Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Ước Mơ
Nguyên tác:
Pour passer le
temps
Người dịch:
Đào Duy Hồ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Đệ Nhị
Thế Chiến bùng nổ. Ðội quân tinh nhuệ của nhà độc tài Adolf
Hitler lần lượt chiếm đóng các nước Ðông Âu. Là công dân của nước
Ba Lan, gốc Do Thái, Esther Borstein trốn thoát khỏi nơi chôn
nhau cắt rốn và chạy sang nước Pháp, lúc bấy giờ vẫn chưa lọt vào
tay quân phát xít. Esther là một tay đàn vĩ cầm tài năng nhiều
triển vọng. Nàng cảm thấy rất hạnh phúc được sống những ngày tự
do trên đất Pháp. Nàng hy vọng một ngày kia sẽ được sang nước Mỹ
biểu diễn.
Esther đến Pháp với một gói hành trang nhỏ nhoi và trong túi chỉ
vỏn vẹn có vài đồng đô la do bố mẹ gom góp được. Những ngày đầu
trên đất khách quê người, nàng da diết nhớ tổ quốc và tự hỏi đến
bao giờ nàng mới được gặp lại bố mẹ và mấy đứa em nơi quê nhà.
Ðến Paris, nàng thuê một phòng nhỏ
trong khách sạn bình dân gần ga xe lửa miền Ðông. Nàng lấy cuốn
sổ tay ghi số điện thoại, địa chỉ ra xem. Ở Paris tất nhiên có
không ít người Ba Lan gốc Do Thái, nhưng người mà nàng quen biết
thì quả là hiếm. Bất chợt nàng reo lên: “À, bác Moshe Borstein
đây rồi. Bác là người anh họ của bố. Bác hành nghề thợ may ở khu
dân cư Sentier. Có điều bác đã trên 60 tuổi, khác ngành nghề...
liệu bác có thể giúp được gì cho mình nhỉ?”
Tuy nhiên Esther vẫn quyết định đến gặp
bác Moshe. Cả gia đình bác Moshe mở rộng cửa đón nàng. Tuy nhiên,
tình thế nhanh chóng thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho tương
lai âm nhạc của nàng. Ngay lần thăm viếng thứ hai, bác Moshe đi
thẳng vào vấn đề:
– Esther, cháu là một cô gái trẻ đẹp.
Cháu phải lấy chồng để không phí bỏ tuổi xuân. Cháu đã găp Isaac,
con trai của bác rồi chứ? Cháu không nghĩ nó là một người chồng
tồi? Rồi vợ chồng cháu sẽ sinh cho bác một đàn cháu nội kháu
khỉnh.
Ðúng là Esther đã gặp Isaac.
Nhưng trong đôi mắt nàng, Isaac chỉ là một chàng trai tầm thường,
hoàn toàn không phù hợp với tâm hồn say mê âm nhạc của nàng chút
nào cả. Esther không mấy quan tâm đến lời đề nghị của bác họ
Moshe.
Mặc cho
những cuộc tấn công của quân phát xít ngày càng ráo riết, cuộc
sống thất nghiệp bấp bênh, Esther luôn vững tin rồi đây sự may
mắn sẽ mỉm cười với nàng. Mỗi ngày nàng dành hàng giờ trau dồi
ngón đàn điêu luyện dù gặp phải sự phản kháng của nhiều người
chung quanh vì “tiếng đàn ồn ào” làm họ mất giấc ngủ...
Năm nay Esther đã 24 tuổi rồi còn gì.
Nàng tìm việc làm một cách vô vọng. Nàng có thể dễ dàng tìm một
chân hầu bàn trong nhà hàng, giúp việc trong một gia đình trưởng
giả... Nhưng không, đã trót là một tài năng vĩ cầm, nàng quyết
đeo đuổi nghiệp ấy đến cùng. Nàng dò la được thông tin vào buổi
chiều giới nhạc sĩ Paris thường tụ họp tại quảng trường Blanche
và tại khu Pigalle. Chính tại đây diễn ra các cuộc tuyển dụng
nhạc sĩ và ngã giá tiền thù lao:
– Bar Sables d’Olonne cần tuyển một
nhạc công piano và một contrebassiste, thời gian chỉ một tháng
thôi, bác có muốn nhận việc làm đó không?
– Ở quán Raspoutine, nhạc công vĩ cầm
vừa nghỉ việc. Họ đang tìm người thay, thù lao khá đấy lại có
thêm khoản tiền boa nữa...
Dù hơi nhút nhát và giọng nói còn nặng
âm hưởng Ba Lan nhưng Esther quyết tham gia cuộc đối thoại với hy
vọng nhận được chân vĩ cầm ở Raspoutine:
– Xin lỗi... nếu quán cần một nữ nhạc
công vĩ cầm thì tôi đây sẵn sàng.
– Rất tiếc, người đẹp. Họ chỉ tuyển
nhạc công nam thôi, vả lại người chơi vĩ cầm phải thuộc danh mục
các bản nhạc của dân tộc Digan...
Một lần nữa sự may mắn không mỉm cười
với Esther. Ðể giết thời gian, nàng thường đi lang thang một mình
khắp phố phường Paris. Mỗi đường phố là một khám phá mới đối với
nàng. Những bước chân cô đơn không định hướng đôi khi đưa nàng
lạc vào các nghĩa trang của thủ đô Paris: nghĩa trang
Père–Lachaise, Montmarne, Montparnasse... Tại nghĩa trang
Père–Lachaise, Esther chú ý đến một ngôi mộ đề tên Allan Kardec.
Ở đầu ngôi mộ, một bức tượng bằng đồng thể hiện nửa thân trên của
người quá cố đã đứng tuổi với bộ râu mép chải chuốt được che chắn
bởi một mái hiên theo lối kiến trúc cổ sắc sảo. Dòng chữ trên mộ
bia ghi nhận người quá cố mất từ thế kỷ trước, thế nhưng mộ của
ông ta luôn tràn ngập những bó hoa tươi thắm của người đến viếng.
Ðiều này không ngớt gây sự tò mò nơi Esther.
Lại một phụ nữ đến viếng mộ Allan
Kardec. Ðặt bó hoa đủ loại: hoa mỹ nhân, cúc tây, cúc lam... nơi
mộ bia xong, bà ta đứng lên làm dấu thánh giá rồi nhắm nghiền đôi
[mắt] lầm thầm cầu kinh. Khi bà ta rời ngôi mộ, Esther làm gan
đến hỏi chuyện:
– Xin lỗi bà, người trong mộ kia là ai
mà mọi người dành cho ông ta sự sùng kính đặc biệt vậy?
– Ðó là ngài Allan Kardec, một người
thuộc thành phố Lyon và là người đã sáng lập ra thuyết thuận
thông linh. Lúc sinh thời ông luôn làm việc từ thiện. Ông được
mọi người xem như một vị thánh dù không được nhà thờ công nhận.
Cho đến bây giờ ông luôn che chở phù hộ những người đến đây cầu
nguyện. Cô thấy đấy, mộ ông lúc nào cũng đầy hoa tươi và lời biết
ơn...
Esther
khẽ nói như lời xin lỗi:
– Nhưng tôi là người Do Thái...
– Người Do Thái thì đã sao. Ông Allan
Kardec phù hộ tất cả những ai đến đây cầu nguyện bất luận dân
tộc, tôn giáo. Về mang hoa đến đây khẩn cầu rồi cô sẽ được toại
nguyện.
Esther
cám ơn bà ta rồi rảo bước về khách sạn, đầu óc suy nghĩ mông
lung: một người công giáo quá cố ở thành phố Lyon. Nàng thì đến
từ khu nhà ổ chuột mãi tận Varsovie, Ba Lan. Nếu quả đúng như lời
bà ta kể lại thì lời cầu nguyện của mọi người đều đến với Chúa.
Từ hôm đó, Esther thường xuyên đến cầu
nguyện tại các nghĩa trang đặc biệt là nghĩa trang Père–Lachaise.
Nàng luôn mang theo cây vĩ cầm. Khi chỉ còn một mình trong nghĩa
trang, nàng tháo bao đàn ra và bắt đầu dạo những khúc nhạc thay
lời cầu nguyện cho những người đã mất sớm về nước Chúa, những
người còn sống khắp mọi nơi được mọi điều an lành. Chuỗi nốt nhạc
tuôn trào ra như dòng suối. Những khoảnh khắc như thế, nàng tập
trung toàn tâm toàn ý vào nốt nhạc đến độ không còn nhận biết vạn
vật chung quanh. Ðôi khi có vài vị khách dừng chân lắng nghe
tiếng thổn thức, nức nở thoát ra từ chiếc vĩ cầm. Khi dứt tiếng
đàn, tuyệt nhiên không một tiếng vỗ tay vì ở nghĩa trang, điều
này là cấm kỵ.
– Tuyệt diệu! Cô vừa chơi điệu nhạc gì
thế?
– Xin cám
ơn, đó là khúc nhạc cổ truyền của dân Do Thái.
– Nhưng cô đang ở trong nghĩa trang
công giáo!
–
Thì đã sao? Âm nhạc là âm nhạc, nó đâu có phân biệt dân tộc hay
tôn giáo.
Một
ngày kia, người gác nghĩa trang góp ý với Esther:
– Ngón đàn của cô thật là tuyệt kỷ
nhưng cô hiểu cho qui định không cho phép chơi đàn trong nghĩa
trang! Cô thông cảm nhé, điều này có thể làm thân nhân người quá
cố không hài lòng. Thôi thì thế này, tôi yêu cầu cô không được
chơi khi có mai táng trong nghĩa trang.
Esther cám ơn rối rít vì nàng chỉ mong
chờ có bấy nhiêu.
Một buổi chiều thứ hai. Ánh mặt trời
chiếu những tia nắng rạng rỡ. Esther đến nghĩa trang, bao đàn đã
được tuốt ra. Chiếc vĩ cầm sẵn sàng nhả ra suối nhạc du dương say
đắm. Esther nhủ thầm: “Hôm nay mình cảm thấy rất hứng khởi. Linh
cảm báo rằng mình sẽ gặp may”. Lúc nàng so dây chuẩn bị khúc dạo
đầu, một chiếc xe tang xuất hiện nơi cổng, từ từ chạy lên con
đường thoải dốc dẫn vào nghĩa trang. Esther sực nhớ đến lời dặn
dò của người gác nghĩa trang: không được chơi vĩ cầm khi có đám
mai táng. Người gác nghĩa trang có mặt bên cạnh xe tang. Lúc đi
ngang qua chỗ Esther đứng, ông ta đưa ngón tay lên miệng ra dấu
giữ “im lặng”. Nàng gật đầu hiểu ý rồi cất chiếc vĩ cầm vào bao.
Xe tang chậm rãi leo lên con đường
thoải dốc. Người quá cố có lẽ chỉ là một người bình thường vì
ngoài người gác nghĩa trang không thấy ai theo đưa đám tang. À
không, có thêm một người nữa đấy. Ðó là một người đàn ông trong
bộ y phục màu đen, gương mặt buồn bã, tay cầm chiếc khăn.
Esther tự nhủ: “Ðám tang sao mà vắng vẻ
và buồn tẻ thế này”. Tự động nàng chậm bước theo sau xe tang.
Người đàn ông mặc đồ đen nhìn nàng giây lát rồi gật đầu chào mà
không nói lời nào. Ông ta dường như đang nghĩ trong đầu: “Quái
lạ, một nữ nhạc công vĩ cầm. Phải chăng cô ta là người thân trong
gia đình người quá cố?”
Một lát sau, chiếc xe đến bên hầm mộ
vừa được chuẩn bị xong trước đó không lâu. Esther đọc dòng chữ
khắc trên bia đá: “Nơi an nghỉ của ông Jean–Jacques Rouard”.
Nhân viên mai táng bắt đầu việc chôn
cất. Một vị linh mục làm dấu thánh giá và lời cầu kinh trầm buồn
vang lên. Esther cũng làm dấu thánh giá theo họ, lòng thầm nhủ:
“Mình sẽ đọc một bài kinh cho linh hồn người quá cố sớm siêu
thoát”.
Niềm
cao hứng bất chợt dâng lên trong lòng, Esther bạo gan đến bên
người mặc đồ đen đề nghị:
– “Tôi là nhạc công vĩ cầm. Nếu không
phiền, ông cho phép tôi dạo một khúc vĩ cầm tiễn đưa người quá
cố?”
– Lời đề
nghị thật thú vị. Vả lại ông Rouard rất mê âm nhạc, đặc biệt là
vĩ cầm.
Lấy
cây vĩ cầm ra khỏi bao, Esther đưa lên cằm và bắt đầu điệu nhạc
cổ truyền. Người đàn ông chăm chú lắng nghe trong khi nhân viên
mai táng bắt đầu lấp đất.
Sau khúc nhạc đầu, Esther đề nghị tiếp:
– Ông cho phép tôi dạo khúc nhạc thứ
hai chứ?
– Cô
đàn tuyệt lắm. Không lý do gì phải ngưng ngang như vậy.
Esther khởi xướng bản nhạc thứ hai.
Tiếng nhạc nhặt khoan xen kẽ giữa điệu trầm buồn ai oán và vồn vã
vui nhộn. Bản nhạc gom nhặt những tinh hoa của nền âm nhạc Ðông
Âu: Ba Lan, Rumani, Hungari.
Tiếng đàn vừa dứt, người đàn ông đến
bên Esther hỏi:
– Cám ơn cô rất nhiều. Nếu không phiền,
cô vui lòng cho tôi biết danh tánh.
Từ “danh tánh” khiến Esther phát run
lên vì nó làm nàng liên tưởng đến giấy căn cước, kiểm soát, hải
quan... Buổi chiều yên tĩnh trong nghĩa trang Père–Lachaise như
xao động lên:
– Ông là cảnh sát?
– Ồ, không, tôi chỉ là người được giao
quyền thi hành di chúc của ông Jean–Jacques Rouard. Tiếng vĩ cầm
của cô chắc làm ông ta ngậm cười nơi chín suối.
Cảm thấy an tâm, Esther thổ lộ danh
tính:
– Esther
Borstein, sinh năm 1914 tại Varsovie.
– Liệu tôi có quá tò mò khi hỏi địa chỉ
của cô không?
– À, không sao. Tôi đang thuê tạm một phòng tại khách sạn
Voyageurs, đường Magenta. Tôi hy vọng sẽ sớm dời đến nơi ở tốt
hơn khi có việc làm.
– Cô có bạn, bà con hay địa chỉ để có
thể liên lạc trong trường hợp cô rời khách sạn?
– Ông có thể liên lạc với tôi qua người
bác họ, ông Moshe Borstein, số 44 đường Jeuneurs.
– Rất tốt. Hy vọng sẽ sớm gặp lại cô.
Vài tuần sau, Esther nhận được lá thư
tay từ gia đình người bác họ. Bác Moshe Borstein nói với Esther:
“Một người tên M. Baranton muốn gặp cháu gấp. Số điện thoại của
ông ta...” Esther tự nhủ: “Có lẽ ban nhạc nào đó muốn tuyển mình.
Cuối cùng rồi mình cũng sẽ có được việc làm và đồng lương...”
Ðến nơi hẹn, Esther nhận ra ngay M.
Baranthon chính là người đàn ông mặc đồ đen trong nghĩa trang.
Ông ta đi thẳng vào vấn đề:
– Cô Esther, tôi có tin vui cho cô. Cô
là người duy nhất đưa ông Jean–Jacques
Rouard đến nơi an nghỉ
cuối cùng. Do đó cô là người được chỉ định nhận toàn bộ di tặng
của ông Rouard bao gồm 3 triệu francs.
Sáng hôm sau, Esther mang một bó hoa
đặt tại mộ của Allan Kardec. Sau đó nàng chơi một nhạc khúc yêu
thích nhất bên mộ ân nhân Rouard.
Tuần lễ sau, người ta thấy Esther
Borstein trên boong tàu đi nước Mỹ, điều mà cô hằng mong ước khi
vừa đặt chân đến nước Pháp... ./.
Đào Duy Hồ
Phỏng dịch từ nguyên tác “Pour passer le temps”
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Happy Nguyen chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, April 2,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang