muốn bắt đầu từ lúc nào?
– Từ lúc anh còn bé.
– Xa quá, làm sao anh nhớ hết.
– Thế thì từ lúc anh đi học.
– Tuổi học trò anh chẳng có gì đáng
nói. Từ lúc đi lính được không?
– Chuyện mấy ông lính nghe chán chết.
Tự nhiên, Huân xoay người đưa mắt nhìn
Diễm. Ánh mắt người sĩ quan Lôi Hổ trẻ vừa lóe lên một tia nhìn
đau khổ. Đau khổ nhưng tha thiết một cách lạ lùng. Diễm giật
mình. Tia mắt đau khổ ấy trong mắt Huân dù rất nhỏ, dù rất tha
thiết nhưng Diễm nhìn thấy được ngay. Nàng thấy xót xa và bối
rối. Diễm cúi đầu, cầm lấy tay Huân:
– Anh Huân, Diễm xin lỗi anh.
Huân cười. Nhưng nụ cười hơi méo đi,
đôi mắt vẫn còn đọng chút đau thương. Chàng búng điếu thuốc ra xa
rồi đưa tay mình úp lên bàn tay của Diễm.
– Diễm vô duyên quá, Diễm quên anh là
lính.
– Anh
không trách. Nhưng Diễm có biết ai là người giữ cho thành phố
làng mạc được yên bình không?
– Mấy ông lính.
– Ai là người bỏ gia đình, bỏ vợ con,
bỏ tất cả ra sống ngoài rừng ngoài rú, kề cận với tử thần hằng
ngày?
– Cũng
mấy ông lính.
– Ai là người chịu thiệt thòi nhất trong cuộc chiến này?
– Cũng mấy ông lính... Mà thôi, anh
đừng hỏi nữa, Diễm hiểu rồi.
Huân im lặng một lúc rồi nói thật dịu
dàng:
– Bây
giờ để anh kể chuyện đời lính của anh cho Diễm nghe...
– Thôi anh ạ, để lúc khác đi, Diễm hết
muốn nghe rồi.
Huân lại móc gói thuốc. Diễm cầm lấy
điếu thuốc trong tay Huân, gõ gõ vào cái hộp quẹt Zippo một cách
rất sành điệu. Huân nhìn nàng ngạc nhiên, không hiểu nhờ đâu mà
Diễm lại gõ thuốc tài tình đến như vậy.
Nàng ngồi sát vào Huân, đưa điếu thuốc
cho chàng và khẽ nói: “Chiếc áo phong sương tình anh nặng...”
Huân cắm điếu thuốc vào môi mình,
nghiêng người xuống. Diễm đưa cái hộp quẹt Zippo của Huân lên,
dùng ngón tay mở nắp rồi bật lửa cho chàng, tay kia đưa ra che
gió.
Huân rít
một hơi thuốc dài, nhả khói ra, hỏi:
– Em học ở đâu mà nhồi thuốc hay quá
vậy?
– Ngày
xưa, bố em làm biếng, mỗi lần hút thuốc mà không tìm ra hộp quẹt
hay bắt em xuống bếp mồi thuốc cho bố.
– Ngoan quá nhỉ. Em kể chuyện đời em
cho anh nghe đi.
Diễm cười:
– Bắt đầu từ lúc nào?
– Lúc nào em thấy dễ nhớ nhất.
Diễm ngước mắt nhìn lên trời, rồi lại
cúi xuống, rồi lại nhìn lên:
– Đời Diễm buồn lắm...
Huân nghe vậy thì thấy xót xa trong
lòng. Không hiểu sao, chàng đã mơ hồ đoán ra chuyện này.
– Nhà em ở Nha Trang. Mấy cha con em
đang sống an bình vui vẻ bỗng một ngày, năm Diễm học đệ tứ, bố em
bỏ mẹ con em đi đâu mất biệt. Mẹ bảo bố đi theo vợ bé vào miền
Tây sinh sống. Có một điều mẹ em không nói là ngày bố đi, bố nghe
lời vợ bé, bao nhiêu vàng bạc trong nhà bố vét sạch đem theo...
Huân hít thuốc lá liên tục. Diễm nhìn
ra xa xa, tiếp, giọng đều đều:
– Thế là em phải nghỉ học để phụ giúp
mẹ. Bố đi rồi, mình mẹ lo không nổi mọi chuyện. Tội nghiệp mẹ lắm
anh ạ. Em thương mẹ ở chỗ, dù bị bỏ rơi như thế, mẹ không hề mở
miệng ra than thân trách phận, không hề chửi bố lấy một lời, dù
sau lưng bố. Điều làm cho em đau khổ nhất là mẹ vẫn còn hy vọng
một ngày nào đó bố sẽ về. Em biết bố sẽ không bao giờ về nhưng mẹ
thì vẫn muốn tin như thế...
– Sao em biết?
– Đàn bà có một linh tính đặc biệt của
trời cho anh ạ. Hơn nữa, em gần gũi bố nhiều, em biết tính bố. Bố
đã quyết định chuyện gì rồi là không bao giờ thay đổi ý kiến...
Em nghĩ mẹ em cũng phần nào biết được như thế nhưng mẹ không muốn
tin như vậy...
– Bản chất của con người. Trong cơn đau
khổ hay nguy khốn, người người ta luôn luôn muốn tìm một cái gì
đó để hy vọng, để tin vào...
Diễm tiếp:
– Buôn tần bán tảo mấy năm, để dành
được ít vốn, mẹ em và bà dì hùn nhau lên Ban Mê Thuột mở cửa tiệm
hàng xén. Ở đây làm ăn dễ quá anh ạ, người mua thì nhiều mà người
bán thì ít. Em ở đây 3 năm rồi, và cảm thấy thích cái thành phố
nhỏ này.
Huân
nhìn xa xa phía trước. Bên kia công viên, cách con đường quốc lộ
là một cái nhà thờ nhỏ nhưng rất dễ thương với cái tháp chuông
cao vút.
– Ở
đây 3 năm, em nhận xét thấy thành phố này như thế nào?
– Hồi mới lên đây Diễm thấy hình như ai
cũng... ở dơ hết vì đất đỏ kinh khủng. Đi ra ngoài đường một vòng
là bụi đỏ bám đầy đầu tóc. Nhưng ở lâu rồi mới biết dân Ban Mê
Thuột là dân sạch sẽ nhất nước vì ở đất đỏ mà hai ngày không tắm
thì sẽ biến thành mọi ngay.
Huân cười, hỏi:
– Em có nhớ biển không?
– Cũng nhớ nhưng không nhớ biển bằng
nhớ bạn bè anh ạ. Hồi đó Diễm cô đơn và buồn kinh khủng, chẳng
quen biết ai cả. Bạn bè cũng khó kiếm nữa. Nếu anh lên đây trước
chừng... 3 năm thì Diễm đỡ khổ rồi...
Cả hai người cùng cười. Rồi Diễm bảo:
– Thôi mình đi về anh, chiều rồi...
Chiều thứ bảy đó, Diễm nhận lời mời đi
tham dự buổi dạ vũ Giáng Sinh trong căn cứ của Chiến đoàn.
Hai người quấn quít bên nhau như đôi
chim nhỏ...
Tháng sau, Huân mướn căn gác số 74B đường Lý Thường Kiệt để làm
chỗ hẹn hò. Mới đầu Diễm còn giấu mẹ nhưng sau thì mẹ nàng biết.
Bà cũng chẳng cấm cản gì, chỉ bảo: “Con lớn rồi, con đủ trí khôn
để quyết định lấy chuyện mình làm. Mẹ chỉ khuyên con nên cẩn
thận”.
3 tháng
sau, Diễm khám phá ra một chuyện động trời: Huân đã có vợ...
Tối đó, Huân đang nằm ngủ trên giường
thì Diễm lôi anh dậy. Huân chưa kịp mở mắt thì đã thấy hơi thép
lạnh băng của họng súng Colt–45 chĩa vào thái dương mình. Trong
lúc chập chờn, Huân tưởng mình đang đi nhảy toán và bị Việt
cộng bắt. Chàng đang suy nghĩ tìm cách thoát thân thì giọng Diễm
rít lên:
–
Ngồi dậy đi! Anh là thằng khốn nạn.
Huân chưa mở mắt nhưng nghe giọng nói
đó thì biết chuyện gì đã xảy ra. Từ lúc quen nhau, Huân đã âm
thầm chờ đợi một ngày như ngày hôm nay. Cái giọng đay nghiến đó
không làm chàng ngạc nhiên lắm. Đàn bà khi ghen thường trở thành
những con người lạ lùng. Huân chỉ ngán cây Colt–45 của chàng đang
nằm trong tay Diễm. Đạn Colt–45 của Lôi Hổ mà nổ gần vậy và nhè
nổ ngay vào chỗ thái dương thì nhất định chết rồi mà người bị bắn
vẫn chưa biết mình chết.
Huân hít một hơi thở cho đầy lồng ngực
rồi mở mắt ra. Chàng nhìn thấy Diễm đầu tóc rồi bù, nước mắt giàn
giụa, cây Colt–45 trong tay nàng run lên từng hồi theo tiếng
nấc:
– Dậy đi,
sao anh dám lừa tôi?
Mồ hôi toát ra đầy trán nhưng Huân vẫn
nằm im không cử động gì cả. Chàng biết Diễm chỉ muốn dọa chàng
nhưng súng đạn là một thứ... rất dễ bị cướp cò bất tử. Nhất là
khi nó lại nằm trong tay một người đàn bà chưa hề biết sử dụng
súng và tâm hồn lại đang bị giao động mạnh như lúc này.
Huân xoay đầu từ từ, giọng rất bình
tĩnh:
– Em cho
anh hút điếu thuốc được không?
Diễm gầm lên, đau đớn pha lẫn phẫn nộ:
– Không có thuốc thang gì cả. Anh trả
lời tôi đi, tại sao anh lại lừa tôi?
Huân đâu có cần nghe câu trả lời của
nàng, chàng chỉ hỏi vậy để có cớ tránh cái họng súng quái ác đang
chĩa vào ngay thái dương mình và coi thử coi cái khóa an toàn cây
súng có mở không. Huân tái mặt khi nhìn thấy cái khóa an toàn đã
mở sẵn. Đúng ra là lỗi ở chàng. Huân không bao giờ khóa an toàn
cây súng của mình. Trường tình báo dạy cho chàng biết cây súng
khi hữu sự mà bị khóa an toàn thì chỉ là một miếng thép vô dụng.
Huân nuốt nước bọt, cất giọng nhẹ nhàng:
– Coi kìa, em muốn anh dậy thì để anh
ngồi dậy, nhưng phải nhích ra một chút chứ...
Diễm đang phân vân chưa biết phải làm
gì thì trong một tích tắc đó, Huân đã chòm dậy nhanh như cắt, đưa
tay chụp lấy cây súng trong tay nàng chĩa lên trời. Một tay chàng
ôm Diễm, tay kia chàng lẹ làng gỡ cây súng ra thảy xuống một góc
giường. Hú hồn!
Diễm gục đầu vào vai Huân và bắt đầu
khóc. Mới đầu chỉ tấm tức nhưng trở thành nức nở chỉ trong vài
giây đồng hồ. Huân ôm lấy Diễm, để những giọt nước mắt thấm ướt
chiếc áo thun nhà binh. Chàng dỗ dành:
– Anh xin lỗi em. Lỗi của anh, lỗi của
anh hoàn toàn.
Diễm lại khóc to hơn, đay nghiến:
– Em khổ quá! Đời một người con gái,
anh phải biết chỉ có được một lần làm con gái... Tại sao anh lại
lừa em?
Huân
nhắm mắt lại, thấy đau đớn tận cõi lòng. Chàng vuốt ve lưng nàng:
– Lỗi của anh hoàn toàn.
– Tại sao anh lừa em?
– Đừng bắt anh trả lời Diễm ạ, anh xin
em...
– Anh
phải trả lời.
Huân thở dài:
– Anh đâu có lừa em, anh chỉ... Chỉ... giấu em.
Đột nhiên nàng xô Huân ra:
– Đàn ông các anh chỉ rặt toàn là một
bọn người khốn nạn. Tất cả đều khốn nạn...
Cứ như thế, từ 10:00g tối cho đến quá
nửa đêm, Diễm lúc thì khóc, lúc thì im, lúc thì đay nghiến Huân
bằng những lời lẽ nặng nề. Diễm chỉ ngừng lại khi có vài tiếng gõ
vào bức vách báo hiệu sự khó chịu của người hàng xóm ở ngay phòng
bên cạnh.
Huân
lắc đầu, đứng lên bước ra ngoài ban–công, nhìn vào bóng đêm trước
mặt. Diễm lưỡng lự một chút rồi bước theo. Hai người ngồi im lặng
bên nhau trong bóng tối nhìn xuống con đường tối mù phía dưới. Xa
xa, mãi gần đầu đường mới thấy ánh sáng vàng vọt hiu hắt của ngọn
đèn đường. Tiếng côn trùng rên rỉ, tiếng gió thổi lồng lộng, phủ
ngập cái khoảng không gian tối tăm bé nhỏ và u buồn của hai
người. Huân đốt thuốc lá liên miên. Nhìn Huân hút thuốc, chưa bao
giờ Diễm thấy ghét cái câu “Chiếc áo phong sương tình anh nặng”
bằng lúc này. Láo khoét. Rẻ tiền. Cải lương. Kịch.
Cơn bão đã đi qua và để lại sự tàn phá
thê lương trong lòng Diễm. Diễm thấy đau đớn và chua xót vô cùng.
Nàng chợt nhận ra rằng, dù biết rằng Huân đã có vợ, Diễm vẫn
không thể bỏ chàng được. Nàng đã yêu Huân mất rồi, đã cho Huân
hết rồi. Diễm lại khóc lên rưng rức trong bóng tối khi nghĩ mình
chẳng còn gì cả. Không ngờ đời mình lại có lúc như thế này. Muốn
nói gì thì nói, mình chỉ là một thứ vợ hai, vợ bé của người ta
thôi.
Huân kéo
ghế ngồi sát bên Diễm, tiếp tục dỗ dành và vuốt ve. Diễm nín
khóc, hỏi:
–
Trở lại thực tế đi, bây giờ anh tính thế nào?
– Anh sẵn sàng ra đi để cho em được
hạnh phúc.
Diễm lắc đầu và thở dài, không nói gì. Một lúc, nàng cầm lấy tay
Huân hỏi:
–
Sao anh đã có vợ rồi mà còn cả gan đi tán tỉnh em?
Huân đau đớn:
– Anh chẳng biết nữa. Tại anh xa nhà,
anh yếu đuối, anh vô liêm sỉ.
– Anh làm vậy lỡ ở nhà chị biết thì
sao? Anh không sợ chị ấy buồn à?
– Không!
Diễm hất tay Huân ra:
– Diễm không tin đâu. Anh đừng nói
những câu bạc tình nghĩa như thế.
Huân nghiến răng lại:
– Em khỏi cần phải tin nhưng anh nói
thật. Anh không yêu vợ anh...
Diễm không nói gì. Huân lại thở dài,
nhìn xuống đường, nơi xa xa có vùng ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn
nhỏ. Tiếng gió đêm miền cao nguyên thổi rì rào. Cây cối quanh căn
gác nhỏ quặn mình trong bóng tối, kêu xào xạc.
– Mà thôi, anh có nói gì em cũng chẳng
tin, anh nghĩ, hay nhất, vì tương lai của em, hai đứa mình nên
chia tay nhau. Em còn trẻ, còn tương lai, thiếu gì người sẽ theo
đuổi em...
Diễm vẫn không nói gì.
– Đời anh coi như xong rồi. Anh sẽ về
để tập yêu thương lại vợ anh. Còn em, tương lai em còn sáng sủa
lắm, đừng vì một lỗi lầm nhỏ của mình mà bỏ phí cuộc đời đi. Mình
chia tay nhau nhé?
Huân im lặng chờ đợi nhưng chỉ có tiếng
khóc thút thít trả lời cho chàng. Huân lại vỗ về, giọng nói và
thái độ như người anh an ủi đứa em:
– Anh biết em yêu anh, nhưng em sẽ quên
anh được. Em phải nghĩ đến tương lai của mình. Em phải tập quên
anh và anh cũng phải tập để quên em.
– Anh nói thật hay anh chỉ làm bộ?
– Anh đau lòng lắm nhưng anh chưa bao
giờ thật bằng lúc này.
Diễm lại bật khóc. Rồi, thật bất ngờ,
nàng đưa hai tay ôm kín Huân vào lòng mình, xiết thật chặt, nghẹn
ngào:
– Trễ
quá rồi anh Huân ạ, Diễm không thể nào bỏ anh được nữa rồi.
– Diễm...
– Nói đi anh, nói đi.
– Nói gì?
– Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng...
– Nhưng... nhưng... Tụi mình...
– Quên chuyện đó đi anh. Anh nói với
Diễm đi anh, nói đi, nói “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng”.
Diễm năn nỉ anh. Nói để cho thần linh chứng giám chuyện tình của
hai đứa mình, nói đi để cho chuyện tình của hai đứa mình sẽ không
bị tan vỡ... Nói đi anh, nói mau đi... Coi chừng thần linh sẽ
giận.
Huân nói
liền, giọng thẫn thờ như người chưa thoát ra khỏi sự dày vò của
suy tư:
–
Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng...
Thế là, chuyện tình với người đàn
ông... có vợ của Diễm lại tiếp diễn. Buồn phiền cũng lắm mà say
đắm cũng nhiều. Diễm không rời xa Huân được và ngược lại, Huân
cũng không thể nào làm khác hơn. Cả hai sống như vậy và không ai
dám nghĩ đến tương lai. Vợ Huân lạnh lùng, cả năm trời mới gởi
được cái thư chữ viết rời rạc, vô nghĩa lý. Huân nhìn lá thư, nhớ
đến con, nghĩ đến người vợ và lắc đầu.
Khoảng 2 tháng trước lễ Giáng Sinh,
Diễm thấy cơ thể khó chịu, ăn uống không được, ói mửa bất thường.
Một chiều, Huân về nhà sau 15 ngày hành quân nơi vùng tam biên,
chưa kịp cởi áo ra thì Diễm đã cho nổ một trái bom nguyên tử với
sức mạnh cỡ 200 megaton ngay trước mặt chàng, trong căn gác số
74B đường Lý Thường Kiệt. Diễm bảo:
– Em có thai.
Bom nguyên tử nổ thật là khủng khiếp.
Huân thấy trời đất quay cuồng, vũ trụ đảo lộn. Chàng bị quật ngã
xuống đất rồi lòm còm bò lên giường nằm bất động, không nói được
một tiếng. Không phải chỉ có Huân mới bị ảnh hưởng của bom nguyên
tử, Diễm cũng bị lây. Nàng chết trong lòng khi thấy Huân không lộ
một chút vui mừng nào. Dù sao, đó cũng là giọt máu của chàng.
Diễm bỏ mặc Huân nằm trên giường rồi lẳng lặng mở cửa bước ra
khỏi nhà. Nàng khóa cửa, nước mắt trào ra, cổ họng nghẹn cứng.
Diễm đứng không muốn vững. Nàng phải vịn vào thành cửa một lúc
thật lâu mới lấy lại được sự thăng bằng. Diễm lắc lắc chùm chìa
khóa nhỏ trong tay rồi mím môi ném nó tuốt ra phía sau vườn, thật
xa, nơi có mấy khóm chuối hoang, mấy cây chùm ruột chẳng bao giờ
có trái và cỏ dại cao lên tới đầu.
Diễm nghẹn ngào nói nhỏ:
– Vĩnh biệt anh Huân. Vĩnh biệt.
Rồi nàng bước từng bước một xuống cầu
thang, tự nhủ với lòng mình rằng mình sẽ chẳng bao giờ trở lại
nơi này nữa. Nàng cũng tự nhủ sẽ chẳng bao giờ còn gặp Huân nữa.
Không bao giờ.
Gần chiều Huân giật mình tỉnh giấc và
khám phá ra Diễm đã đi đâu mất rồi. Chàng ra ngoài ban–công ngồi
chờ. Chiều, Diễm cũng không về. Tối, 8:00g nàng cũng không về.
Huân thay quần áo, ra cái quán cóc đầu phố ngồi kêu bia uống để
chờ. Uống đến chai bia thứ tám, đồng hồ trên tường gõ 10 tiếng
dài não ruột. Huân biết Diễm sẽ không đến vì đã tới giờ giới
nghiêm.
Chàng
lắc đầu, thở dài một tiếng...
Bà chủ quán đi ra đi vào, không dám
than phiền nhưng dáng điệu rất khổ sở. Bia uống hết ngon, Huân
liền kêu tính tiền rồi lạng quạng bước ra. Thành phố Ban Mê Thuột
giờ giới nghiêm vắng ngắt như một bãi tha ma. Gió đêm thổi lên
từng cơn rùng rợn. Huân lủi thủi bước về lại căn gác, lên lầu lấy
cây Colt–45 nhét vào bụng rồi xuống đường mở máy chiếc xe díp.
Chàng lái xe xuống nhà Diễm. Chiếc xe díp của Chiến Đoàn III Lôi
Hổ phóng băng băng giữa thành phố vắng người...
Đèn trong nhà Diễm tự nhiên tắt ngấm
khi Huân vừa thắng chiếc xe. Huân lắc đầu ngao ngán. Chàng biết
có vào gõ cửa cũng bằng thừa nhưng quyết định vào.
Huân gõ đến lần thứ tư thì cánh cửa bật
mở. Má Diễm ló đầu ra bảo:
– Cháu về đi. Diễm nó mệt.
Huân chưa kịp nói thì cánh cửa đã đóng
sầm một cái. Chàng đứng yên trong bóng tối một lúc rồi ngồi ngay
xuống thềm nhà Diễm, dựa lưng vào vách đốt thuốc. Đàn muỗi đói
xông tới tấn công. Huân nới ống tay áo và kéo cao cổ áo lên.
Muỗi vẫn tấn công tới tấp. Chàng bỏ mặc. Cứ coi như trực thăng
đến trễ một ngày. Cứ coi như tối nay mình còn nằm trong rừng.
Một lúc nào đó, Huân cảm thấy mệt
nhoài. Sự mệt mỏi của gần tuần lễ trong rừng thẳm, sự tàn phá của
trái bom nguyên tử và men rượu của 8 chai bia lớn đẩy chàng nằm
xuống. Huân ngủ thiếp đi trước thềm nhà Diễm, một tay thọc sâu
vào bụng nắm chặt lấy cán cây súng Colt–45, tay kia để ngược ra
sau trong tư thế chuẩn bị. Đàn muỗi đói vẫn bay vo ve nhưng đối
với Huân bây giờ chúng chẳng còn có nghĩa lý gì nữa. Lính Lôi Hổ
muốn ngủ là ngủ được, dù ở bất cứ chỗ nào.
Huân ngủ rất ngon, không một tiếng
ngáy, không một lần trở mình như chàng vẫn thường ngủ ở trong
rừng mỗi khi đi nhảy toán.
Bỗng, trong một khoảng thời gian nào đó
trong đêm, tai người sĩ quan Biệt Kích nghe được tiếng động lạ.
Huân tỉnh giấc liền và nhận ra ngay đó là tiếng mở cửa. Ngón tay
đang bám cứng vào cò súng của chàng liền nới lỏng ra. Nhưng Huân
vẫn nằm im, chờ đợi. Rồi tiếng dép khua lẹp kẹp. Huân nhận ra
bước chân của Diễm. Chàng vẫn nằm im, miệng lại nở lên một nụ
cười.
Diễm
xách cây đèn dầu đến bên Huân, cúi nhìn người lính mặc đồ rằn ri
đang nằm ngủ trên thềm nhà. Rồi nàng để cây đèn dầu xuống bên
cạnh, ngồi xuống bên cạnh Huân, nâng đầu chàng lên để lên đùi
mình...
Trong
một khoảnh khắc, nàng quên hết. Quên những gì vừa xảy ra chiều
nay, quên giọt máu của Huân trong bụng mình, quên cái tương lai
đầy bất trắc trước mặt để chỉ biết một điều: Nàng đã yêu đắm đuối
cái con người đang nằm trong vòng tay nàng đây và không thể nào
bỏ chàng được...
Rồi chuyện đâu cũng vào đấy. Diễm lại
trở về với Huân. Trở về với cái bào thai đang từ từ lớn dần trong
bụng mình và chờ đợi. Cuộc sống hai người không còn như xưa nữa.
Diễm vui buồn bất chợt. Có lúc vừa cười xong thì lại khóc ngay
sau đó. Vừa mới âu yếm nhau thì lại gây gổ liền. Mỗi lần Diễm
phản ứng như vậy Huân thấy đau đớn tận đáy lòng.
Chiều nay cũng vậy, Huân nhói trong
người không phải vì cái tát mà vì sự thay đổi tính tình bất
thường của Diễm. Đàn bà có thai mà bị xúc động nhiều quá không
tốt. Chàng nghĩ đến đứa con trong bụng mình và cảm thấy lo sợ...
Rồi hai người lại làm lành với nhau. Diễm đã thôi khóc, thôi đay
nghiến. Huân đang ngồi vuốt ve an ủi Diễm thì có tiếng xe díp
thắng trước nhà. Huân nhóm người lên nhìn xuống và nhận ra đó là
xe của Chiến Đoàn. Người trung sĩ tài xế trên xe phóng xuống như
bay, chạy lên gác.
Huân lắc đầu toan đứng lên nhưng Diễm
đã ghì chặt lấy chàng, úp mặt vào ngực chàng, nói nhỏ:
– Anh cứ ngồi đây với em, chừng nào ông
ấy lên thì đứng dậy cũng chưa muộn...
*****
Đám sĩ quan Lôi Hổ quây quần bên tấm
bản đồ để trên bàn. Đại tá Phùng chấm dứt phần nói chuyện:
– Còn ai có ý kiến hay thắc mắc gì nữa
không?
Không
ai nói gì. Thực ra, người đáng lý ra phải có ý kiến nhiều nhất là
Huân vì tất cả các sĩ quan có mặt đều được giao một công tác
ngoại trừ chàng. Nhưng Huân không thèm mở miệng. Chàng biết, đã
được gọi vào đây để tham dự phiên họp này thì trước sau gì tên
mình cũng được nhắc đến, khỏi cần “mua việc” hay thắc mắc làm chi
cho mất công. Đại tá Phùng đứng lên:
– Vậy cứ theo kế hoạch mà làm. Ý của
ông Tướng Phú rất đơn giản. Ổng muốn xác nhận sự có mặt của Sư
đoàn 10 và Sư đoàn 316 trong các khu vực đó. Anh em chỉ cần tóm
một vài thằng đem về đây là xong công tác. Bây giờ anh em có thể
giải tán được...
Mọi người giơ tay lên chào, Huân cũng
bình thản tính giơ tay lên chào để đi ra nhưng Đại tá Phùng lại
nói:
– Khoan,
Đại úy Huân ở lại chờ tôi một chút.
Đã chuẩn bị từ trước, Huân thản nhiên
bỏ tay xuống chờ đợi. Còn hai người trong phòng, Đại tá Phùng chỉ
cái ghế gần mình. Huân ngồi xuống. Ông chiến đoàn trưởng nhìn
Huân, giọng thân mật:
– Gia đình anh lúc này thế nào?
Huân hơi ngạc nhiên vì câu hỏi:
– Cám ơn Đại tá, vẫn thường thôi.
– Vợ anh thế nào?
Huân bối rối:
– Cám ơn Đại tá, cũng thường, nhưng lâu
quá chưa liên lạc được.
– Sao lâu lắm rồi không thấy anh đi
phép về Sài gòn?
– Tôi có nhiều việc làm ở Ban Mê Thuột
quá...
Huân
không muốn nói nhiều hơn. Hai người im lặng. Đại tá Phùng tính
nói một câu gì đó nhưng lại thôi. Cả 2 đều đột nhiên cảm thấy là
bầu không khí trong phòng đang trở nên ngột ngạt. Ông đại tá liền
đổi đề tài:
–
Anh biết tại sao tôi mời anh ở lại đây không?
– Tôi có linh cảm một chuyện đặc biệt
nhưng không biết đặc biệt... cỡ nào.
– Anh có một nhiệm vụ quan trọng hơn.
Xác nhận sự có mặt của chúng nó chỉ là chuyện phụ... Tôi và ông
Trung tá Khiếu Phòng 2 biết rất rõ và có bằng chứng là chúng nó
đã tập trung 4 sư đoàn ở mặt trận cao nguyên này...
– Nếu biết vậy thì mình còn cho người
đi bắt lính chúng nó về đây làm gì?
Ông Phùng lắc đầu:
– Để trình diện Quân Đoàn, để làm đẹp
lòng Tướng Phú, khổ là như vậy. Ông tướng này có vẻ không mấy tin
tưởng vào các tin tức tình báo của bọn mình đưa lên. Ổng muốn
chứng minh, ổng muốn mình phải bắt được vài thằng lính của chúng
nó làm bằng chứng. Nhưng chuyện này chẳng có gì khó, nghề của bọn
mình mà. Xưa nay mình đã làm bao nhiêu vố rồi, làm thêm một vố
đâu có sao. Nhưng mà...
Huân chờ đợi. Chàng biết những gì chàng
sắp nghe quan trọng vô cùng.
– Anh Huân, cái chuyện chính, chuyện
tôi muốn nói với anh là cái chiến trường cao nguyên, đúng hơn,
cái mặt trận B3 theo lời gọi của chúng nó sẽ bùng nổ rất lớn sau
tết. Chúng nó sẽ đánh. Đánh cú chót cạn láng. Chúng nó sẽ tapi
mình một lần nữa như cái kiểu mùa hè năm 1972...
Đại tá Phùng ngừng nói. Ông nhìn xuống
tấm bản đồ để trên bàn, lắc lắc cái đầu:
– Chấp tụi nó. Biết nó đánh thì mình
chuẩn bị, nó đánh lớn thì mình chuẩn bị lớn, đánh nhỏ thì chuẩn
bị nhỏ, chuyện này cũng chẳng có gì đáng nói. Cái đáng nói nhất,
chuyện quan trọng nhất đang làm ông Tướng Phú và toàn ban tham
mưu mất ăn mất ngủ là không biết chúng nó sẽ đánh chỗ nào. Ban mê
thuột hay Pleiku?
– Ban Mê Thuột hay Pleiku?
Huân lặp lại như người chưa tỉnh cơn
mộng và thấy đau nhói trong tim mình. Ban Mê Thuột, thành phố nhỏ
bé hiền hòa này không phải là thành phố của chiến tranh. Người
dân Ban Mê Thuột chưa sẵn sàng để hứng đạn đại pháo. Dân quân Ban
Mê Thuột chưa được trang bị đầy đủ để chống tăng. Quan trọng
nhất, Diễm và đứa con trong bụng nàng chưa chuẩn bị đầy đủ cho
một cuộc chạy loạn.
– Như tôi đã nói, ông tướng muốn bắt
sống vài thằng tù binh, mình sẽ bắt đem về cho ông tướng đẹp lòng
nhưng đồng thời, lợi dụng việc đó, tôi cũng vừa nghĩ ra 1 cách để
giải quyết mối lo trong gan ruột ông tướng...
Ông ngừng nói, nhìn Huân như muốn ước
lượng xem thử người sĩ quan thuộc quyền có thể đoán được những gì
mình muốn nói. Đại tá Phùng kéo ghế ngồi gần sát Huân:
– Sở dĩ tôi giữ anh lại đây là vì tôi
muốn dùng anh vào việc này. Trong chiến đoàn của mình, nếu không
có anh thì không ai có thể làm được việc này. Anh muốn giúp tôi
không?
Huân
gật đầu liền. Đại tá Phùng khoái cái lối gật đầu kiểu này. Nó
không điếu đóm, không kịch, và chắc chắn như một lưỡi dao chém
sâu xuống mặt bàn.
– Mình có bắt được 100 thằng lính bộ
đội ông Hồ cũng không biết được mấy thằng chóp bu của chúng nó
đang âm mưu cái gì. Chắc anh cũng biết, cộng sản làm gì cũng có
chuẩn bị, có kế hoạch, có học tập, có nghị quyết, v.v. Nếu chúng
nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay Pleiku, chắc chắn mấy thằng Sư
trưởng của chúng nó không thể nổi hứng rồi quyết định đánh khơi
khơi được. Lệnh phải xuống từ Bắc Bộ Phủ cho mấy thằng này thi
hành. Rồi tiếp theo, các Trung đoàn trưởng phải biết, đúng không?
Huân phần nào hiểu được công tác mình
sắp được giao phó.
– Đúng.
– Rồi chúng nó phải học tập, phải thiết
lập sa bàn, phải tập trận, v.v. Vậy thì, nếu mình gài được con
mắt mình ở trong “hậu phương” của chúng nó trong một thời gian
dài, mình sẽ biết được ý đồ của chúng nó, đúng không?
– Đúng, tôi đồng ý với Đại tá.
– Tốt. Anh nói vậy thì anh... biết công
tác của anh rồi. Tôi muốn anh “Đặc Biệt” nhảy xuống mật khu Bù
Gia Mập, nơi dưỡng quân của Sư đoàn 316 rồi nằm trong đó chừng 2
tuần lễ để quan sát và theo dõi. Anh sẽ theo dõi và điều tra thật
kỹ cho đến khi nào anh nắm được trong tay một vài bằng chứng gì
về ý đồ của chúng nó. Ví dụ một vài tài liệu về vấn đề di chuyển,
hay những công điện truyền tin hoặc cái sa bàn tập trận hoặc là
bất cứ một cái gì có thể nói cho mình biết về âm mưu của chúng.
Công tác của anh tới đó là hết... Cũng có thể, nếu cần thiết, nếu
không tìm được bằng chứng gì, anh phải tìm cách tóm cổ 1 thằng
Trung đoàn trưởng hay Tiểu đoàn trưởng đem về đây để khai thác.
Ngừng một chút cho Huân thấm ý, ông
tiếp:
– Anh
nên nhớ, việc tóm cổ 1 thằng Trung đoàn trưởng hay Tiểu đoàn
trưởng chưa chắc phải là chuyện quan trọng. Bắt được chúng nó đem
về đây mà không khai thác được thì cũng thành công cốc. Cái quan
trọng là làm sao tìm biết được chúng nó sẽ đánh ở đâu, Ban Mê
Thuột hay Pleiku. Anh phải biết cái tầm quan trọng của công tác
này. Quan trọng vô cùng. Nếu mình biết được chúng nó đánh đâu,
mình có thể dàn quân sẵn để chờ. Nếu chúng nó bị thảm bại thêm
một cú nữa vào mùa xuân năm nay, chúng nó sẽ hết xíu quách. Cũng
như mùa hè năm 1972, chúng nó phải mất cỡ 3 năm nữa mới âm mưu
chuyện khác được. 3 năm, biết đâu chính quyền mình sẽ đổi khác,
biết đâu lòng người sẽ đổi khác, biết đâu cục diện thế giới sẽ
thay đổi, biết đâu dân tộc mình rồi sẽ được ít nhất cũng sống
được như nước Đại Hàn. Nhưng, ngược lại, mùa Xuân năm nay, nếu
mình mắc mưu chúng để bố trí quân tầm bậy thì hậu quả sẽ không
thể nào lường được...
Ông đại tá ngừng nói ở đó, nhíu mày tư
lự.
Huân nói
đỡ lời:
– Nếu
mình biết nó đánh đâu, mình có đỡ nổi cú này không?
Cặp mắt Đại tá Phùng rạng lên một ánh
lửa:
– Chẳng
những đỡ mà mình còn dập chúng nó tan nát ra. 4 sư đoàn vào đây
thì mình sẽ nướng hết cả 4.
Huân thấy vui lây cái niềm vui của ông.
Ông tiếp:
–
Vậy thì, anh Huân, sau khi nghe giải thích, anh có thể giúp tôi
được không?
–
Xin Đại tá cho biết kế hoạch của chuyến công tác.
Đại tá Phùng chỉ vào mấy điểm trên tấm
bản đồ:
– Như
sau đây, và tôi có bàn với ông Trung tá Khiếu Phòng 2 rồi...
Chiều hôm nay, theo lệnh của ông tướng, tôi sẽ thả mấy toán xuống
khu Bù Gia Mập. Tôi sẽ cho chúng nó quậy nát một cách thật ồn ào
rồi chụp vài thằng tù binh đem về...
Đại tá Phùng mồi điếu thuốc rồi tự
nhiên đổi đề tài, nhìn Huân hỏi:
– Lôi Hổ xưa nay chuyên môn nhảy Trực
thăng, nhưng anh có bao giờ nghe Lôi Hổ nhảy... xe Lam chưa?
Huân cười:
– Trình Đại tá là nhảy xe Lam thì lính
tôi nhảy hoài, lúc nào về phép hết tiền mà chúng nó chẳng nhảy...
Đại tá Phùng không để ý đến câu pha
trò, ông đưa ngón tay chỉ xuống quận lỵ Đức Lập, một quận lỵ nằm
giữa Ban Mê Thuột và Quảng Đức, phía Đông Bắc của mật khu Bù Gia
Mập khoảng vài chục cây số:
– Trong khi mấy toán ban nãy lục soát ở
Bù Gia Mập, anh lẳng lặng dẫn toán của anh nhảy... xe Lam xuống
chỗ này cho tôi.
Huân nhìn vị chỉ huy:
– Nhảy xe Lam? Lúc nãy tôi tưởng Đại tá
nói đùa.
–
Không đùa! Anh cho cả toán mặc đồ dân sự đón xe lam lên Đức Lập
rồi tập trung tại đây cho tôi. Ở đây một cái rẫy nhỏ có thể chứa
các anh được, chi tiết sẽ cho anh biết sau.
Huân sửa lại thế ngồi, chăm chú theo
dõi.
– Mình
phải nhảy xe Lam bởi vì cái tầm quan trọng vô cùng của công tác.
Việt cộng xưa nay biết biệt kích nhảy trực thăng, nhảy C130
nhưng nó chẳng bao giờ ngờ là mình còn biết nhảy... xe Lam nữa.
Vì chẳng ngờ cho nên chúng nó mới không đề cao cảnh giác, không
chuẩn bị, không đề phòng. Các anh cứ nằm im trong cái rẫy này
trong lúc các toán kia lục soát ở gần mé ngoài mật khu. Lúc rút
các toán này về, tôi sẽ đình chỉ tất cả mọi hoạt động thám thính
kể cả của Không Quân. Sau khi không nghe thấy trực thăng của mình
trong vòng 5 ngày, chúng nó sẽ yên chí lớn. Đó là lúc mà cái tài
quyền biến của anh mới được đem ra áp dụng.
Câu “Cái tài quyền biến” mà ông chỉ huy
trưởng dùng làm Huân thích thú mỉm cười. Ông tư lệnh này cũng
biết khích tướng đấy chứ.
– Tại đây, khi thời tiết tình thế cho
phép, anh sẽ nhận được đồ tiếp tế và trang bị rồi xâm nhập bằng
đường bộ vào vùng làm việc. Tại đây, anh cứ nằm yên một chỗ để
quan sát tất cả những sinh hoạt của chúng nó. Theo sự suy nghĩ
của tôi, nếu chúng nó sắp đánh lớn thì thế nào chúng cũng cho tập
trận. Anh cứ nằm yên đó quan sát cho đến khi nào nắm vững được
vấn đề. Tôi nghĩ, nếu chúng muốn đánh Ban Mê Thuột thì chúng sẽ
thiết lập sa bàn. Nếu thấy sa bàn của chúng nó, chụp thật nhiều
hình đem về đây cho tôi. Có được những tấm hình đó trong tay,
mình có thể giải quyết mối lo trong ruột gan Tướng Phú được. Mà
anh có chuẩn bị được một chuyến đi dài không?
Huân đốt điếu thuốc lá đầu tiên kể từ
khi bước vào phòng họp:
– Khoảng 3 tuần lễ?
– Ừ.
Đối với Lôi Hổ, 3 tuần lễ là quá dài so
với những lần nhảy trung bình từ 3 hay 4 ngày nhưng Huân biết
thời gian công tác không phải là một vấn đề có thể mặc cả trong
trường hợp này. Chỉ có đồng ý đi hay không thôi. Chàng nhún vai:
– Cũng phải chịu vậy.
– Một điểm nữa là mình sẽ áp dụng “Im
Lặng Vô Tuyến” tối đa để bảo mật. Mỗi ngày một lần, L19 sẽ bao
vùng cách chỗ anh khoảng... 100 cây số. Từ 8:00g đến 9:00g, anh
chỉ cần mở máy theo phương thức số 3 của mình. L19 cũng chẳng
biết anh ở đâu nhưng sẽ thông báo tín hiệu về chiến đoàn để chúng
tôi theo dõi.
Huân gật gù cái đầu. Phương thức số 3 của Lôi Hổ là một trong
những phương thức tối mật. Đúng vào giờ hẹn trước, thường thì
trong khoảng thời gian 1 tiếng đồng hồ, người ở dưới chỉ mở máy
lên đúng tần số, bấm hai cái vào ống liên hợp. Sau đó chờ đúng 5
phút lại bấm thêm mấy cái nữa, tùy theo công điện mình muốn
chuyển. Sau đó, lại bấm thêm nữa. Người nhận được vô tuyến sẽ giở
cái “khóa” âm thoại truyền tin ra để dịch tin theo những cái bấm.
Những tin này phát đi rất giới hạn, thường thì chỉ cho biết là
tình trạng an toàn hay có những chuyện gì quan trọng xảy ra
không. Nếu có chuyện gì quan trọng, người gởi điện sẽ sắp xếp một
cuộc nói chuyện trong thời gian kế.
– Tôi dự đoán là công tác rất nguy hiểm
nhưng cũng có thể không. Cực chẳng đã, nếu không tìm thấy gì thì
mới bắt cóc người của chúng nó. Tôi muốn cứ để cho chúng nó tưởng
rằng mình không biết gì thì tốt hơn bởi vì nếu chúng có nghi ngờ
thì chúng sẽ chuẩn bị kỹ càng hơn.
– Nếu tôi hoàn thành công tác hoặc nếu
nhận được hàng tốt (bắt được tù binh như ý muốn) thì kế hoạch du
lu (dọt) sẽ như thế nào?
– Nếu anh lấy được tài liệu và bằng
chứng về cuộc tấn công của chúng hay nếu tóm được giá chót là
Tiểu đoàn trưởng của chúng nó thì mình break, gọi L19 thẳng kêu
chuồn chuồn lên bốc anh về. 10 ngày sau kể từ ngày hôm nay, chúng
tôi sẽ có sẵn 1 hợp đoàn và 1 L19 để chuẩn bị cho việc này.
– Còn hàng xấu?
Đại tá Phùng lắc đầu:
– Không có vấn đề hàng xấu ở đây Đại úy
Huân ạ. Nếu anh muốn đi, anh phải tìm được bằng chứng hay đem
được hàng tốt về, còn không thì anh có quyền ở nhà. Chuồn chuồn
sẽ không lên để chở hàng xấu đâu. Anh biết được vấn đề sinh tử
của công tác này mà.
– Đại tá nói vậy có nghĩa là tôi có
quyền chọn lựa để... không đi?
– Đúng. Như những công tác thông thường
thì anh không có quyền nhưng chuyến này rất đặc biệt, rất nguy
hiểm, và đòi hỏi một thời gian khá lâu nên tôi chỉ muốn chọn
những người tình nguyện... Tình nguyện và có khả năng, dĩ nhiên.
Huân dụi điếu thuốc, đầu óc chìm trong
sự suy tư. Ở “hậu phương” thì đào có thai, chưa biết phải giải
quyết như thế nào. Công tác sắp phải thi hành thì rặt toàn là
những thứ tin mà mình không muốn nghe: Kéo dài 3 tuần lễ, xâm
nhập bằng... xe Lam rồi bằng đường bộ, phải lấy được hàng tốt,
không tốt thì không về, v.v.
Đại tá Phùng nhìn thấy Huân như vậy bèn
đứng lên đi đi lại lại trong phòng như muốn tôn trọng sự suy nghĩ
của chàng. Huân đốt một điếu thuốc khác. Tuy đang vận hết sức để
suy nghĩ nhưng chàng có suy tư gì nổi đâu? Cứ nghĩ đến Diễm là
mấy sợi thần kinh như cứng đơ lại, hết co giãn nổi.
Đại tá Phùng đã đứng bên Huân, vỗ vai
chàng:
– Anh
Huân, anh có muốn tình nguyện đi chuyến này không?
Ngừng một chút, ông tiếp, dù giọng nói
rất là... khó khăn:
– Tôi lặp lại là anh có quyền từ chối.
Nhưng anh nên nhớ, ngoài anh ra, tôi không còn thấy ai ở trong
chiến đoàn mình có thể làm được việc này.
Huân vẫn trầm ngâm không nói gì. Trước
một cái quyết định quan trọng như vậy thì người ta phải suy nghĩ
và đắn đo. Người mà. Mà đã là người thì ai chẳng sợ chết?
Đại tá Phùng nhìn đồng hồ rồi nói:
– Tôi phải đi. Những gì cần nói tôi đã
nói hết. Buổi họp đến đây coi như chấm dứt. Tôi cho anh suy nghĩ
tới sáng mai để quyết định. Nếu anh không muốn đi cũng không sao
cả, tôi sẽ tìm một phương cách khác. Còn bây giờ, chúc anh... về
nhà vui vẻ.
Ông đại tá chìa tay ra. Huân đứng lên giơ tay chào rồi bắt tay
ông ta. Ông lại nói:
– Nếu anh quyết định nhận công tác, tôi
cần có cái danh sách 5 người đi chung với anh để trên bàn giấy
tôi trễ nhất là 8:00g sáng mai. Tôi sẽ đích thân đi gặp từng
người để nói chuyện. À, còn chuyện này nữa, tôi có bảo phòng
lương bổng ứng trước cho anh 2 tháng lương, lát nữa nhớ ghé lấy
về, cũng sắp đến Noel rồi... Thôi, vui vẻ nhé...
Huân đứng nghiêm chào vị đại tá. Nhưng
ra tới cửa phòng, ông dừng lại, suy nghĩ giây lát rồi cúi đầu
bước trở lại, đến gần Huân vỗ vai nói:
– Anh Huân này, những gì tôi sắp nói
không phải là của một đại tá mà của một người anh em, một người
lính nói với một người lính...
Huân không biết ông muốn nói gì. Đây là
lần thứ hai ông vỗ vai Huân, một việc mà ông ít khi làm.
– Đất nước mình chiến tranh đã gần 20
năm rồi. Riêng tôi, đời tôi cũng gần 20 năm quân ngũ. Tôi biết,
đứng trên cương vị và với danh dự của một người sĩ quan, mình
luôn luôn cảm thấy khó khăn khi phải từ chối một trách nhiệm được
giao phó. Nhưng, là một con người, mình có quyền thắc mắc. Cái
thắc mắc đơn giản và thường nhất vẫn là: Tại sao lại tôi? Tại sao
tôi phải hy sinh? Hy sinh cho ai, và để làm gì? Hoặc giả, tôi hy
sinh mà không biết có ai hy sinh chung với tôi không?
Ông ngước mặt nhìn lên cái lá cờ vàng
ba sọc đỏ vĩ đại treo ở giữa phòng, nói tiếp:
– Ai cũng biết chiến tranh là tàn khốc
nhưng ai cũng quên 1 điều quan trọng khác của chiến tranh là sự
bất công. Bất công vô cùng. Đừng kiếm đâu xa, anh cứ ra trước
cổng trại thì nhìn thấy ngay liền. Tại sao có những thằng sống
phè phỡn ăn chơi và làm giàu nhờ cuộc chiến, và lại có những
thằng sống cực khổ như anh và tôi? Tại sao lúc nãy tôi ngồi đây
để thuyết phục anh mà không chịu thuyết phục bao nhiêu người khác
hy sinh?
Ông
đại tá nhìn Huân, giọng rất thành thực:
– Ý tôi muốn nói, là một người chiến
hữu, tôi khuyên anh đừng ngại ngùng nếu cần phải từ chối nhiệm
vụ. Người ta luôn luôn có những lý do chính đáng để từ chối như
vì chuyện gia đình, chuyện vợ con, v.v. Mong anh đừng quên những
điều ấy.
Rồi
ông cúi đầu bước ra. Bước thật mau như sợ người ta nhìn thấy mình
vừa nói chuyện với Huân vậy...
Xế trưa một chút ngày hôm đó, Diễm đang
bán hàng ở tiệm thì giật mình khi nhìn thấy chiếc xe díp của Huân
đỗ xịch lại trước cửa. Nàng đã tính ít nhất thì phải ba bốn ngày
Huân mới về được. Huân bước vào, đi rất mau, mặt mày nửa rạng rỡ
nửa lo buồn.
–
Sao anh về sớm vậy? Không đi công tác hả?
– Anh được rảnh chiều nay. Em giao cửa
hàng lại cho mẹ, đi với anh có được không?
– Em tưởng anh phải mấy ngày mới về
chứ.
– Chuyện
dài lắm, lát anh nói. Anh mới lãnh lương, mình đi bát phố, đi
uống cà phê nghe nhạc, đi sắm đồ, đi coi xi nê rồi anh kể cho
nghe...
Diễm
thấy lòng mình rộn lên một niềm vui khó tả. Niềm vui của cô học
trò nhìn người tình đến chở đi chơi vào một buổi chiều thứ bảy.
Xong ngay. 15 phút sau, hai người đã
ngồi trong quán cà phê Tường Vân. Thành phố Ban Mê Thuột vào
tháng 12 thì trời đã lạnh từ lâu. Diễm đẹp sắc sảo trong chiếc áo
len tím. Đôi má nàng hồng lên tự nhiên. Hai người cười nói huyên
thuyên.
Từ
ngày quen Huân, Diễm nhớ, đã lâu lắm rồi mình chưa có một buổi
chiều thơ mộng ấm cúng như chiều hôm nay. Với Huân thì cà phê Ban
Mê Thuột pha đậm, uống chung với... khói thuốc lá Capstan, bên
cạnh người tình bé bỏng thì chẳng còn gì thú bằng.
Rồi Huân chở Diễm đi chợ sắm một ít
quần áo cho đứa bé. Đi chợ ra đói bụng, hai người ghé vào tiệm
tàu ăn mì, rồi chui vào rạp chiếu bóng LoDo xem phim “Tình chàng
mãi mãi” của David Lean. Buổi tối, khi Huân dìu Diễm bước trở lên
căn gác nhỏ thân thuộc thì chàng đã có quyết định: Ngày mai,
chàng sẽ đi.
Huân chờ cho đến lúc hai người lên giường ngủ, chàng mới nói, cố
làm cho giọng mình thật tự nhiên:
– Diễm ạ, ngày mai anh đi sớm.
Diễm đã buồn ngủ, mắt ríu lại, rúc đầu
vào ngực Huân, hỏi rời rạc:
– Đi... Công... Tác?
– Ừ.
– Chừng... nào... về...
Huân không trả lời liền. Biết Diễm sắp
chìm vào giấc ngủ, chàng không muốn phá giấc. Huân vòng tay ôm
lấy vai nàng, và chờ đợi. Quả như ý chàng nghĩ, nhịp thở của Diễm
trở nên đều hòa rồi nhỏ dần. Một buổi chiều giải trí vui vẻ làm
người đàn bà có thai mệt nhoài.
Huân ngắm người yêu ngủ một lúc rồi nhẹ
nhàng đỡ đầu nàng lên gối. Chàng tốc mùng ngồi dậy, ra ngồi nơi
chiếc bàn con bật đèn lên, lấy cây bút ra hí hoáy viết vào tập vở
học trò:
Ban
Mê Thuột Thứ hai ngày 2 tháng 12 năm 1974,
Diễm yêu dấu,
Lúc em đọc những dòng chữ của lá thư
này thì anh đang ở một nơi nào đó trên đường đi thi hành công
tác. Anh ra đi nhưng để lại lòng anh ở đây. Chuyến đi này khá
lâu, khoảng 3 tuần lễ hoặc hơn và không biết anh có về kịp vào lễ
Giáng Sinh hay không. Em đừng buồn, đừng trách anh vì sao đi lâu
vậy mà không nói cho em biết. Lúc chiều, anh không dám nói vì anh
sợ buổi chiều cuối cùng của hai đứa mình sẽ trở nên buồn tẻ. Anh
tính chờ khi lên giường rồi nói nhưng nhìn thấy em ngủ ngon lành
như một đứa trẻ, anh lại đổi ý vì sợ em lại giật mình lo lắng
suốt đêm. Anh đã làm khổ em quá nhiều, cho nên, anh muốn em có
được một buổi tối an bình bên anh trước khi anh ra đi. Đừng buồn
anh nhé, rán hiểu cho anh. Và đừng khóc, Diễm ạ. Cũng đừng đay
nghiến anh, tội nghiệp anh.
Diễm ạ, lý do anh viết lá thư này vì có
một chuyện rất quan trọng anh muốn nói từ khi hai đứa mình mới
quen nhau nhưng anh chưa hề dám. Bây giờ, nếu em cho phép, anh
xin mượn trang giấy này để giãi bày: Đó là chuyện đời anh...
Từ hồi còn nhỏ đi học, đọc các bài thơ
của các thi sĩ ca ngợi tình yêu, anh thấy tình yêu đẹp thật và
thường ngồi mơ mộng hàng giờ. Anh mơ ước sau này lớn lên anh sẽ
yêu và sẽ nếm được mùi vị của tình yêu. Chuyện đó bình thường quá
phải không em, ai lớn lên mà chẳng mơ ước được như vậy? Nhưng để
anh kể tiếp...
Thế mà lớn lên, khi anh bắt đầu biết
chải đầu cho láng, biết ủi quần áo cho thẳng để đi học thì lệnh
đôn quân, lệnh bắt lính, lệnh gọi nhập ngũ ào ào đổ xuống đầu bọn
anh. Bọn anh học ngày học đêm, học phờ cả mặt mày để đuổi theo
cái tờ giấy hoãn dịch cứ lơ lửng ở trước mặt vào mỗi dịp bãi
trường. Học ở trường ban ngày xong ra lại lọc cọc đạp xe đi học
cours thêm, rồi về nhà chong đèn đến khuya để làm bài. Vừa học
vừa đập muỗi chí chóe... Nhiều đêm, học mệt đừ, nằm vắt tay trên
trán, anh cũng không thể tránh khỏi những thèm muốn rạo rực,
những đòi hỏi thầm kín của người con trai ở tuổi mới lớn. Anh
thèm xiết bao một bàn tay, một đôi môi, một giọng nói ngọt ngào,
một lá thư với dòng chữ mềm mại nghiêng nghiêng... Nếu đất nước
mình thanh bình, nếu nhân loại không bị họa cộng sản, thì những
mơ ước ấy thật là đơn giản và dễ dàng, nhưng, với bọn anh lúc đó,
những chuyện tự nhiên ấy đã trở thành khó khăn diệu vợi.
Bây giờ nghĩ lại anh mới thấy giựt
mình. Thật chưa có một thế hệ tuổi trẻ nào bị thiệt thòi nhiều
bằng tuổi trẻ Việt Nam thời ấy. Chẳng ai có một tí thì giờ nào để
dành cho tình yêu cả.
Bọn anh học đến xì khói ra như thế mà
cứ mỗi độ hè về thì thấy lớp học cứ vơi đi một cách đáng ngại.
Thằng khoác áo đi Thủ Đức, đứa hành trang ra Nha Trang Đồng Đế.
Bạn bè anh, có khi từng đứa, có khi từng nhóm một, lẳng lặng lên
đường ra đi đáp lời sông núi. Tuy thân thiết nhau lắm nhưng những
thằng ở lại không có thì giờ để nghĩ đến những kẻ ra đi. Bọn anh
còn hàng trăm thứ khác phải lo nếu không muốn “noi gương” chúng
nó vào mùa hè năm sau. Anh nhớ, ngày coi bảng đậu trung học xong
thì bọn anh còn nghỉ được một tháng để vi vút nhưng coi bảng Tú
Tài 1 xong thì chẳng có được một ngày nghỉ, phải lo mượn sách Đệ
Nhất để gạo và chuẩn bị thi Tú tài 2 ngay từ mùa hè năm ấy liền.
Nhờ cần cù học ngày học đêm, anh lọt qua nhiều cửa ải cho đến năm
Đệ Nhất... Ôi cuộc đời mình thật có nhiều cái bất ngờ. Năm đó,
vào lúc anh tưởng mình là một trong những người may mắn nhất còn
lại thì tấm bi kịch của đời anh mới bắt đầu. Em đừng cười. Anh bị
gia đình bắt đi... lấy vợ. Chuyện thật là khó tin nhưng nó đã xảy
ra ở thế kỷ 20 này.
Một buổi sáng thứ bảy, ông nội dắt anh
đi ăn sáng. Ngồi trong tiệm phở, ông anh đưa cho anh coi một tấm
hình của một người con gái... xấu ỉn. Rồi ông bảo hai gia đình đã
đồng ý cho bọn anh lấy nhau, ăn xong chở ông đi may quần áo cưới
rồi lên nhà đàng gái để hai đứa làm quen nhau.
Mới đầu, anh tưởng ông nội anh đùa. Anh
là con trai, có học thức, và lại đang sống ở thế kỷ 20, đâu phải
là cô Loan trong Đoạn Tuyệt của thế Kỷ 19? Ông anh lắc đầu bảo
chuyện thật đấy, không đùa đâu. Anh phản đối dữ dội. Ông anh
chẳng nói chẳng rằng, bỏ đũa đứng lên bảo: “Con cháu bất hiếu như
thế thì tao đâm đầu vào xe tao chết đi chứ sống làm gì”. Rồi ông
bỏ chạy ra ngoài, cứ đòi đâm đầu vào cái dòng xe cộ đang đi lại
như mắc cửi ở đường Trương Minh Giảng. Anh phải can mãi mới được.
Tối về nhà, anh nói chuyện với bố, bố
anh bảo: “Tao cực khổ suốt một đời nuôi mày khôn lớn, mày chưa
làm gì đền đáp bây giờ lại cãi tao à? Nhà người ta cũng là chỗ
môn đăng hộ đối chứ có phải cùi hủi gì đâu.” Anh bảo: “Con không
dám cãi thầy nhưng con còn đang đi học, con chưa nghĩ đến chuyện
ấy.” Bố anh lại bảo: “Lấy vợ về học cũng được. Ý tao đã quyết mày
đừng có gàn dở.”
Mãi sau này anh mới biết là anh được
“gả” để trừ đi số nợ nhà còn thiếu người ta hồi ở miền Bắc.
Anh buồn khổ đến sinh bệnh nhưng chẳng
tìm được một lối thoát nào cho mình cả. Anh đành phải “vâng lệnh
song thân” mà lấy vợ như người ta thường đề trong mấy cái thiệp
cưới.
Lúc đứng
làm lễ tế gia tiên, anh dâng hương mà không làm sao ngăn được hai
dòng nước mắt cứ trào ra, anh sụt sùi khóc. (Vợ anh thấy thế liền
bắt chước khóc theo, và còn khóc to hơn cả anh nữa.) Anh khấn
rằng: “Ông bà tổ tiên linh thiêng về đây chứng giám cho con. Đạo
làm trai của người Việt là Trung và Hiếu. Con đã vâng lệnh song
thân lấy vợ để làm tròn chữ Hiếu. Lấy vợ xong, con sẽ đi lính để
giữ trọn chữ Trung”.
Tiệc cưới to lớn, ai nấy mặt mày hả hê
sung sướng. Riêng anh, anh có cảm giác như bài thơ của đời mình
mới làm được hai câu, chưa kịp đọc lại thì bị một bàn tay vô hình
nào xé toạc mảnh giấy ấy vất đi. Anh nhìn hai họ vui cười mà mơ
ước được vui vẻ như họ. Tàn tiệc, bố anh đến bên anh, vỗ vai anh
bảo: “Rồi mày sẽ quen đi con ạ.” Cho đến bây giờ, anh vẫn không
thể nào quên được câu nói ấy.
Rồi anh đi lính. Rồi anh gặp em...
Mới đầu, gặp em, anh chỉ muốn đùa một
tí với em nhưng không ngờ anh yêu em thật. Đây là lần đầu tiên
anh khám phá ra sự tuyệt vời của tình yêu. Nhờ tình yêu mà thế
giới này tồn tại được, thi sĩ làm thơ được, người thợ mộc đóng
bàn ghế được, thầy giáo dạy học được, v.v. Anh biết yêu trễ đến
hơn 10 năm nhưng anh cảm ơn trời đã cho anh biết được mùi vị của
tình yêu. Tuyệt vời lắm. Mỗi lần nhìn em, anh quên hết. Quên
chiến tranh, quên hận thù, quên luôn cả tấm bi kịch của đời mình
nữa để chỉ nghĩ đến em.
Diễm yêu dấu,
Bây giờ là 2:00g sáng rồi. Anh vừa kể
lại chuyện đời mình cho em nghe, không phải để chạy tội, không
phải để em thương xót mà để chứng tỏ tấm lòng của... Dù tốt hay
dù xấu thì anh cũng là nạn nhân. Anh hiểu trách nhiệm nặng nề của
mình đối với em, và anh đã có một quyết định dứt khoát: Xong
chuyến công tác này trở về, anh sẽ dắt em về nhà nói với bố mẹ
anh là anh đã yêu em, đã có con với em, và sẽ ly dị vợ anh để
cưới em.
Em có
tin không? Nếu bố mẹ anh không chịu, anh vẫn cưới em như thường.
Sau 6 năm ở lính, anh học được một điều quan trọng: Con người ta
chỉ sống có một lần, cho nên, đừng để bố mẹ hay bất kỳ ai sống
giùm mình cuộc đời mình.
Thôi, anh dừng bút. Nhớ đừng khóc, đừng
buồn, và rán ăn thật nhiều. Anh đi chuyến này là để kiếm một món
quà vô giá tặng thành phố Ban Mê Thuột. Anh không tiện nói ra bây
giờ nhưng anh sẽ nói khi anh trở về. Và anh sẽ về trước lễ Giáng
Sinh. Anh hứa.
Yêu em,
Anh...
*****
Thiếu tướng Phạm Văn Phú gấp tập hồ sơ
lại để trên bàn họp rồi đứng lên tiến gần tới tấm bản đồ sau
lưng. Ngồi dài theo hai bên dãy bàn họp trước mặt ông là 4 ông
tướng: Tư lệnh phó Quân Đoàn, Tư lệnh Sư đoàn 22 và 23 bộ binh,
ông tướng Tư lệnh Sư đoàn 6 Không Quân, và khoảng 25 ông tá...
toàn là sĩ quan tham mưu của Quân Đoàn II. Ai nấy nghiêm trọng
nhìn lên chờ nghe Tướng Phú.
Tướng Phú vỗ cây gậy chỉ huy trong tay
rồi nói:
–
Cách đây hơn tuần, tôi được thông báo của Phòng 2 Quân Đoàn là
họ phát hiện được 1 lực lượng khá đông quân số của các Sư đoàn
320 và 968 ở phía Tây và phía Nam Pleiku, Sư đoàn 10, Sư đoàn
316, và Sư đoàn 968 chính quy Bắc Việt ở mật khu Bù Gia Mập. Thêm
vào đó, còn Trung đoàn 3 cao xạ nặng, 1 Trung đoàn pháo nặng, và
1 Trung đoàn xe tăng cũng ở khu Bù Gia Mập.
Cả phòng họp... nín thở. Nét ưu tư hiện
rõ trên từng khuôn mặt của mỗi vị sĩ quan. Tướng Phú liếc nhìn
Đại tá Phùng rồi tiếp:
– Để xác nhận tất cả chuyện này, tuần
trước, tôi cho Lôi Hổ mình nhảy xuống phía bắc của KonTum và
xuống Bù Gia Mập để “tìm hiểu”. Anh em Lôi Hổ đã bắt được nhiều
tù binh và đã xác nhận được tất cả chuyện này. Những tin tình báo
mới nhất của Phòng 2 cũng tái xác nhận chuyện này, và không ảnh
của Không quân cũng xác nhận. Đây là một bất ngờ đối với tôi...
Tướng Phú ngừng nói và nhăn mặt lại.
Rồi ông chỉ cây gậy vào mật khu Bù Gia Mập:
– Điều khó hiểu hơn cả là tại sao chúng
nó lại ở đây?
Ông lại... nhăn mặt, lắc đầu nói tiếp:
– Đây là câu hỏi nằm trong gan trong
ruột tôi suốt tuần lễ qua. Chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay
đánh Quảng Đức? Hay chúng nó không đánh cả hai mà chỉ muốn lừa
mình để đánh Pleiku? Nói về sự kiện thì chúng nó sẽ đánh Ban Mê
Thuột hay Quảng Đức, còn theo sự suy luận của tôi thì Ban Mê
Thuột hay Quảng Đức chỉ là diện, còn Pleiku mới là điểm...
Tướng phú tiến trở lại bàn họp, bỏ cây
can lên bàn, ngồi xuống mồi điếu thuốc:
– Bon. Tôi mời anh em tới đây để thảo
luận vấn đề này. Vậy thì, anh em có ý kiến gì, cứ tự nhiên trình
bày...
Chỉ chờ
có thế là cả phòng họp có nhiều bàn tay giơ lên xin phát biểu
liền. Ai cũng muốn cho Tướng Phú thấy cái tài kinh luân của mình.
Tướng Phú chỉ từng người một để cho ý kiến. Ai nói sao ông cũng
gật đầu nhưng chỉ trả lời rất ít.
Khoảng một tiếng sau, Tướng Phú giơ tay
làm dấu cho mọi người im lặng. Ông đứng lên bục gỗ:
– Cám ơn các anh em đã bàn thảo thật
sôi nổi và hào hứng. Bây giờ tôi quyết định như thế này. Trước
hết, tôi nhờ Tham mưu trưởng Quân Đoàn gọi điện thoại cho tỉnh
trưởng Ban Mê Thuột và tỉnh trưởng Quảng Đức bảo 2 ông này ngày
mai đem hết sơ đồ cùng kế hoạch phòng thủ mới nhất của tiểu khu
mình lên đây gặp tôi. Tôi muốn biết rõ chi tiết từng viên đạn và
từng trái mìn, từng vị trí của các đơn vị phòng thủ.
– Nhận rõ Thiếu tướng.
Tướng Phú chỉ cây gậy vào bản đồ:
– Anh Thịnh, anh cho một thành phần của
thằng 45 (Trung đoàn 45, Sư Đoàn 23 Bộ Binh) của anh hành quân
lục soát từ chỗ này, phía Nam của Đức Lập về tới phía Bắc của
Quảng Đức cho tôi. Đồng thời, cho một thành phần của thằng 53
(Trung đoàn 53/SĐ23BB) cũng hành quân lục soát từ Ban Mê Thuột
về hướng Nam. Tướng Nhân Không Quân lo đầy đủ trực thăng để vận
chuyện 2 toán quân này nội trong ngày mai.
– Nhận rõ Thiếu tướng.
– Nhận rõ.
– Anh Tài, anh cho thằng 21 Biệt Động
của anh di chuyển gấp về án ngữ ở phía Nam Ban Mê Thuột, ngay chỗ
này để làm trừ bị cho tụi 23 bộ binh.
– Nhận rõ...
– Anh Viễn, về phía Bắc KonTum, anh cho
thằng...
Tướng
Phú ra lệnh và chỉ thị một thôi không ngừng nghỉ. Đại tá Phùng
nhìn ông Khiếu trao đổi một cái nhìn thỏa mãn. Cuối cùng, ông
tướng có vẻ bắt đầu nghĩ tới Ban Mê Thuột rồi. Tuy nhiên, Đại tá
Phùng biết, ông tướng vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Ở địa vị ông,
ông phải thận trọng để điều quân đi thăm dò như vậy. Tướng Phú ra
lệnh “một phần của trung đoàn” tức là 1 hoặc 2 tiểu đoàn. Phần
còn lại ông vẫn còn muốn bố trí để giữ Pleiku. Theo ông, chỉ có
Pleiku mới quan trọng thôi, còn ngoài ra đều có thể cứu được hết.
Kể cả Ban Mê Thuột, kể cả Quảng Đức. Tuy nhiên, Đại tá Phùng cùng
Trung tá Khiếu đã liệu trước việc này. Hai người sẽ có trưng bằng
chứng cho Tướng Phú biết về ý đồ của cộng sản.
Và tất cả chuyện quan trọng này đều nằm
trong tay một sĩ quan Biệt Kích tài giỏi của ông: Đại úy Huân.
Phải, chỉ có Đại úy Huân mới cứu Ban Mê Thuột được.
*****
Khi chiếc trực thăng chở toán của Huân
đáp xuống bãi đậu của Chiến đoàn, chàng chẳng ngạc nhiên chút nào
khi nhìn thấy, ngoài Đại tá Phùng cùng toàn bộ ban tham mưu của
chiến đoàn ra đón, còn có cả Thiếu tướng Khấn, Tư lệnh phó Quân
Đoàn II và ít nhất là 3 ông đại tá khác của Quân Đoàn. Huân
hiểu những gì nằm trong chiếc máy hình và những gì chàng ghi nhận
được suốt 20 ngày qua trong mật khu Bù Gia Mập sẽ có một giá trị
to lớn mà không ai có thể ước lượng được. Nhưng Huân không có thì
giờ để suy nghĩ nhiều. Đầu óc chàng đang bận rộn để chuẩn bị cho
bài thuyết trình về chuyến công tác vừa qua của chàng.
Huân thò tay ra bắt tay 2 người phi
công trực thăng rồi nhảy xuống. Đại tá Phùng giơ tay đáp lễ cái
chào của Huân rồi giới thiệu chàng với ông tướng và mấy sĩ quan
cấp tá của Quân Đoàn. Huân chào họ và đón nhận những cái bắt tay
vồn vã và những cái nhìn thán phục.
Một tay bắt tay Huân, tay kia nắm lấy
vai chàng, Đại tá Phùng nói:
– Chúc mừng anh. Kết quả sơ khởi mà tôi
nghe được rất là khích lệ, lát nữa mình nói nhiều.
Đại tá Phùng quay nhìn ông tướng Tư
Lệnh Phó:
–
Kính mời Thiếu tướng cùng phái đoàn vào Câu Lạc Bộ dùng cơm trưa,
chừng nửa tiếng nữa chúng tôi sẽ có mặt ở phòng họp Chiến đoàn để
thuyết trình cho Thiếu tướng cùng quý vị.
Phái đoàn ông tướng bước về phía Câu
Lạc Bộ. Đại tá Phùng phóng lên chiếc xe díp, Huân leo lên ngồi
bên cạnh, ông Trung tá Khiếu cũng leo lên ngồi phía sau. Đại tá
Phùng chưa kịp đề máy xe thì Huân đã hỏi liền:
– Đại tá... Cho xin điếu thuốc.
– À, xin lỗi, tôi quên... Anh giữ
nguyên cả gói mà hút.
Huân nhận gói CAPSTAN còn đầy từ tay
người chỉ huy trưởng, kẹp một điếu vào môi rồi chẳng cần khách
sáo, thản nhiên bỏ nguyên gói thuốc vào túi áo mình.
20 ngày qua trong rừng rậm, không biết
bao nhiêu lần Huân mơ ước chỉ được cầm một điếu thuốc lá trong
tay như thế này. Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng cái bật lửa.
Chiếc xe phóng vút đi. Ông Phùng cố gắng để giữ cho giọng mình
được bình tĩnh để hỏi câu hỏi quan trọng nhất của chuyến công
tác:
– Ban Mê
Thuột hay Pleiku?
Huân mỉm cười, chưa thèm trả lời vội.
Chàng hít thêm một hơi thuốc lá cho đầy hai buồng phổi, rồi mới
đủng đỉnh trả lời qua làn khói:
– Ban Mê Thuột!
Đại tá Phùng nghiến răng sang số xe
thật mạnh như muốn bộc lộ một sự giận dữ nào đó:
– Chắc không?
– Chắc như bắp Đại tá. Không trúng tôi
nghỉ ăn lương chính phủ.
Đại tá Phùng tiếp tục nhăn mặt lại
nhưng Trung tá Khiếu lại gật gù cái đầu:
– Quả đúng y như bọn mình dự đoán.
Chiếc xe díp thắng lại trước Ban II của
Chiến đoàn. Một người sĩ quan chạy vội ra như đã chờ đợi sẵn từ
lâu. Huân đưa cho anh ta 2 cái máy hình và cái túi đựng tài liệu
cùng phim ảnh của chuyến công tác.
Đại tá Phùng hỏi người sĩ quan:
– Nửa tiếng xong không?
Vị sĩ quan gật đầu:
– Thưa hình thì chúng tôi sẽ rửa được
nhưng sẽ còn hơi ướt. Về tài liệu thì chúng tôi chỉ phối kiểm
những tin quan trọng trước thôi.
– Tốt. Hình ướt cũng được. Phần tin tức
thì giải trình được bao nhiêu đem hết sang tôi liền.
Chiếc xe lại lao vút đi. Huân mồi điếu
thuốc thứ hai. Ba người sĩ quan bước vào phòng giải trình của
Chiến đoàn. Đại tá Phùng mở tủ lạnh, khui cho mỗi người một chai
bia 33:
– Ăn
mừng. Phải ăn mừng chuyến công tác này mới được.
Huân ngửa cổ tu một hớp bia. Tiên sư,
trên đời sao lại có những thứ thức uống ngon đến như vậy nhỉ? Âu
đây cũng là một phần thưởng trời dành cho những người lính như
chàng. Ở trong rừng gần 1 tháng không được uống bia, không được
hút thuốc, lúc cầm lại điếu thuốc hay chai bia mới thấy giá trị
của nó và mới thấy được làm người, được... uống bia hút thuốc,
được hít thở khí trời tự do quả thật là thú. Chàng lắc lắc chai
bia trong tay rồi lại đưa lên cao. Lần này Huân uống hết sạch.
Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng một chai nữa.
– Cám ơn Đại tá.
Huân nói rồi từ từ tiến tới tấm bản đồ
treo trên tường, cầm cây thước trong tay để chuẩn bị phần giải
trình nhưng ông Phùng đã gạt đi:
– Khỏi, cứ ngồi xuống đây, chờ lát nữa
sang thuyết trình với ông tướng, anh trình bày cặn kẽ luôn cũng
được.
Xong
ngay, Đại tá muốn vậy thì đỡ mất thì giờ với phần thủ tục. Ông
chiến đoàn trưởng đi thẳng vào vấn đề:
– Tóm tắt, chuyện gì làm anh quả quyết
là chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột?
– Sa bàn.
– Sa bàn thành phố Ban Mê Thuột?
– Đúng. Chỗ chúng tôi nằm là khu tập
trung không phải của tụi 316 mà của Trung đoàn 95B.
Đại tá Phùng nhìn Trung tá Khiếu. Ông
Khiếu gật đầu như xác nhận sự xuất hiện đó là đúng.
– Chúng nó tập trận liên miên cả tuần
lễ. Riêng tiểu đoàn gần tôi nhất thì chúng nó thực tập đánh cổng
trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
– Sao anh biết đó là cổng trước của Bộ
Tư Lệnh Sư Đoàn 23?
– Tôi ở Ban Mê Thuột này gần năm rồi.
Đường đi vào Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 23 có cái công viên, bên cạnh
công viên là cái nhà thờ Quân Đội. Chúng nó có cả hình dáng cái
nhà thờ này. Lát nữa hình rửa xong Đại tá sẽ thấy...
– Về cái sa bàn của thành phố, anh thấy
ở đâu?
– Trong
phòng họp của bộ chỉ huy Trung Đoàn. Tôi chụp được hình ảnh đầy
đủ, lát nữa Đại tá sẽ thấy.
– Ngoài ra anh còn biết gì nữa không?
– Chúng tôi phát giác và nghe lóm được
đường dây điện thoại giữa trung đoàn và sư đoàn, tôi có ghi lại
nhiều chi tiết. Lát nữa Phòng 2 đưa qua Trung tá sẽ thấy...
Đại tá Phùng thở dài, mồi điếu thuốc.
Ông quay sang Trung tá Khiếu:
– Anh Khiếu có gì hỏi không?
– Thưa có!
– Mời Trung tá tự nhiên...
– Trước hết, tôi xin cám ơn và chúc
mừng anh về chuyến công tác đầy cam go. Chiều nay tôi và Đại tá
Phùng sẽ tháp tùng Tướng Khấn về Pleiku để gặp Tướng Phú liền.
Thực ra bọn tôi đã nghi ngờ chuyện này từ lâu, nhưng kẹt một cái
là ông Tướng Phú... Anh biết, ông tướng có vẻ không tin tưởng
những tin tức tình báo của chúng ta đưa lên lắm... Ngoài những gì
anh nói, anh nghĩ anh có tấm hình hay bằng chứng nào để tôi có
thể thuyết phục được Tướng Phú không?
Tự nhiên, Huân bỗng nổi giận. Mình và
lính vừa lội vừa nằm gần đúng 20 ngày trong lòng đất địch, sự
sống như treo chỉ mành hằng ngày để khám phá ra cái tin tức quý
giá này đem về. Nhưng như vậy chưa đủ, ở trên còn muốn mình phải
tìm cách chứng mình hay thuyết phục họ. Chuyện đánh Việt cộng
là chuyện của ai nhỉ? Khôi hài thật. Chẳng khác gì một nhà buôn
ngọc, sau khi tìm ra viên ngọc quý, không đem bán mà lại đem cho,
nhưng trước khi cho người ta còn phải mất công thuyết phục người
nhận ngọc đó là viên ngọc thật... Chàng nhìn Trung tá Khiếu:
– Thưa Trung tá, tôi được giao một bổn
phận và đã làm xong, những gì còn lại như vấn đề ở trên có tin
hay không, không thuộc thẩm quyền của tôi.
Trung tá Khiếu gật gù cái đầu ra dấu
thông cảm.
Ngay lúc ấy có tiếng gõ cửa rồi vị sĩ quan phòng phim ảnh của
Chiến đoàn xuất hiện với một núi hình ảnh trên tay. Mặt mày anh
ta vừa hớn hở vừa... tái mét, nhìn Đại tá Phùng nói nhưng giọng
lạc đi vì xúc động:
– Tụi mình phải cho vợ con đi khỏi Ban
Mê Thuột này càng sớm càng tốt Đại tá ơi. Em coi mấy tấm hình
chụp em muốn lạnh gáy...
****
Huân và Diễm tối hôm ấy lại trở về ngồi
trên chiếc ghế đá công viên của thành phố Ban Mê Thuột. Ngay trên
chiếc ghế cũ mà 2 người đã ngồi ngày mới quen nhau. Chỉ khác hơn
là, lần này họ ngồi sát nhau, cùng nhìn về hướng ánh đèn sao chổi
sáng lừng từ cái tháp chuông của Nhà Thờ Quân Đội ở bên kia đường
chiếu ra...
Tự
nhiên, Huân hỏi:
– Em biết nhà thờ đó tên là gì không?
– Không!
– Vậy là em thua anh rồi. Đó gọi là nhà
thờ Quân Đội.
– Ừ. Anh đi đạo lúc nào mà rành quá vậy?
– Không đi nhưng anh biết. Em biết đằng
sau ánh đèn sao chổi đó là gì không?
Diễm co ro vì lạnh, áp người thật chặt
vào lưng Huân:
– Không...
Huân lại nhớ đến cái sa bàn của Việt
cộng ở trong mật khu Bù Gia Mập. Theo đúng kế hoạch, khu vực này
được giao cho Trung đoàn 95B và 1 đại đội xe tăng. Sau cỡ 5 ngàn
trái pháo, chúng nó sẽ đi diễn hành trên quốc lộ mà vào, làm một
mũi dùi chính đánh thẳng vào đây để nuốt gọn Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn.
Huân nhăn mặt:
– Là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.
Diễm cười rất vô tư:
– Tưởng chuyện gì, anh thì lúc nào cũng
hết Bộ Tư Lệnh rồi đến Bộ Chỉ Huy... Ở bên em anh tạm quên mấy
thứ đó đi có được không?
Huân đốt điếu thuốc lá, lòng se lại khi
nghĩ đến vùng đất hiền hòa này sẽ trở thành một bãi chiến trường
đẫm máu nay mai. Chàng thấy thương cho Diễm cũng như cho tất cả
những người dân của cái thành phố này.
Diễm cầm tay Huân:
– Quên chuyện đó đi anh, anh viết thư
hay lắm, cứ như văn sĩ.
Huân cười:
– Ở gần một người đẹp như em mà không
trở thành văn sĩ thì thật là bất lịch sự và ngu xuẩn. Mà này, nói
thật đi, sáng hôm ấy em có khóc không?
– Có.
– Anh cũng đoán vậy.
Rồi Huân đứng lên:
– Em muốn đi bách bộ một lát không?
– Đi thì đi.
Hai người đi bên cạnh nhau. Diễm cúi
đầu đếm bước, quàng hai tay qua tay Huân. Huân thọc hai tay vào
túi, cứ ngước mặt lên nhìn cái sao chổi làm bằng mấy trăm cái
bóng đèn chạy dài từ trên tháp chuông xuống. Tới cuối công viên,
Huân rủ:
–
Mình đi bộ qua nhà thờ chơi...
– Ý kiến hay!
Vừa băng qua đường, Huân nghe được
tiếng tập hát từ trong nhà thờ vọng ra: “Cao cung lên, khúc nhạc
Thiên Thần Chúa...” Huân hỏi:
– Mau quá, tối ngày mốt là Noel rồi
nhỉ?
Huân dừng
bước trước hang đá Đức Mẹ trước nhà thờ, hỏi Diễm:
– Em biết cầu kinh không?
Diễm lắc đầu:
– Không nhưng trông bà ấy đẹp và hiền
hậu ghê nhỉ? Em nghĩ ai đến cầu bà này điều gì bà ấy cũng cho
hết. Bả hiền quá.
– Vậy thì em cầu thử đi.
– Anh phải cầu với em.
– Ừ. Nhưng phải bỏ tay anh ra và đứng
nghiêm trang lại, chắp lên ngực như cái ông đang đứng đàng trước
em kia kìa.
Hai người chắp tay. Diễm
lẩm bẩm mấy lời cầu rồi cúi đầu vái mấy cái. Huân cười, bảo:
– Đừng có vái, người ta cười. Ở đây em
thấy có ai vái đâu?
Diễm vẫn tiếp tục vái và nói:
– Ai cười mặc họ, Diễm muốn tỏ lòng tôn
kính. Cầu mà không vái thì mất linh đi.
Hai người đi dạo 1 vòng rồi trở về công
viên. Huân hỏi:
– Lúc nãy em cầu gì vậy?
– Cầu cho hai đứa mình được nên duyên
vợ chồng. Em lo quá.
Huân cười:
– Muốn nên duyên vợ chồng thì em phải
cầu cho vợ anh nó... trúng gió chết.
– Anh chỉ nói bậy. Những gì anh nói
trong thư có thật không anh?
– Thật, thật lắm.
– Còn anh, lúc nãy anh cầu gì vậy?
– Cũng cầu như em nhưng anh có thêm một
lời cầu đặc biệt...
Huân bỏ lửng câu nói, đứng lại cầm tay
Diễm:
– Diễm,
em nghe cho kỹ đây. Sau Noel, anh muốn em và má dọn hết đồ đạc về
Nha Trang ở tạm một thời gian...
Diễm sững sờ:
– Sao vậy anh?
Huân kéo Diễm ngồi xuống ghế, nói thật
chậm, thật rõ ràng và thật tha thiết:
– Những gì anh sắp nói, em phải thề giữ
tuyệt đối bí mật.
– Mà chuyện gì vậy... rồi, em hứa.
– Em có biết chuyến đi công tác 20 ngày
vừa rồi của anh không?
– Sao?
– Anh biết được 1 chuyện rất quan
trọng. Việt cộng đã đem 4 sư đoàn vào đây để chuẩn bị đánh Ban
Mê Thuột.
Một
cái tin động trời như vậy, cái tin làm cho cả Quân Đoàn II từ
ông Tướng Phú xuống đến anh lính hạng bét mất ăn mất ngủ mà với
Diễm thì chẳng có nghĩa lý gì. Đánh nhau thì hai bên ngày nào lại
chẳng đánh, sao lại lo sợ vậy nhỉ? Giọng Diễm vẫn tỉnh bơ, chẳng
có chút gì hốt hoảng hay sợ hãi:
– 4 sư đoàn là nhiều lính không anh?
Huân lắc đầu chán nản. Hình như lúc
trời sinh ra đàn bà, ngài quên nhét vào đó một chút óc nhà binh.
Huân kiên nhẫn giải thích:
– 4 sư đoàn là cỡ vài chục ngàn thằng
lính bộ đội. Mỗi thằng 1 cây AK. Khi vào đây rồi, chúng nó sẽ tàn
phá, sẽ bắn giết, sẽ cày nát cái thành phố thơ mộng này ra như
cám hoặc trước tết hoặc sau tết.
Diễm tròn mắt:
– Anh nói thật?
À, thế này thì có ép phê rồi. Huân tiếp
tục:
– Chưa
bao giờ thật bằng. Em tưởng tượng đi, 20 ngàn thằng lính vào đây,
mỗi thằng chỉ cần bắn một phát thôi thì Ban Mê Thuột cũng đủ tan
hoang. Đó là chưa nói tới xe tăng, chưa nói tới đại pháo... Vì
vậy cho nên lời cầu đặc biệt của anh lúc nãy là cầu cho Ban Mê
Thuột, cầu cho thành phố yêu dấu này. Cầu cho ông Tướng Phú được
sáng suốt để đỡ trận này. Nhưng quan trọng nhất là em và mẹ phải
đi khỏi nơi đây. Đi liền càng sớm càng tốt. Đang thai nghén như
em, ở lại đây không tiện chút nào hết.
Giọng của Diễm trở nên hơi gay gắt,
nhưng Huân chưa để ý đến:
– Anh muốn em đi. Nhưng còn chuyện
thành hôn của hai đứa mình như anh nói trong thư thì thế nào?
– Mình không còn thì giờ nữa! Nội trong
tuần tới, em và má phải thu xếp cho xong đồ đạc và dọn đi liền.
Nói xong thì Huân đọc ngay được vẻ bất
mãn trong đôi mắt Diễm. Hình như đã có chút nước mắt trong đó
rồi. Giọng nàng như cố giấu một nỗi chua xót trong lòng:
– Em thì sao cũng được, nhưng má em
chắc không chịu đi đâu...
Huân nắm tay Diễm:
– Em phải bắt má đi.
Diễm hất tay Huân ra, quay nhìn đi nơi
khác để che giấu một giọt nước mắt:
– Má em cứng đầu lắm...
Huân lại nắm tay Diễm. Diễm lại hất tay
chàng ra. Rồi quay lại nhìn Huân, hai hàng nước mắt chảy dài trên
má:
– Anh
Huân, nếu anh đổi ý, không muốn cưới Diễm nữa thì cũng được, anh
cần gì phải bày vẽ 3 sư đoàn với 4 sư đoàn Việt cộng làm gì.
Chẳng thà anh nói thật đi, Diễm thông cảm anh. Diễm tha thứ cho
anh. Dù sao, Diễm cũng chỉ là người đến sau... Diễm biết thân
phận mình, Diễm không có quyền...
Huân tròn cặp mắt lại:
– Diễm, em nói gì vậy?
Diễm nghẹn ngào, vừa nói vừa khóc:
– Diễm nói anh muốn cưới Diễm thì cưới,
còn không thì cứ việc đi đi, không ai giữ anh đâu. Làm gì phải
đem Việt cộng vào đây mà dọa nhau...
Rồi nàng đứng dậy bỏ đi mau như chạy.
Huân bước mau theo và thấy cổ họng mình muốn tắt nghẹn. Trời cao
có mắt về đây chứng giám cho thằng Huân này.
Huân bắt kịp Diễm, níu lấy tay nàng.
Diễm lại hất ra. Nước mắt tiếp tục chảy đầm đìa trên mặt nàng.
Huân khổ sở:
–
Diễm, em phải hiểu. Anh thương em nhất trên đời này.
– Tôi không cần. Anh về với vợ anh đi.
Anh đi đi, và đừng bao giờ trở lại đây gặp tôi nữa. Con tôi, tôi
sẽ nuôi được. Nếu tôi đẻ con gái, tôi sẽ cấm nó tuyệt đối không
được quen với lính, không được yêu lính, nhất là thứ lính... Lôi
Hổ... Con cọp bạc tình bạc nghĩa như anh...
– Diễm, anh năn nỉ em... Em nghĩ lại,
lòng anh, em biết...
– Tôi không cần thứ lòng đó. Anh bảo
anh đi công tác 20 ngày. Anh về Sài Gòn với vợ anh 20 ngày chứ
công tác gì. Anh sợ trách nhiệm, sợ nuôi con, muốn dứt tình thì
cứ nói, việc gì phải đem Việt cộng vào tận Ban Mê Thuột để dọa
mẹ con tôi...
Huân thấy trời đất quay cuồng chung quanh mình. Chàng đứng sững
người lại làm như nếu bước thêm một bước nữa thì sẽ nhào xuống
liền tức thì. Rồi đột nhiên, chàng nổi giận. 20 ngày công tác đói
rét nguy hiểm trong rừng, một trái tim rướm máu vì tình yêu, một
tuổi thơ đầy dẫy bi kịch, và chưa hề được yêu, được sống như một
người bỗng bùng dậy trong lòng người đại úy Lôi Hổ trẻ tuổi...
Huân chạy theo nắm lấy tay Diễm kéo lại
thật mạnh. Diễm mất đà khựng người lại, cả cánh tay đau nhói lên
vì bị cú kéo ngược bất ngờ quá đau. Nàng kêu lên một tiếng kêu
đau đớn, loạng choạng mất thăng bằng. Huân đỡ được nàng ngã vào
lòng mình. Chàng giữ chặt lấy Diễm. Nhìn những giọt nước mắt trên
mặt Diễm, lòng Huân lại mềm ra. Diễm dùng hết sức để xô Huân ra
và đay nghiến:
– Anh cứ việc giết tôi đi. Sao anh
không giết tôi đi? Anh giết người quen rồi, anh cứ việc giết tôi
đi...
Rồi Diễm
khóc lên nức nở. Huân ghì chặt lấy Diễm, lắp bắp:
– Không, Diễm, anh yêu em, anh yêu
em... Em đừng nói thế... anh yêu em... Anh xin lỗi...
Diễm toan đay nghiến nữa nhưng bỗng im
bặt khi nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh trong mắt và trên
má chàng. Nàng ngạc nhiên lắm. Không ngờ ông đại úy dày dạn phong
sương này cũng khóc được.
Huân ôm lấy Diễm, tha thiết nói như một
người trong tận cùng của sự thống khổ:
– Diễm, anh yêu em... Anh yêu em... Anh
xin lỗi...
Diễm không trả lời, luồn tay vào tóc Huân, kéo đầu chàng xuống,
đặt lên đôi mắt u buồn ướt lệ ấy một cái hôn. Nàng biết, biết từ
lâu rằng Huân yêu mình thật...
*****
Tướng Phú ngừng nói. Phòng họp Bộ Tham
Mưu Quân Đoàn im lặng như tờ. Ông nhìn cả phòng họp một lúc rồi
tiếp tục:
–
Như vậy, tất cả những thắc mắc của tôi đã được giải đáp thỏa
đáng... Và câu trả lời đã trở nên rõ ràng như ban ngày: Chúng nó
sẽ đánh Ban Mê Thuột...
Đến đó, Tướng Phú ngừng nói và bỗng bật
lên một cơn ho sụ sụ. Lát sau, Tướng Phú lại hỏi khi dứt cơn ho:
– Có ai thắc mắc gì hay có điểm gì
không đồng ý với tôi không...
Không có tiếng trả lời.
– Bon, bây giờ tôi có thể an tâm để dồn
hết sức lực chuẩn bị cho chiến trường Ban Mê Thuột. Tôi muốn
Phòng 2 trình cho tôi một kế hoạch phòng thủ toàn diện thành phố
Ban Mê Thuột trong vòng 24 giờ đồng hồ. Kế hoạch các anh em làm,
phải trả lời và đi sâu những chi tiết sau đây cho tôi:
Thứ nhất, mình có cách nào để ngăn chặn
cuộc tổng tấn công điên cuồng này trước khi nó bắt đầu hay không?
Hãy nghĩ đến lực lượng và những ưu điểm mà mình có trong tay,
hoặc bằng Không quân, hoặc bằng bộ binh, hoặc bằng Pháo, v.v.
Hoặc giả, mình có thể kiếm một cái vùng giao tranh nào khác ngoài
Ban Mê Thuột để ép chúng nó nhận làm chiến trường không?
Thứ hai, nếu không ngăn chặn được, mình
phải bố trí lực lượng như thế nào để chuẩn bị đón đánh và tiêu
diệt được 4 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn địa phương, 1 trung
đoàn pháo, 1 trung đoàn cao xạ nặng, 1 trung đoàn xe tăng, và 1
tiểu đoàn đặc công của chúng. Anh em chớ quên một yếu tố quan
trọng là bây giờ lá bài nằm trong tay mình. Mình đã biết đâu là
điểm đâu là diện. Yếu tố bất ngờ đã mất, chúng nó đưa vào bao
nhiêu thì mình sẽ nướng hết mấy nhiêu.
Thứ ba, tôi sẽ xin tăng viện từ Sài
Gòn, anh em nghiên cứu cho tôi mình bao nhiêu lực lượng. Theo tôi
nghĩ, mình phải được tăng cường ít nhất là 4 Lữ đoàn Dù hoặc TQLC
đang nằm nghỉ mát ở miền Trung. Các lực lượng trừ bị tinh nhuệ
này hoặc sẽ làm búa tấn công chúng nó trước, hoặc sẽ làm đe để
chận đường rút của chúng. Về Không Quân, tôi sẽ xin tăng cường 2
phi đoàn trực thăng và 2 phi đoàn khu trục. Tướng Nhân lo chỗ ăn
ở cho 4 phi đoàn này và trình cho tôi một kế hoạch để sử dụng
những lực lượng tăng phái này.
Thứ tư, quan trọng nhất, Việt cộng đã
biết đánh nghi binh suốt mấy tháng qua để dụ mình thì mình cứ để
cho nó... dụ. Đại tá Long Công binh cho tăng cường xây thật nhiều
công sự phòng thủ ở Kontum, và anh Tài, anh cho 2 Liên đoàn Biệt
Động của anh cứ tiếp tục hành quân lục soát dữ dội ở phía bắc
Dakto để cho chúng nó tưởng rằng nó dụ được mình. Tất cả các lực
lượng đang hành quân lục soát ở phía Nam Ban Mê Thuột của Sư Đoàn
23 cho rút về hết để chờ lệnh mới.
Thứ năm, trong vòng một tuần lễ, các
tiểu đoàn Địa Phương Quân của các tiểu khu Pleiku, Bình Định,
Ninh Thuận, và Bình Thuận sẽ trở thành lực lượng chính để bảo vệ
lãnh thổ mình. Tôi sẽ đưa tất cả quân số của 2 Sư Đoàn 22 và 23
và các liên đoàn Biệt Động Quân lên Ban Mê Thuột để chuẩn bị cho
trận đánh sắp tới.
Thứ sáu, anh Vân cho bí mật thiết lập
một bộ chỉ huy tiền phương của Quân Đoàn tại thành phố Ban Mê
Thuột cho tôi. Chính tôi sẽ về đó để chỉ huy trận này...
Tướng Phú dừng lại ở đây một chút, rồi
ông tiếp tục, mắt long lên:
– Mình sẽ thiết lập một lò thịt sống để
chờ chúng nó. Mất 20 năm nhưng cuối cùng tôi vẫn trả thù được
trận Điện Biên Phủ...
Ngồi xen lẫn với khoảng chừng 30 ông tá
và 4 ông tướng ở phía dưới, mặt mũi Đại tá Phùng cùng Trung tá
Khiếu trở nên rạng rỡ. Riêng Đại tá Phùng, trong đầu ông vừa nảy
ra một ý nghĩ táo bạo khác. Khi lập kế hoạch, ông sẽ đề nghị
Tướng Phú cho Lôi Hổ nhảy xuống phía sau khu tập trung quân để
hướng dẫn phi cơ oanh kích. Chỉ có Lôi Hổ bám sát chúng nó thì
mới oanh kích chính xác được. Và không phải oanh kích ngay bây
giờ mà chờ cho đến khi chúng nó sắp sửa tấn công, khi chúng nó
tập trung quân số lại mới làm. Một trái bom thả ở giờ phút này có
giá trị bằng 10 trái bom lúc bình thường...
Buổi họp hôm ấy chấm dứt vào lúc 7:99g
chiều ngày 24 tháng 12 năm 1974. Sau buổi họp là buổi dạ tiệc và
khiêu vũ Giáng Sinh do Quân Đoàn II khoản đãi. Tất cả mọi người,
từ ông Tướng Phú cho đến ông Đại úy Quận Trưởng, ai nấy đều hả hê
vui vẻ. Riêng Tướng Phú thì khỏi nói. Ông không ở lâu trong một
nơi ngộp khói thuốc được nhưng chưa bao giờ có ai nhìn thấy ông
vui vẻ như vậy kể từ lúc về nắm Quân Đoàn II. Trước khi ra về,
ông đến vỗ vai Đại tá Phùng:
– Toa hay lắm, moa cám ơn toa rất
nhiều.
– Thưa
Thiếu tướng, tôi chỉ làm bổn phận.
– Très bien, xong trận này thì công của
toa nhiều nhất đấy. À, Đại úy Huân, moa định móc thiếu tá cho
nó, toa nghĩ thế nào?
– Trình thiếu tướng, tôi cũng tính đề
nghị với Thiếu tướng như vậy. Nếu Thiếu tướng móc thiếu tá cho
Đại úy Huân, đề nghị Thiếu tướng cho mỗi người trong toán lên một
cấp luôn.
–
Coi như xong, moa sẽ nhớ chuyện này. Thôi ở lại chơi vui vẻ...
Joyeux Noel...
– Joyeux Noel Mon Général...
Đại tá Phùng đứng nghiêm chào. Tướng
Phú cùng người sĩ quan tùy viên bước ra khỏi phòng. Cây gậy chỉ
huy trong tay ông ta đánh lên đánh xuống một cách trẻ trung và
vui vẻ...
****
Sau chuyến công tác thành công, Huân
được thưởng một tuần phép vào dịp lễ Giáng Sinh. Trước khi chia
tay lên đường đi Pleiku họp với Tướng Phú, Đại tá Phùng gọi Huân
vào văn phòng chúc mừng, vẻ mặt ông hân hoan, phấn khởi:
– Tướng Phú đã đồng ý với tụi mình rồi.
Như vậy là Ban Mê Thuột sẽ giữ được. Công của anh trong vụ này sẽ
không nhỏ.
Huân cũng không giấu được vẻ
vui sướng trên nét mặt:
– Đó là công chung của Chiến đoàn chứ
đâu phải riêng gì tôi Đại tá. Nhưng nếu trời còn thương nước mình
thì Ban Mê Thuột sẽ vững như bàn thạch...
Đại tá Phùng chợt nhìn Huân đăm đăm.
Làm gì mà Huân không nhận ra được ánh mắt này? Chàng cười:
– Đại tá sắp có công tác mới cho tôi?
– Anh đeo đại úy mấy năm rồi?
– Hơn một năm nhưng thực thụ thì mới 6
tháng. Đại tá muốn thay lon cho tôi?
– Anh... dám đeo lon thiếu tá không?
– Tôi nhát lắm nhưng nếu có ai gắn cho
mình thì cũng làm gan đeo thử.
Hai người bật cười lên. Đại tá Phùng
lại tiến tới tấm bản đồ, chỉ vào khu Bù Gia Mập:
– Đi phép về, anh cùng với Đại úy Tú
trưởng Ban III Chiến Đoàn soạn cho tôi 1 kế hoạch nhảy liên tục,
bám thật sát vào chúng nó. Nếu biết được vị trí đóng quân chính
xác, Không Quân có thể tiêu diệt gọn một nửa lực lượng của chúng
trước khi chúng bắn được 1 phát súng. Phần còn lại để dành cho bộ
binh mình. Ông Tướng Phú đang nấu sẵn một cái chảo nước sôi lớn
để chờ chúng nó vào. Mình sẽ luộc sống không còn một mạng.
Huân gật đầu phấn khởi:
– Coi như xong Đại tá, nghề của bọn tôi
mà.
– Tốt. Bây
giờ, anh về nghỉ Noel cho vui vẻ... Có lẽ tôi sẽ bị kẹt khoảng 1
tuần lễ ở Pleiku để thiết lập kế hoạch phòng thủ Ban Mê Thuột,
khi anh hết phép trở về chắc tôi cũng về tới, vào văn phòng gặp
tôi để nhận chỉ thị liền. Mình không có nhiều thì giờ.
Huân gật gù cái đầu.
– Anh rán lợi dụng kỳ phép này để dưỡng
sức vì khi trở lại, chúng mình sẽ có rất nhiều việc để làm. Cho
đến khi nào dập xong tụi nó, mình ngủ chưa nhắm mắt được.
– Tôi hiểu Đại tá!
Đại tá Phùng lờ luôn cái vụ thay lon và
Huân cũng chẳng muốn nhắc đến. Không phải Huân... Chê cái bông
mai bạc nhưng đầu óc chàng lúc ấy đang bị xâm chiếm bởi 1 chuyện
quan trọng hơn: Làm thế nào để bám sát chúng nó và chỉ điểm chính
xác cho Không quân tiêu diệt. Tiêu diệt trước khi chúng mò được
tới Ban Mê Thuột.
Một tuần lễ phép nhân ngày Giáng Sinh
trôi qua êm ả. Huân và Diễm sống với nhau những ngày thật đầm ấm,
hạnh phúc. Cuối cùng thì chàng cũng thuyết phục được Diễm rời
khỏi Ban Mê Thuột sau lễ Giáng Sinh để tránh cuộc binh đao sắp
sửa xảy ra. Diễm chịu đi nhưng mẹ nàng nhất định ở lại. Diễm có
nhiều bạn bè ở Nha Trang nên việc “tị nạn” cũng coi như một cuộc
nghỉ mát nhỏ...
Sáng hôm hết phép, Huân lái xe díp vào
trại. Diễm ở nhà lo sắp xếp và dọn dẹp đồ đạc. Hai người sẽ sống
với nhau một đêm cuối cùng trước khi Huân đưa Diễm lên trực thăng
về Nha Trang.
Buổi sáng, Diễm về ở nhà với mẹ nàng. Mẹ đưa cho Diễm mấy lượng
vàng để phòng thân. Buổi chiều, Diễm về nhà tiếp tục lo thu dọn
đồ đạc...
3:00g chiều, Diễm vừa nhét xong bức hình của Huân vào vali thì có
tiếng xe thắng gấp ngoài cửa. Diễm ngạc nhiên nhìn ra và thấy
Huân cùng một người sĩ quan Lôi Hổ khác từ trên xe bước xuống...
Nhìn hai người, Diễm ngạc nhiên đến độ
sợ hãi vì nàng chưa bao giờ thấy Huân hung dữ như vậy. Cả người
bạn chàng cũng vậy. Mắt chàng ngầu đỏ, tóc tai rối bù.
Như thường
lệ, Diễm đứng trên gác nhìn xuống, mỉm cười và vẫy tay chào nhưng
Huân nhìn thấy mà không thèm đáp lễ. Diễm mơ hồ đoán ra rằng
người yêu mình đang bị một chuyện gì bực mình lắm...
Lúc hai người xuống xe bước vào thì có
con mèo đen phóng lên chiếc xe díp ngồi. Con mèo này vẫn đến như
thường lệ nhưng không hiểu sao hôm nay Huân lại thấy ngứa mắt.
Chàng nhìn thấy thì liền đứng lại, chửi thề, bảo:
– Đù mẹ cái giống mèo đen này thật là
xúi quẩy, không bắn mày thì để làm gì?
Huân quay lui. Nhanh như cắt, một tay
chàng chụp cổ con mèo đưa lên cao, tay kia móc cây Colt–45 trong
bụng ra kê vào giữa hai con mắt xanh lè của con vật bóp cò đoành
một phát. Máu óc và sọ con mèo đen bay tuốt lên cao rồi rớt lả tả
xuống đường.
Từ trên lầu, Diễm rú lên một tiếng thảm thiết...
Hai ba người hàng xóm nghe tiếng súng
nổ, bung cửa chạy ra. Một trong những người đó là một gã cảnh
sát, mặt mày coi khó chịu thấy rõ. Gã đang mặc áo thun liền quay
trở vào khoác chiếc áo cảnh sát vào rồi hùng hổ xông ra, tay chỉ,
miệng nói:
–
Anh... Đại úy kia, sao lại nổ súng bừa bãi thế? Anh tưởng đây là
đâu? Tôi phải gọi Quân Cảnh mới được...
Người bạn của Huân rít lên một tiếng,
toan xông tới nhưng Huân làm dấu cản hắn lại. Chàng xoay người
đưa mắt nhìn người cảnh sát. Cái nhìn của một ông Đại úy Lôi Hổ,
một tay còn cầm con mèo đen máu nhỏ từng giọt, tay kia còn thủ
cây Colt–45 quả có thần lực đặc biệt. Chỉ một cái nhìn đơn giản
vậy thôi mà gã cảnh sát đã mất hết hồn vía, mặt mày tái mét. Dưới
cặp mắt thất thần của gã, chàng lù lù tiến tới phía gã, chẳng nói
chẳng rằng. Gã cảnh sát lúc ấy mới biết mình vừa hơi... quá lời,
đưa cặp mắt tuyệt vọng nhìn Huân như chờ đợi hình phạt sắp đổ
xuống đầu mình. Cũng chẳng thèm nói năng, Huân nhét con mèo đẫm
máu vào tay gã ta rồi đứng yên... nhìn. Gã kia sợ quá, không nói
năng gì được, mặt méo đi thảm hại. Huân đưa nguyên cái bàn tay
còn dính đầy máu mèo chùi vào ngực gã, rồi quẹt mấy cái lên mặt:
– Tập ăn thịt mèo cho quen đi là vừa,
mai mốt Việt cộng nó vào đây thì cả thành phố này phải ăn thịt
mèo.
Rồi Huân
quay gót, nhét cây súng vào bụng mình, bình thản tới chỗ rô–bi–nê
rửa tay.
Huân
mở cửa phòng bước vào. Diễm đứng nhìn sững Huân và không biết
phải nói gì. Từ ngày quen nhau, nàng chưa bao giờ nhìn thấy Huân
hung dữ như vậy. Nhưng nhìn ánh mắt ngầu đỏ đầy uất hận của 2
người sĩ quan trẻ, Diễm biết họ vừa gặp phải một chuyện gì rất
bực mình hay đau đớn. Huân chỉ nhìn Diễm chứ không cười, không
chạy đến hôn nàng như mọi lần:
– Đây là Tú, bạn anh.
– Xin chào chị.
– Không dám, chào anh.
Rồi hai người ngồi xuống bàn. Đại úy Tú
lấy chai Martel cầm theo ra, mở nắp. Huân lật ngửa hai cái ly.
2 người lính trẻ uống rượu trong im
lặng, bốn con mắt ngầu đỏ, bắn ra những tia lửa tuyệt vọng và uất
hận. Hết ly này đến ly kia, không ai nói với ai một lời nào.
Diễm ngồi nhìn hai người một lúc, đứng
lên bảo “Để em đi mua khô mực” rồi bỏ xuống nhà. Huân không thèm
nói năng gì. Nàng xin lỗi người cảnh sát lúc nãy rồi ra đầu hẻm
mua mấy con khô, một ít nước đá.
Lúc Diễm trở về thì chai rượu đã gần
cạn. Diễm nướng mấy con khô mực. Tự nhiên, nước mắt nàng ứa ra.
Nàng đưa vạt áo lên chùi nước mắt rồi bảo “Khói quá”.
Diễm lấy cán dao đập mấy con khô rồi bỏ
vào đĩa, để trên bàn. Lúc ấy Huân mới chịu mở miệng, nhìn nàng:
– Em ngồi đây, anh có chuyện muốn nói.
Nhà chỉ có hai cái ghế, Diễm đành ngồi
trên giường.
–
Ngày mai em đi?
– Vâng.
– Em có quen ai ở Sài Gòn không?
– Có, bên nội. Sao anh hỏi vậy?
Huân thở dài:
– Anh nghĩ em về Nha Trang rồi phải tìm
đường về Sài Gòn luôn.
Diễm hốt hoảng:
– Sao vậy anh?
Huân lắc đầu, nói như khóc:
– Ông Tướng Phú hủy bỏ kế hoạch phòng
thủ Ban Mê Thuột rồi. Vậy là xong. Thành phố này sẽ chìm trong
cơn Đại Hồng Thủy của máu lửa và bom đạn. Ban Mê Thuột sẽ chẳng
bao giờ còn như xưa nữa.
– Nhưng tại sao lại hủy bỏ? Hủy bỏ hồi
nào?
Huân lắc
đầu tính không nói nhưng không hiểu sao lại trả lời:
– Hai ngày sau Noel... Một phái đoàn
của dinh Độc Lập gồm báo chí và chuyên viên tình báo Mỹ của DOA
lên Pleiku thăm ông Phú. Nhà báo Phạm Xuân Ẩn, “cố vấn đặc biệt”
của Tổng thống và các “thiên tài tình báo” Mỹ thuyết phục được
Tướng Phú là Việt cộng sẽ không đánh Ban Mê Thuột mà đánh
Pleiku...
Rồi
Huân lại lắc đầu, nâng ly rượu lên uống cạn. Tú rót thêm rượu vào
ly. Diễm còn muốn hỏi nữa nhưng hình như Huân không còn muốn nhắc
đến chuyện ấy nữa. Chàng bảo:
– Em phải về Sài Gòn. Nếu mẹ không đi
thì em về một mình. Đây là cái địa chỉ nhà anh, em nhớ lấy.
Diễm đứng dậy tới sát bên Huân:
– Còn anh thì sao?
– Nếu trời còn thương, mình sẽ gặp
nhau...
Diễm
gào lên, đau đớn:
– Anh nói vậy nghĩa là sao?
– Đừng bắt anh nói gì nữa Diễm ạ. Anh
cũng chẳng hứa hẹn được gì. Đừng quên một điều quan trọng là anh
là một người lính. Anh còn có bổn phận của anh.
Diễm thẫn thờ, đứng nghệt mặt ra. Hạnh
phúc mới vừa đó mà đã bay vút đi. Huân đưa tay nắm tay Diễm, vuốt
ve gò bàn tay, cúi đầu xuống. Giọng chàng thật mềm mại và thật
ấm:
– Anh chỉ
nói được một điều trong lúc này là anh yêu em, anh sẽ yêu em mãi
mãi...
Kể từ
khi quen nhau, Diễm chưa bao giờ thấy mình thật gần Huân mà lại
thật xa Huân như lúc này. Nàng mơ hồ mường tượng ra rằng, chia
tay lần này, chắc sẽ không bao giờ còn gặp nhau nữa. Diễm nhẹ
nhàng rút tay ra khỏi tay Huân, gạt nước mắt rồi bỏ ra ngoài
ban–công đứng nhìn xuống đường. Huân nhìn theo, cặp mắt như ngây
dại. Chàng lắc đầu, nghĩ thầm rằng trời sinh mình ra để bị đàn bà
làm khổ và làm khổ đàn bà. Ai gặp mình rồi cũng khổ cả, dù có
tình yêu hay không.
Huân quay mặt lại, mồi lửa một điếu
thuốc, nói với Tú:
– Thôi uống đi mày! Phần số nước mình
nó như vậy rồi, có lo lắng cũng chẳng làm được gì. Bọn mình phải
chuẩn bị để chết. Nhưng dù có chết đi nữa thì mình cũng tự an ủi
được một điều là mình đã làm hết bổn phận mình... Xuống dưới suối
vàng, thằng nào lạng quạng, mình... đá thấy mẹ.
Nụ cười nở nhạt trên môi Tú rồi tắt đi
ngay. Chàng nâng ly nhưng lại bỏ xuống, cất giọng buồn buồn hỏi:
– Mày nhớ bọn thằng Thành thằng Xú
không?
– Nhớ,
chết trận An Lộc. Sao mày hỏi vậy?
– Không ngờ rằng, rốt cục, tụi nó chết
trước mà lại sướng hơn mình. Chúng nó còn được thiên hạ lập mộ
chí và được nhân dân miền Nam nhớ đến qua hai câu thơ:
“An
Lộc Địa Sử Ghi Chiến Tích,
Biệt Kích Dù
Vị Quốc Vong Thân”...
Riêng bọn mình, sau trận Ban Mê Thuột
này thì chỉ mong mỗi đứa có được một nấm mộ cho đỡ tủi thân mà
thôi...
– Nhằm
nhò gì, chết là hết. Uống đi mày,
“Túy
ngọa sa trường quân mặc tiếu,
Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi...”
Trường sơn Lê Xuân Nhị
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by cathy chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, October 23,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang