Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Chiến Tranh & Tình yêu
Tác giả:
Trường Sơn Lê
Xuân Nhị
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
12 giờ trưa, “Cọp đen”
Nguyễn văn Trọng, Trung úy
Đại đội trưởng Đại đội 45 trinh sát đứng trên ngọn đồi 1034, đảo
cặp mắt “diều hâu” nhìn một vòng chung quanh đồi rồi nói với
người đại đội phó:
– Mình đặt bộ chỉ huy đại đội trên ngọn
đồi này. Ông cho chúng nó đào hầm hố bố trí chung quanh đồi...
Thiếu úy Hoàng gật đầu, sửa lại sợi dây
ba chạc, xoay người vừa rảo bước đi thì Trọng gọi hắn lại, chỉ
vào một ngọn đồi đối diện, thấp hơn một chút xíu:
– Khoan, hay là thế này. Ông để thằng 1
và thằng 2 (trung đội 1 và 2) nằm ở lưng chừng đồi bên này với
tôi, ông dắt thằng 3 và 4 qua ngọn đồi bên kia mà bố trí...
Đưa tay chỉ vào con đường đất nhỏ xa xa
phía dưới, Trọng tiếp:
– Cho chúng nó đặt cây M–60 vào ngay
cái chỗ trống trải gần con đường mòn này cho tôi. Rải thêm chốt
hình chữ “V” từ hai trên đồi xuống tới đó. Tôi thấy đó là chỗ duy
nhất mà chúng nó có thể mò ra được.
Thấy người đại đội phó hoang mang,
Trọng tiếp tục:
– Nếu có chuyện gì cũng đỡ, mình cẩn
thận vẫn hơn...
“Cẩn thận vẫn hơn...”, ông như thế là
quá cẩn thận rồi chứ còn gì nữa mà vẫn hơn, Hoàng nghĩ thầm trong
bụng nhưng không dám càu nhàu. Chỗ này là vòng đai thành phố Kon
Tum, Việt Cộng nào mò đến đây được mà phải cẩn thận đến như vậy?
Nhìn khuôn mặt của đại đội phó, Trọng
biết hắn nghĩ gì trong đầu. Thật ra, những gì Hoàng nghĩ có lẽ
đúng nhưng với cương vị của 1 cấp chỉ huy nắm sinh mạng của hơn
trăm người trong tay, Trọng không thể nào làm khác hơn được. Đánh
nhau trên chiến trường, chỉ một tiếng bùm là xong hết. Người chết
không biết chuyện gì đã xảy ra cho mình. Nhưng về hậu cứ sau
những trận đánh ác liệt những người chỉ huy như Trọng phải trực
diện với một thực tế thương tâm kinh khủng. Vợ lính con lính kéo
về chật cả sân đại đội. Đuổi đi không nỡ, năn nỉ không được.
“Chồng tôi đâu rồi, ông giết chồng tôi chớ đâu phải giặc nào
giết...” Hay là: “Bố cháu đâu chú, chú trả lại bố cháu cho
cháu...”
Trọng
đã trải qua những cảnh thương tâm như thế này. Nhiều khi, Trọng
nghĩ, cái đám vợ con lính mới là những người đáng thương nhất,
tội nghiệp nhất. Lính, dù sao, như chàng nghĩ, chỉ một tiếng bùm
là xong hết mọi chuyện... Vì thế, ở chiến trường, dù đánh giặc
tới đến độ vang danh là Cọp Đen, là đại đội trưởng đại đội trinh
sát tinh nhuệ nhất của sư đoàn với những chiến công táo bạo lừng
lẫy tưởng chỉ có thể có trong phim xi nê, ít người biết Trọng coi
trọng mạng sống của lính tráng hơn cả của chính mình. Điều này,
chỉ có cấp chỉ huy của Trọng biết và lính của Trọng biết. Vậy là
đủ rồi.
Thật
ra, đối với Trọng, muốn trở nên một người chỉ huy giỏi không khó
lắm. Điều thứ nhất, Trọng hiểu biết quy luật bất di bất dịch ngàn
đời của tạo hóa: Hễ mình thương lính thì lính thương mình. Thương
đúng nghĩa của chữ thương: Sống chết với lính mình. Đi nhảy toán,
thường thường, Trọng là 1 trong những người dẫn đầu đại đội, đặt
chân xuống đất đầu tiên. Lúc trực thăng đến bốc, Trọng là 1 trong
những người cuối cùng leo lên tàu bay... Trọng còn nhớ như ngày
hôm qua trận Tân Cảnh. Hồi đó, trung đoàn còn do 1 ông đại tá già
vốn xuất thân từ dân lính khố xanh khố đỏ chỉ huy. Hốt hoảng vì
bị cấp trên xỉ vả sau khi 1 tiểu đoàn của ta bị 2 trung đoàn địch
vây hãm trong nhiều ngày, ông ta quyết định cho thằng 45 trinh
sát của Trọng nhảy vào giữa khu tập trung quân của địch để... gây
tiếng vang.
–
Đánh giặc ngu như c... mà cũng mang lon đại tá. Trọng lẩm bẩm
chửi thề trong bụng. Tuy chưa bao giờ chỉ huy đến cấp tiểu đoàn
nhưng Trọng biết tiểu đoàn này tuy bị vây hãm nhưng vẫn có thể
cầm cự được lâu ngày nhờ hầm hố kiên cố và tiếp liệu đầy đủ.
Trọng biết chắc 1 điều là nếu đại đội nhảy vào đó thì sẽ bị tiêu
diệt trong vòng 15 phút đầu tiên sau khi trực thăng hạ càng
xuống. Trọng không lạ gì cái màn này. Trong những trường hợp
tuyệt vọng, Trọng sẵn sàng chấp nhận cùng lính nhảy vào chỗ chết
để tìm cái sống nhưng trong tình hình không có gì bi đát, không
thể thí quân một cách ngu dốt chỉ vì bị một vài tiếng xài xể của
cấp trên như vậy được.
Trọng nghiêm nghị hỏi vị chỉ huy:
– Thưa đại tá, xin đại tá lặp lại nhiệm
vụ đại đội tôi nhảy vào đó để làm gì?
Phòng họp hôm đó còn nhiều sĩ quan cấp
tá khác nữa, ai nghe cũng muốn nhảy dựng người lên vì câu hỏi xấc
láo của người trung úy trẻ. Trong quân đội, nhất là một đơn vị bộ
binh, chưa bao giờ có 1 đại đội trưởng lại chất vấn trung đoàn
trưởng như thế này.
Ông đại tá già khựng người một lát như
không ngờ được câu hỏi bất ngờ. Bình thường thì ông ta đã có thể
nổi máu du côn lên dùng gậy đập túi bụi vào người sĩ quan trẻ vô
lễ này rồi nhưng nhìn thấy ánh mắt toé lửa của Trọng, ông ta
không dám. Nó đã dám hỏi như vậy thì nó đâu có sợ mình. Rồi ông
trả lời yếu ớt:
– Thì tôi đã nói, để... gây một tiếng
vang, cho báo chí biết là chúng ta không có thua.
– Thưa đại tá, là lính, chết chúng tôi
không sợ nhưng đại tá nghĩ coi, tôi và hơn một trăm người nữa
trong đại đội tôi có đáng chết vì một “tiếng vang” vớ vẩn như vậy
của báo chí không?
Mọi người trong phòng nghe tới đâu là
thấy rúng động tới đó. Cọp mở miệng có khác.
Ông đại tá chưa kịp trả lời thì Trọng
ôn tồn đem lời lẽ phải trái ra trình bày cho ông ta nghe. Đây là
cố gắng cuối cùng của Trọng, người chỉ huy biết thương yêu lính.
Trọng không hiểu mình sẽ phản ứng như thế nào nếu ông già này cứ
một hai bắt Trọng nhảy xuống đó. Ý nghĩ kinh hoàng quá đến độ
chàng không dám nghĩ đến. Nhưng, tất cả mọi hình phạt từ việc ra
tòa án quân sự, nằm quân lao, v.v. đều không bằng cái sinh mạng
của mấy trăm chiến sĩ can trường. Người ta đi lính để chết cho tổ
quốc chứ không để chết cho một thằng ngu nào hết. Cuối cùng, tạ
ơn trời đất, ông ta nghe lời Trọng, hủy bỏ quyết định điên rồ ấy
đi.
Chuyện này
đồn ra khắp nơi, tiếng tăm của Cọp Đen Nguyễn văn Trọng từ đó
vang lừng. Vang lừng nhưng ai cũng hiểu vì sao Cọp Đen không bao
giờ móc được cặp lon đại úy trên cổ áo.
Điều thứ hai, muốn chỉ huy có hiệu quả,
người chỉ huy phải áp dụng một kỷ luật thật khắt khe nhưng nghiêm
minh và công bằng. Dân trinh sát đa số là dân trời đánh không
chết, tình nguyện về cũng có mà trị không được bị đẩy về từ các
đơn vị khác cũng có. Nhiều thằng lính của Trọng đã từng ở tù quân
lao, từng giết người chỉ vì 1 chai bia. Duy trì kỷ luật với 1
thành phần hỗn tạp như vậy không phải là chuyện dễ, nhiều khi rất
là nguy hiểm. Trọng học được một điều rất quan trọng của đời binh
nghiệp là muốn cho lính nghe lời mình, trước hết nó phải phục
mình đã. Nếu lính đã phục mình rồi thì không có chuyện gì mình
bảo mà chúng nó từ chối. Điểm then chốt là phải làm sao cho chúng
nó phục. Quân đội có thể ban chức tước cùng lon lá cho anh nhưng
không thể ban sự kính phục của thuộc cấp cho anh. Đây là tài năng
riêng của mỗi người.
Riêng với Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng,
lính chưa về đại đội đã nghe tiếng chàng rồi. Về dưới quyền chỉ
huy của Trọng, chúng nó càng phục thêm. Trọng hiểu lính và lính
hiểu Trọng.
Khi Trung tá Sang, 1 sĩ quan trẻ tốt nghiệp trường Võ Bị về nắm
trung đoàn thì Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng như hổ được trở về rừng.
Ngày nhậm chức đơn vị trưởng, ông ta gọi Trọng lên hỏi han tình
hình rồi kết luận:
– Anh muốn xin gì tôi không?
Trọng trả lời thẳng thắn:
– Thưa có hai chuyện!
– Chuyện thứ nhất?
– Xin trung tá cho vài xe tôn và ván để
tôi tu bổ khu gia binh của gia đình binh sĩ lại. Thấy vợ con họ
và họ lui cui trong mấy cái ổ chuột sau những ngày hành quân tôi
không nỡ.
Trung tá Sang mau mắn gật đầu, quay sang dặn dò người sĩ quan
phòng tư rồi hỏi tiếp:
– Chuyện thứ hai?
– Xin trung tá cho bổ sung quân số của
đại đội tôi được đầy đủ, cho tôi có nhiều thì giờ một chút để
huấn luyện lính tráng cho thuần. Chúng nó thuần rồi thì nếu trung
tá có thả tôi ra... Hà Nội, tôi cũng bắt sống được thằng Võ
nguyên Giáp đem về đây trình diện trung tá.
Trung tá Sang cười hề hề:
– Chẳng hổ danh Cọp Đen. Khẩu khí dân
Trinh Sát có khác.
Khi chia tay, ông vỗ vai Trọng cười:
– Tôi rất ngạc nhiên và chịu hai lời
yêu cầu của anh, tôi sẽ cố gắng.
Rồi ông bắt tay Trọng, cười cười hỏi:
– Tại sao người ta gọi anh là Cọp Đen?
– Thưa, nước da tôi hơi đen nên chọn
danh hiệu truyền tin là Cọp Đen cho nó ngầu. Chẳng ngờ anh em gọi
mãi rồi tôi thành Cọp luôn.
Trung tá Sang giữ đúng lời hứa với
Trọng. Mọi chuyện Trọng xin đều được thỏa mãn. Nhờ đó, đại đội 45
trinh sát trở nên 1 đơn vị thiện chiến nhất của sư đoàn. Nhờ ông
trung đoàn trưởng biết sử dụng đúng khả năng bất ngờ và cơ động
hầu như chỉ bị giới hạn bởi tầm bay trực thăng nên Trinh Sát của
Cọp nhảy xuống đâu là giặc tan ra tới đó. Đã có lần, 1 trung đoàn
xe tăng của địch vừa tới vùng Tam Biên, không kịp để chúng nó có
thì giờ co cụm, Trung tá Sang cho Trọng nhảy ngay vào giữa bộ chỉ
huy. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, lính của Trọng bắt sống được 3
chiếc xe tăng của địch ở Võ Định. Trung tá Sang hớn hở vô cùng,
tính gởi 1 chiếc về Sài Gòn tặng tổng thống Thiệu nhưng cuối cùng
đành phải đốt bỏ vì không có phương tiện chuyên chở kịp thời.
Hôm nay, đại đội chàng được điều động
về đây sau gần 1 năm trời hành quân khắp các nơi của vùng II
chiến thuật vì 1 lý do đặc biệt. Đặc biệt đến nỗi Trung tá Sang
cho trực thăng ra đại đội bốc chàng về để gặp ông. Trọng nhớ mãi
lời nói thống thiết của ông trung đoàn trưởng bộ binh chiều hôm
qua ở bộ chỉ huy trung đoàn. Làm việc với nhau hơn 1 năm, ông rất
quý mến Trọng, coi như em. Trung tá Sang đã cầm hai vai Trọng,
giọng rất thành thật:
– Tôi biết là tôi đã hứa với anh 1 tuần
lễ ăn chơi chết bỏ ở hậu phương. Anh xứng đáng, lính của anh xứng
đáng nhận được phần thưởng đó sau 1 năm trời hành quân cực khổ,
nhưng anh biết, chiến trường ở nước ta bây giờ, người ta không
còn phần thưởng hay ân huệ để ban tặng cho nhau nữa. Nếu anh biết
được những gì tôi biết, anh sẽ thông cảm tôi nhiều hơn. Áp lực
của giặc cộng đầy dẫy khắp nơi, trong khi mình hết lính rồi. Anh
cố gắng đi. Tôi đã khéo xoay sở lắm mới bốc được anh về nằm làm
an ninh vòng đai cho tiểu khu Kon Tum. Khu vực này trước kia do 1
tiểu đoàn địa phương quân chịu trách nhiệm nhưng tôi đã đề nghị
với tiểu khu trưởng Kon Tum rút họ đi chỗ khác vì thấy họ làm
việc không có kết quả. Anh dẫn đại đội về nằm đây trám chỗ cho
tụi nó, vừa nằm dưỡng quân vừa giữ an ninh và vừa canh giùm mấy
cái họng pháo của chúng nó luôn.
Sao mà lắm “vừa” thế này, Trọng thầm
nghĩ. Phép đã không được đi bây giờ còn phải dẫn lính vào rừng
nằm vừa làm an ninh, vừa canh pháo vừa trám chỗ, v.v. Mẹ kiếp cái
cuộc đời của thằng lính bộ binh, thật đen hơn cả mõm chó. Nhưng
câu nói thống thiết “Chiến trường ở nước ta bây giờ, người ta
không còn phần thưởng hay ân huệ để ban tặng cho nhau nữa...” của
vị chỉ huy trưởng trung đoàn làm Trọng không dám từ chối. Trọng
biết Trung tá Sang nói thật.
Ông bảo sĩ quan phòng 2 đưa cho Trọng
coi một tập hồ sơ về lai lịch của cái làng Thượng. Đọc hết bản
tóm tắt, Trọng được biết cái làng Thượng này vốn được 1 ông linh
mục người Pháp già rất khó tánh coi sóc. Theo tin tức tình báo,
ông cha Tây này không ưa người quốc gia, thiên cộng nặng. Dĩ
nhiên, sống ở một nơi hẻo lánh mà dám thiên cộng và không ai dám
làm gì thì phải có vũ khí bí mật. Cái vũ khí đó của ông là sự
liên lạc chặt chẽ với các nhóm chính trị thiên tả ngoại quốc và
báo chí khắp nơi trên thế giới.
Pháo binh chỉ rớt nổ gần làng một chút
là vài ngày sau tòa thánh La Mã, Dinh Độc Lập, tòa Đại Sứ Mỹ đều
nhận được kháng thơ của ông. Báo chí thế giới, vốn từ lâu đã
chẳng ưa gì mình, liền hùa theo làm rầm rộ, tuyên án chính phủ
gắt gao...
Dĩ nhiên, bị áp lực nặng nề
như vậy, lệnh từ bộ tổng tham mưu ban xuống: “Từ này về sau, đừng
động đến chúng nó nữa.”
Việt Cộng biết rõ chuyện này hơn ai hết
cho nên chúng cứ kéo pháo về gần làng bắn vào thành phố rồi bỏ
chạy. Phi pháo ta đành chịu. Để tạm thời giải quyết vấn đề, tiểu
khu cho 1 tiểu đoàn địa phương quân đến đóng ở gần đó để canh
chừng. Nhưng quân số càng ngày càng thiếu hụt, tiểu đoàn này đã
được rút đi để trám cho những chỗ khác quan trọng hơn. Khu vực
trách nhiệm được giao cho Trung đoàn 45 bộ binh. Trong lúc hết
quân, chẳng biết lấy quân ở đâu để trám vào chỗ này, Trung tá
Sang nghĩ đến Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng. Đây là một vấn đề rất tế
nhị, cần một người vừa có khả năng quân sự vừa ngoại giao, vừa
chính trị để giải quyết vấn đề. Trong các thuộc cấp của ông,
Trọng là người được ông đánh giá cao nhất. Trọng không phải là 1
đại đội trưởng “đơn giản”. Trong đơn vị, Trọng gây được sự tin
tưởng tuyệt đối của thuộc cấp. Nơi chiến trường, địch quân nghe
đến tên Cọp Đen là tán đởm kinh hồn. Trong những lần đóng quân
gần thôn xóm làng mạc, Trọng lấy được tình thương của dân chúng.
Trọng gấp tập hồ sơ hỏi Trung tá Sang:
– Việc tréo cẳng ngỗng như vậy, Trung
tá muốn tôi đem lính tới đó làm gì?
– Đọc hồ sơ chắc anh biết rồi. Tôi muốn
anh đem lính tới đó đóng quân xa xa, cách làng chừng vài cây số
để chúng nó sợ thôi. Coi như đi nghỉ mát vậy mà.
“Coi như đi nghỉ mát vậy mà”, Trọng
nghĩ đến lời pha trò vô duyên của cấp chỉ huy mình. Nụ cười của
Trọng méo mó:
– Nếu tôi phát hiện được súng của chúng nó đặt ở trong đó, tôi
kêu pháo binh tới dập được không?
Trung tá Sang giãy nảy như người giẵm
phải lửa:
–
Không, không, dập con khỉ. Anh đọc hồ sơ rồi chắc biết. Cái lệnh
này đến từ bộ tổng tham mưu, đừng có cương bậy bạ mà đi tù hết cả
lũ.
– Vậy tôi
phải làm gì?
–
Ngay cả tôi cũng không có quyền quyết định. Anh cứ án binh bất
động, nếu phát hiện pháo, anh gọi về cho tôi, tôi sẽ xin chỉ thị
sư đoàn. Sư đoàn sẽ xin chỉ thị Quân Đoàn rồi cho anh biết quyết
định.
Trọng
ngán ngẩm lắc đầu. Chờ lấy được cái quyết định của quân đoàn thì
chúng nó đã thu dọn hết súng ống về nhà tắm rửa ăn cơm và nhảy
được vài bản “Sol Đố Mì” rồi.
– Tóm tắt, nhiệm vụ của anh là dẫn lính
tới đó cắm trại và nghỉ ngơi. Đừng có lạng quạng mà thân bại danh
liệt. Anh rán nhớ cho kỹ!
Trước khi từ giã để chàng leo lên trực
thăng về đơn vị, ông nói lời cuối:
– Anh rán nghỉ ngơi nhiều chừng nào tốt
chừng đó. Không biết tôi sẽ cần đến “thằng trinh sát” của anh lúc
nào. Thôi nhé, rán nghỉ ngơi.
Thế là sau gần 1 năm trời sống mái với
giặc trong khắp “hang cùng ngõ hẻm” của rừng cao nguyên, đại đội
trinh sát lừng danh của Trọng lại lóc cóc leo lên xe GMC để được
chở tới 1 điểm hẹn nằm trên quốc lộ 14. Từ đây, người Thường Sơn
Triệu Tử Long tân thời của Sư đoàn 23 bộ binh lầm lũi dẫn quân
mình vào gần buôn Thra, đóng trên 1 ngọn đồi để “trấn nhậm” khu
vực trách nhiệm.
Chân bước đều nhưng đầu óc quyền biến
của con cọp chuyển động rất nhanh. Ngoài chuyện phải đi trấn nhậm
1 vùng đất mà mình không được làm gì cả, chàng còn phải lo tới 1
vấn đề khác là tinh thần của lính đang xuống rất thấp. Mà thấp là
phải. Đánh nhau cả năm trời để rồi cuối cùng được “ăn Noel” bằng
cách khăn gói quả mướp vô làm an ninh và canh pháo vớ vẩn nơi 1
cái buôn Thượng ở chốn rừng sâu núi thẳm như thế này thì ai mà ăn
cho nổi. Dù quyết định không phải ở nơi chàng, nhưng Trọng thấy
phần nào mình cũng có trách nhiệm. Chính mình hứa với chúng nó là
Noel này sẽ về hậu phương “ăn chơi chết bỏ” chứ đâu phải Trung tá
Sang. Bây giờ, nhìn thấy khuôn mặt không được vui tươi cho lắm
của đại đội phó, Trọng thông cảm liền. Người mà, ai chả vậy. Đang
còn phân vân thì Hoàng hỏi:
– Còn gì không trung úy?
Trọng sực nhớ ra một chuyện, bèn nói:
– Bố trí xong, ông kiếm cho tôi 1 tiểu
đội trang bị súng nhẹ để đi theo tôi. Tôi muốn xuống dưới làng
Thượng “thăm dân tình” một chút.
Tuy chỉ thị của Trung Đoàn Trưởng rõ
ràng như vậy nhưng Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng là 1 cấp chỉ huy
quyền biến và táo bạo, đã tìm ra cho mình một quyết định riêng.
Cọp đen này chẳng chơi gác ai cả nhưng ai chơi gác Cọp Đen thì
không được. Người ta cấm lính không được vào làng nhưng chẳng ai
có thể cấm 1 con chiên bước vào nhà thờ. Nhà Chúa luôn luôn mở
rộng cho tất cả mọi người dù người đó là người Tây, người Thượng
hay là người Việt Nam. Là người công giáo, chàng quyết định đi
thăm ông cha Tây một lần cho biết mặt 1 người đã từng làm rúng
động “cơ quan” quyền lực cao nhất của miền Nam Việt Nam là Dinh
Độc Lập.
Hoàng
lại xoay người bỏ đi. Trọng nhìn theo cho đến khi bóng Hoàng chìm
xuống dưới đồi, suy nghĩ vu vơ...
Trời hôm nay đẹp quá, chỉ lác đác vài
cụm mây mỏng trên cao, khí trời lành lạnh của tháng 12 và ánh
nắng vàng yếu ớt của vùng trời cao nguyên làm tâm hồn người lính
trẻ xa nhà cảm thấy ngất ngây. Đời đẹp như thế này, giang sơn cẩm
tú như thế này mà sao nước mình cứ mãi điêu linh nhỉ? Trọng bất
giác chợt nhớ đến thân phận mình, thân phận của những người chiến
binh như chàng.
Đi một vòng kiểm soát hầm hố của lính
tráng và lấy mấy điểm “hỏa tập tiên liệu” để báo về trung đoàn
xong, Trọng trở về lều chỉ huy ngồi xuống trên 1 khúc cây, đốt
điếu thuốc, nhìn xuống khu thung lũng trước mặt. Xa xa dưới chân
chàng là hình ảnh mờ mờ của mấy chục cái chòi thượng từ lâu vang
danh là “bất khả xâm phạm”. Vài cụm khói nhẹ nhàng vươn lên, hiền
hoà, bình lặng. Khung cảnh đẹp và trầm hùng như một bức tranh.
Trọng ngồi im, say sưa nhìn ngắm cái làng với nhiều chuyện bí mật
như 1 con cọp ngồi nhìn 1 đối thủ để tìm thế tấn công.
Người hạ sĩ mang máy truyền tin của
Trọng cũng ngồi xuống bên cạnh ông thầy, cũng mồi 1 điếu thuốc,
cũng nhìn về cùng một hướng với Trọng. Rồi tự nhiên, hắn thở dài:
– Hôm nay là sắp tới “Nô Ên” rồi đó
trung úy.
Dù
trong thâm tâm đã biết là sắp đến Noel, Trọng cũng thấy nhói
trong tim khi nghe người lính nói vậy. Bố khỉ, vậy là thêm 1 cái
Noel nữa trong rừng thẳm. Trọng không còn nhớ đây là cái Noel thứ
mấy mình không được đi lễ nửa đêm, không được diện đồ đẹp để đi
chơi với đào, không được ăn Réveillon, không được đủ thứ... Trọng
chợt nhớ đến mùa Noel năm xưa, lúc chàng từ giã phố phường,
Phượng và tuổi học trò yêu dấu để lên đường đi lính.
Nghĩ đến Phượng, chàng nhăn mặt lại như
vừa bị ai đấm vào bụng 1 quả thôi sơn. Trọng thò tay vào túi áo,
tìm gói thuốc. Bàn tay thọc sâu trong túi áo jacket để tìm cái
hộp quẹt, Trọng chợt rờ thấy cái nanh heo rừng của Phượng tặng
ngày nào.
Hai
người quen nhau lúc còn đi học. Tuy chưa bao giờ giờ cầm tay nhau
để thổ lộ tâm tình nhưng cả hai đều biết trời sinh hai đứa để...
cho nhau. Đã có một thời Trọng ngây ngô nghĩ rằng mình sẽ... chết
nếu thiếu Phượng. Ngược lại, Phượng cũng đã nhiều lần nói với
Trọng như vậy. Dĩ nhiên, hồi đó hai người còn trẻ.
Rồi Trọng thi rớt tú tài II. Phượng
khóc đến sưng mắt. Trọng miệt mài mấy tháng học lại bài để thi
lần 2 nhưng vẫn rớt như thường. Phượng linh cảm được chuyện gì
không hay, ốm nặng.
Trọng bắt đầu biết uống rượu vào buổi
tối hôm đi coi bảng. Chàng lờ mờ nghĩ ra rằng cuộc đời mình kể từ
hôm nay sắp bước vào một khúc rẽ quan trọng. Như nhiều người bình
thường khác, chẳng ai muốn bỏ cảnh hậu phương ấm êm để lăn mình
vào lửa đạn và sương gió làm gì. Nhưng Trọng nghĩ, nếu mình không
được hoãn dịch thì đã làm trai sinh nhằm thời loạn, cũng nên mặc
áo nhà binh một lần để làm tròn bổn phận. Chưa chắc đi lính đã là
đường cùng.
Vì
vậy sau 1 tuần lễ nằm dài ở nhà giấu kín cái bản mặt “thi rớt”
cho thiên hạ khỏi thấy, Trọng đã làm quen được và chấp nhận số
phận của mình. Xuất hiện trở lại, chàng đến nhà thăm Phượng trước
tiên. Người làm Trọng ngạc nhiên đầu tiên là bố Phượng. Ông nhìn
Trọng bằng một cặp mắt khác xa lúc Trọng chưa thi rớt. Không thể
đoán được nhưng Trọng lờ mờ linh cảm rằng ông ta đã đặt rất nhiều
hy vọng nơi Trọng ở trường học. Ông ta mơ tưởng gì nơi mình Trọng
không biết nhưng chắc chắn hình ảnh đó phải lớn hơn hình ảnh 1
thằng lính bộ binh nghèo đói, sống nay chết mai.
Cái giá của sự thi rớt quả thật là kinh
khủng. Phượng khuyên Trọng nên chạy giấy tờ giả để học thêm.
Trọng lắc đầu vì chàng biết có muốn chạy cũng chẳng có tiền.
Phượng lại đề nghị Trọng đi lính nghĩa quân hay lính... cảnh sát.
Trọng chỉ lắc đầu cười cười. Phượng lại khóc đến sưng cả mắt.
Ngày chia tay, Phượng bố trí để gặp
Trọng một mình nơi nhà con nhỏ bạn. Nàng muốn tặng Trọng cái quý
nhất của đời nàng là thân xác nàng nhưng không hiểu vì sao Trọng
đã từ chối món quà vô giá đó. Trọng nhất định không phải là thánh
nhưng từ thuở nhỏ, bản tính của chàng luôn luôn như vậy. Quan
niệm sống của chàng là sống trọn vẹn, vui trọn vẹn. Sung sướng gì
khi được vui vầy một cách... chụp giựt trong chốc lát để rồi có
thể ngày mai có thể sẽ hối hận.
Hai người nằm im bên nhau, Phượng cứ
lặp lại câu nói:
– Ngày mai anh đi rồi, đi thật rồi...
Mắt nàng lúc nào cũng rướm lệ... Trọng
để một tay cho Phượng dùng làm gối, tay kia đốt hết điếu thuốc
này đến điếu thuốc khác. Mắt chàng ngây dại nhìn lên khoảng trống
trên trần nhà.
“Ngày mai anh đi rồi, đi thật rồi!” Sao
tiếng Việt lại có những câu đơn giản và buồn đến nát người như
thế nhỉ, Trọng suy nghĩ... Rồi Phượng hỏi:
– Sao anh không muốn... Phượng? Phượng
dâng hiến cho anh mà!
Trọng xoay người, nhìn thẳng vào mắt
Phượng, lời nói như muốn tắt nghẹn:
– Anh cám ơn Phượng nhưng anh không
muốn lợi dụng Phượng!
– Nhưng Phượng yêu anh, Phượng muốn cho
anh! Mai anh đi rồi.
Trọng lắc đầu, khép đôi mắt lại, lòng
chùng hẳn xuống làm như sắp khóc:
– Ừ mai anh đi, nhưng làm vậy có ích gì
đâu Phượng? Lỡ có chuyện gì cả 3 đứa mình đều khổ.
Nghe Trọng dùng chữ “3 đứa mình”,
Phượng không hiểu được nhân vật thứ 3 là ai. Nhân vật ấy chưa hề
có, chưa bao giờ xuất hiện hay là ai Phượng không biết nhưng cũng
chẳng thèm hỏi.
Trọng dụi điếu thuốc, kéo Phượng sát
vào người mình. Chàng vừa vuốt tóc Phượng vừa nói nhỏ:
– Đừng nói chuyện “đi” nữa Phượng,
chuyện “đi” nghe buồn quá. Mình nói chuyện “về” đi.
– Ừ! Vậy chừng nào anh về?
Trọng nghẹn họng. Khóa sĩ quan Thủ Đức
cộng thêm khoảng thời gian ở Quang Trung và các trung tâm chờ đợi
sớm gì cũng mất hết 1 năm. Một năm tức 12 tháng tức 365 ngày vắng
bóng Phượng, chỉ nghĩ đến đó thôi Trọng đã thấy tái tê người.
Mình mà còn thấy tái tê thì Phượng chịu gì nổi? Trọng đành phịa:
– Vài tháng.
– Vài tháng là mấy tháng hở Trọng?
– Nhiều nhất là 6 tháng.
Phượng ụp mặt vào ngực Trọng, giọng
nàng lạc đi:
–
Trời hỡi trời, tôi làm gì cho hết 6 tháng trời không có Trọng đây
hở trời?
Trọng
mím chặt môi. Một cảm giác vừa sung sướng vừa buồn phiền dâng lên
trong lòng chàng. Sung sướng vì câu nói ấy chứng tỏ nàng yêu mình
hơn chàng nghĩ. Buồn phiền bởi Trọng biết 6 tháng sau chàng cũng
chưa thể trở về được.
Rồi Trọng nghe được tiếng khóc nho nhỏ
của nàng... Không có can đảm nằm nghe Phượng khóc, Trọng vỗ vào
vai Phượng mấy cái rồi rút tay ra.
Như một cái máy biết cử động, chàng từ
từ đứng dậy mở cửa sổ nhìn ra ngoài. Thành phố Nha Trang vừa lên
đèn. Tiếng xe cộ ồn ào ngoài đường vọng vào phủ kín tâm hồn
Trọng. Nghĩ ra 1 điều gì, chàng nhăn mặt lại. Lạ thật, bao nhiêu
năm qua sinh ra và lớn lên ở thành phố này, Trọng có bao giờ thèm
để ý đến những thứ tiếng động ồn ào này. Chiều hôm nay, tiếng
động vô tri mà sao nghe thấy nó dễ thương chi lạ. Dễ thương và
đầm ấm lạ lùng. Trọng suy nghĩ rồi bỗng gật gù cái đầu. Thì ra là
hễ cái gì mình sắp mất cũng đều trở nên quý giá cả. Từ cảnh vật
cho đến con người.
Trọng bắt chiếc ghế kê gần cửa rồi ngồi
im nhìn ra ngoài đốt thuốc lá. Suốt từ sáng đến giờ chàng đã đốt
hết 5 gói rồi mà sao vẫn hút được mới là kỳ. Phượng cũng đã thôi
khóc, đứng im sau lưng Trọng không biết từ lúc nào. Nàng nắm chặt
lấy tay Trọng như cố truyền vào đó tất cả những nhớ thương của
mình trước giây phút chia tay. Trọng quay lại, cố điểm một nụ
cười, nhìn thật gần vào đôi mắt long lanh của Phượng:
– Đừng buồn quá Phượng, em phải nhìn
vấn đề một cách lạc quan. Biết đâu chừng trong lúc khám sức khoẻ,
người ta sẽ tìm thấy 1 cái bệnh gì đó trong người anh rồi đuổi cổ
anh về, không cho đi lính nữa.
Phượng hớn hở:
– Anh mà bệnh gì?
Nghĩ ra một chuyện, Trọng bật cười lên:
– Anh nghĩ chắc anh bị bệnh... bất lực.
Phượng có cảm giác là Trọng chỉ đùa với
mình, nhưng vẫn nuôi 1 hy vọng nhỏ trong lòng, hỏi dồn dập:
– Anh bị bất lực thật không, hay anh
chỉ đùa?
– Thì
em nghĩ xem, nằm gần bên em hấp dẫn và ngon lành như thế kia suốt
cả một buổi chiều mà anh không thèm sơ múi gì hết, cái này không
gọi là bất lực thì gọi là gì, hì... hì...
Đang buồn nẫu người mà Phượng cũng phải
phì cười, đưa tay đấm vào vai Trọng:
– Gọi là... ngu. Anh này hay thật, chết
đến nơi mà vẫn còn đùa được.
Có lẽ Phượng yêu Trọng cũng ở cái tính
lạc quan yêu đời và hay tếu này.
Trọng tiếp:
– Đùa thôi! Nhưng biết đâu chừng, ra
trường rồi anh sẽ được đổi về lại Nha Trang. Hai đứa mình lại xum
họp mấy hồi. Phượng lại cười. Cái nhìn lạc quan thứ hai này coi
có thể dễ chấp nhận hơn cái bệnh bất lực vớ vẩn. Ừ, Phượng nghĩ,
tại sao mình không nhìn vấn đề một cách lạc quan hơn nhỉ? Nước
mình bây giờ mỗi ngày có hàng trăm ngàn người ra đi, đâu phải ai
cũng chết hết.
– Từ lúc nhỏ, anh học được 1 cách sống
rất hay. Đó là trong bất cứ 1 hoàn cảnh nào, mình cũng phải tìm
cách nuôi cho mình 1 hy vọng. Ngày nào con người còn nuôi hy
vọng, ngày đó cuộc đời còn đáng sống, đáng phấn đấu.
Hai người ngồi nói chuyện mãi rồi cũng
đến lúc chia tay. Phượng cầm hai tay Trọng, run run nhét vào đó
một vật nhỏ bọc khăn mu soa. Trọng dở ra xem, thì ra cái nanh heo
rừng. Không biết cái nanh đã cũ bao nhiêu năm nhưng đã lên nước
rất bóng loáng.
– Em đào đâu ra được thứ này vậy?
– Nanh heo rừng đó, linh lắm, của bố.
Người ta nói ai đeo nanh heo rừng thì đạn sẽ bắn không trúng.
Ngày xưa bố đi lính, nhờ nó mà đánh bao nhiêu trận không bị hề
hấn gì.
Trọng
cười, chàng chẳng bao giờ tin những cái vớ vẩn như vậy nhưng cũng
hít hà ra vẻ mừng rỡ để Phượng vui lòng:
– Bố cho anh à?
Phượng lắc đầu, cười:
– Không, Phượng... lấy trộm. Cái này để
trên bàn thờ, quý lắm, sức mấy mà bố cho. Phượng lấy đại để cho
anh, mong anh được bình an như bố.
Rồi Phượng khóc. Mới đầu chỉ ấm ức
nhưng rồi nàng khóc òa lên. Suốt đời Trọng, chàng chưa bao giờ
nghe nhiều tiếng khóc bằng buổi tối hôm đó.
Bây giờ, ngón tay chạm chiếc nanh heo
rừng, hình ảnh Phượng ngày nào lại trở về trong trí chàng.
Dặn dò những điều cần thiết với Hoàng
xong, Trọng dẫn lính xuống ngọn đồi, tiến về phía làng Thượng.
Chàng ngạc nhiên khi nhận thấy lác đác đó đây trên con đường đất
đỏ có những đống đá xanh mới tinh vun cao. Tại sao lại có những
đống đá xanh mới tinh chất bên đường như thế này, Trọng nhíu mày
suy nghĩ.
Tới
gần hơn chút nữa, Trọng nhận ra 1 ngôi thánh đường vươn hẳn lên
giữa những dãy nhà sàn lụp xụp. Tuy nhà thờ được cất bằng gỗ và
gạch sơ sài nhưng nhìn rất đẹp mắt. Nhất là cây thánh giá trên
nóc giáo đường. Nó to lớn vĩ đại như muốn ôm ấp hết cả cảnh núi
rừng thanh tịnh ở chung quanh vào lòng mình.
Đang còn suy nghĩ thì Trọng nghe được
tiếng đàn hát nho nhỏ vọng ra từ trong làng. Tới gần hơn nữa,
Trọng nhận ra tiếng hát đó là của 1 ban hát hợp ca, và hình như
phát ra từ 1 căn nhà lợp mái tranh ở bên cạnh ngôi giáo đường,
gần phía ngoài làng.
Tiếng hát vang lên khi trầm lúc bổng,
khi nhẹ nhàng, lúc dồn dập giữa 1 nơi đồng không mông quạnh làm
mọi người đều thấy thích thú. Thật là một bất ngờ thú vị. Ai lại
ngờ có thể nghe được những tiếng hát, mà lại là tiếng Việt Nam
phát ra từ trong 1 buôn Thượng. Bài hát này Trọng nghe thấy quen
quen nhưng nghĩ mãi không ra. Rõ ràng điệu nhạc là một điệu giật
gân, hình như “cha cha cha” thì phải nhưng lời hát lại là một bài
hát đạo. Trọng nghe câu được câu mất nên càng để ý lắng tai nghe.
Cách cổng làng chừng vài trăm thước,
Trọng cho lính dừng bước, đứng yên quan sát 1 vòng. Và những điều
Trọng nhìn thấy và ghi nhận từ sáng đến giờ chứng tỏ tình báo của
sư đoàn nói đúng. Việt cộng rất có thể kiểm soát ngầm được khu
làng này. Trong khi đó, quân ta bị bó tay.
Giờ này làng có vẻ vắng, hình như người
lớn đi làm rẫy chưa về. Một đám con nít trần truồng đang nô đùa,
nhìn thấy người lạ mặt liền ùa tới nhưng không dám ra khỏi làng,
chỉ đứng xa xa ngó. Đó đây, một vài con trâu con bò nằm im lặng
một cách nhàn nhã.
Trọng vẫy tay chào bọn con nít rồi quay
sang bảo người tiểu đội trưởng đi theo mình:
– Như tôi đã nói hồi sáng với anh em,
cái làng Thượng này không giống bất cứ cái làng nào mà mình đã
hành quân qua. Các anh mà làm bể 1 viên gạch thì ngày mai nó kiện
tới... Dinh Độc Lập. Bây giờ mấy anh ở ngoài này... chơi, để một
mình tôi vào làng thăm cha xứ.
Người tiểu đội trưởng nhìn Trọng ái
ngại:
– Trung
úy nên dắt theo vài người, lỡ có chuyện gì...
Trọng cười, rán pha trò một câu cho
không khí bớt căng thẳng:
– Ông có nghe được tiếng hát lúc nãy
không? Chẳng có gì đâu. Việt Cộng đâu có hát hay như vậy được.
Nói xong Trọng cởi dây đeo súng Colt
của mình đưa cho người hạ sĩ quan mang máy:
– Ông trực máy ngoài này, có gì chạy
vào kêu tôi. Mấy ông cứ tản mác ra đi ngắm trời ngắm đất cho vui,
nhưng phải luôn luôn đề cao cảnh giác và nhớ kỹ lời tôi nói,
không được động đến 1 ngọn cỏ của cái làng này.
– Trung úy lận cây Colt theo cho chắc
ăn trung úy.
–
Không! Khách lạ đến thăm một nơi mình chưa quen biết mà trang bị
súng ống đến tận răng thì khó mà gây được cảm tình. Hơn nữa, nếu
có Việt Cộng trong làng thì 1 cây Colt cũng không bắn lại chúng
nó. Rồi bây giờ anh em tản mác ra đi, nhớ đừng có gây sự với ai
cả.
Trọng xoay
người, ước lượng khoảng cách từ chỗ chàng đứng đến căn nhà tranh
có tiếng hát phát ra rồi chầm chậm bước tới. Chàng rán làm ra vẻ
nhàn nhã tỉnh táo như 1 người du khách đi dạo nhưng tim vẫn đập
lên từng hồi, mồ hôi ở trán và ở cổ rịn ra. Trọng rán không nghĩ
đến cảnh ở 1 căn nhà sàn nào đó, tự nhiên mọc ra một... họng súng
A.K., nhắm vào người chàng nổ giòn giã. Chết mà không cầm được
cây súng trong tay để bắn lại kẻ thù gọi là chết ngu. Hình ảnh đó
làm Trọng giựt mình. Mình ngu thật, hết chuyện làm rồi tại sao
lại quyết định khơi khơi vào đây một thân một mình như vậy? Tại
sao mình lại có thể ngu dại như thế nhỉ? Hay bây giờ rút lui cũng
còn kịp. Bước chân Trọng trở nên chậm lại với ý nghĩ này. Nhưng
đã mang danh là Cọp Đen, ai lại bỏ cuộc nửa chừng như vậy. Lính
tráng sẽ đồn rầm lên là “Ông thầy lạnh cẳng, đi nửa chừng đổi ý,
không dám vô làng...” Trọng hiểu chuyện mua danh ba vạn bán danh
ba đồng xảy ra rất thường. Nhưng làm người, ai lại chẳng sợ
chết... Chàng bị dằn vặt giữa 2 quyết định không chọn được nhưng
cặp chân vẫn từ từ cất bước. Những bước chân nặng trĩu đúng
nghĩa.
Ngay
lúc ấy, từ căn nhà mà chàng đang lấy hướng đi tới vẳng ra tiếng
hát, âm thanh huyền bí quyến rũ và an hòa như một điệu nhạc đến
từ cõi trời cao thăm thẳm:
“...
Để con đem yêu thương vào nơi oán
thù,
đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,
đem chân
lý vào chốn lỗi lầm...”
Tự nhiên, Trọng thấy lòng mình trở nên
nhẹ nhõm. Một niềm hạnh phúc lâng lâng không cắt nghĩa được từ
đâu phủ kín trái tim chàng. Trọng thấy ngất ngây trong tiếng
nhạc, chân cất bước mạnh dạn, chẳng còn thấy e dè sợ hãi gì cả.
Càng tới gần, tiếng hát càng trở nên rõ
ràng, thanh thoát... Và Trọng chợt khám phá ra vì sao tiếng hát
đã làm cho chàng lấy được sự tự tin, sự bình an trong lòng. Đây
là bài hát “Kinh Hòa Bình” của thánh Phan xi Cô mà thuở nhỏ chàng
rất thích. Mỗi lần đi lễ nghe người ta hát bài này, lòng Trọng
luôn luôn như muốn chảy ra... Rồi Trọng nghĩ tiếp, quái lạ, bài
này là 1 bài hát chậm, rất chậm, không hiểu ai lại biến chế để
hát nhanh như vậy. Hay cả nước bây giờ đang hát mau như vậy cũng
nên, Trọng suy nghĩ. Có lẽ lâu quá mình không đi nhà thờ nên
không biết đến những thay đổi.
Trọng đã đứng trước căn nhà phát ra
tiếng hát mà không ai hay biết. Từ ngoài nhìn vào, chàng nhìn
thấy một người mặc áo chùng đen xây lưng cầm cây đờn đứng giữa
một đám thanh thiếu nhiên đứng ngồi ngổn ngang. Trọng lặng thinh
theo dõi.
–
Nào bây giờ chúng mình vô lại nhé, nhớ nghĩ 1 temp ở chỗ đó...
chỗ đó... 1,2,3,4,5... một... Lạy chúa từ nhân xin cho con biết
mến yêu và phụng sự chúa trong mọi người... Chát chát... chình
chình chình...
Trọng cười. Chàng đã đoán không sai.
“Chát chát chình chình chình” là điệu cha cha cha. Tiếng hát tiếp
tục vang lên dồn dập: “... để con đem tin kính vào nơi nguy nan
đem trông cậy vào nơi thất vọng...”
Trọng đứng ngây người giữa trời. Gió
cao nguyên của buổi trưa mùa đông thổi vi vu nhẹ nhàng như quyện
với tiếng hát để phủ kín lấy người chàng, thấm sâu vào trong từng
thớ thịt, từng khúc xương, từng tế bào. Một bài hát chậm hát mau
mà không ngờ hay như vậy làm lòng chàng như bay vút lên cao... Tự
nhiên, Trọng thấy mình không còn là 1 Cọp Đen lừng danh đánh giặc
tới nhất của Sư đoàn 23 bộ binh nữa mà là 1 cậu học trò Nguyễn
Văn Trọng bé bỏng ngày nào của thuở học trò, của những ngày xanh
vô tội, của những ngày quê hương còn thanh bình yên ấm.
Tiếng hát lại vọng ra nhịp nhàng, ấm
cúng: “... để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến
chốn u sầu...”
Bị lôi cuốn bởi tiếng hát, Trọng từ từ
tiến tới đứng sát bên cửa lúc nào mà không hay. Chàng ngạc nhiên
khi nhìn thấy người mặc áo chùng đen là 1 linh mục người Việt Nam
rất trẻ, chắc chỉ hơn chàng chừng 5 tuổi là cùng... Vậy còn ông
cố đạo Tây khó tánh đã làm điên đảo Dinh Độc Lập như lời ông
trung đoàn trưởng mô tả đâu rồi nhỉ? Trọng thấy mừng vì mình đã
quyết định một thân một mình vào đây. Ít nhất, cho đến giờ phút
này, chàng thấy làng này cũng bình thường như đa số làng khác.
Nghĩ đến người linh mục trẻ tuổi ở một
xứ đạo người Thượng hẻo lánh, Trọng tự nhiên thấy thương ông ta.
Trẻ tuổi... hát hay như vậy mà phải chôn đời mình ở một nơi như
thế này thì chắc là buồn lắm. Trọng nhớ đến cũng hình ảnh này của
các ông cha khác nơi những Vương cung thánh Đường nguy nga đồ sộ,
với những ca đoàn viên ăn mặc sang trọng và đẹp như tiên nữ.
Những tiên nữ đi tập hát có tài xế chở đi bằng xe Mercedes, xe
Hoa Kỳ mới tinh bóng lộn.
Hết bản nhạc, biết có khách đứng ở
ngoài, người linh mục nói vài điều với các em ca đoàn rồi bước ra
tiếp Trọng. Nụ cười chân thật tươi tắn của vị linh mục nở dưới
gọng kính trắng dày cộm làm Trọng có cảm tình ngay từ giây phút
đầu tiên:
–
Chào ông, ơ xin lỗi, chào trung úy! Tôi là cha Thanh.
Còn biết gọi mình là trung úy thì chắc
chưa đến nỗi nào. Trọng đứng nghiêm, chào rồi đưa hai tay bắt tay
cha Thanh:
–
Kính chào cha, con tên là Trọng, cha cứ gọi là Trọng. Ca đoàn của
cha hát hay quá.
Cha Thanh cũng đưa hai tay ra bắt lấy
tay Trọng:
–
Anh quá khen, tôi rán tập cho kịp để chúng nó hát lễ Noel đấy mà.
Trọng dùng bài hát làm đề tài để bắt
chuyện:
– Thưa
cha, lúc nhỏ con đi nhà thờ, cũng nghe hát bài này hoài nhưng
người ta hát... khác.
Cha Thanh bước ra khỏi nhà, cười hềnh
hệch sảng khoái, rất tự nhiên:
– Anh cũng có đạo à? Thế thì tốt quá.
Anh nói đúng, bài “Kinh hòa bình” đúng ra phải hát chậm nhưng các
em đề nghị “phan ta di” ra như vậy. Tôi hát thử thấy hay nên tập
cho các em hát luôn.
Cha Thanh cởi mở và hồn nhiên thật. Mới
nói chuyện mà chàng thấy như hai người đã quen nhau lâu lắm rồi.
Trọng cười, hỏi tiếp:
– Cha làm vậy không sợ mất vẻ nghiêm
trang à?
Cha
Thanh lắc đầu:
– Thiên Chúa quyền uy cao cả, ngài
không chấp nhất những chuyện nhỏ mọn.
– Cha hút thuốc?
Cha Thanh tỉnh bơ đưa tay rút 1 điếu
thuốc do Trọng mời, khum người mồi lửa:
– Cám ơn anh. Sáng giờ cũng đang thèm
thuốc.
– Cha
“đóng” ở đây lâu chưa?
Cha Thanh cười:
– Đúng ra xứ đạo này do 1 ông cha người
Pháp trông coi. Ông ta về Pháp nghỉ lễ 2 tháng nên tôi được cử về
đây tạm thời thay thế. Nhà xứ tôi cũng ở đây không xa, trong thị
xã Kon Tum.
Mặt Trọng trở nên hớn hở. Thì ra vậy. Một thắc mắc trong đầu
Trọng đã được giải quyết thỏa đáng. Cha Tây khó tính vắng nhà,
cha Việt Nam... dễ thương thay thế tạm. Vậy thì mình phải khai
thác mới được.
Như đọc được những ý nghĩ trong đầu
Trọng, cha Thanh cười hỏi:
– Anh đến đây chơi hay có việc gì
không?
Trọng
không biết trả lời sao. Khó nói quá. Chẳng lẽ lại nói huỵch toẹt
là cha biết chúng nó giấu súng ở đâu không, hay làng này có chứa
thằng Việt Cộng nào không?
Cha Thanh biết Trọng đang bối rối, bèn
hỏi:
– Anh
uống cà phê? Nếu rảnh mời anh lên nhà ngủ, tôi mời anh 1 ly cà
phê, mình nói chuyện chơi.
Còn gì bằng, Trọng hân hoan nhận lời.
Đám thanh thiếu niên đoàn hát bây giờ
đã ùa ra ngoài. Chúng nó khoảng 10 đứa. Một nửa là Việt Nam, một
nửa là Thượng. Trọng để ý thấy đám thiếu niên người Thượng ăn mặc
bảnh bao hơn đám Việt Nam nhiều. Đứa nào cũng quần jean áo nhập
cảng từ ngoại quốc, còn Việt Nam chỉ mặc quần đen nội hóa với
những chiếc áo trắng đã ngã màu.
Cha Thanh bảo chúng bằng tiếng Việt
trước rồi phụ đề tiếng Thượng sau:
– Cha có khách tới bất ngờ phải tiếp.
Chúng con chuẩn bị xe... bò để chờ cha. Lát nữa cha xuống chúng
mình đi.
Cha
xứ Tây ở 1 căn nhà gạch rất tiện nghi với phòng ăn, phòng ngủ và
cầu tiêu đầy đủ.
Trọng ngồi nơi bàn ăn chờ cha Thanh pha
cà phê. Nhìn đồ đạc bày biện trong phòng, Trọng cảm thấy làm
người... Tây phương sướng thật. Không, đúng hơn phải nói làm dân
của 1 nước văn minh sướng thật.
Hai người ngồi trong phòng ăn uống cà
phê nhìn ra ngoài. Trọng làm một hớp cà phê:
– Ở trong rừng mà có được 1 ly cà phê
ngon như thế này thì thật là hạnh phúc.
– Cà phê Ban Mê Thuột nổi tiếng thế
giới. Tôi ghiền cà phê này đến độ hồi còn học ở bên Pháp, mẹ tôi
cứ vài tháng phải gởi sang cho tôi chừng 5 ký...
Lại thêm 1 yếu tố mới làm Trọng ngạc
nhiên, chàng bám ngay đề tài:
– Cha đã du học ở Pháp?
– Gia đình tôi gởi tôi đi du học rồi
tôi được ơn kêu gọi bên đó. Chịu chức xong tôi xin về nước để
phục vụ.
Nói
đến đó, cặp mắt của cha Thanh như thoáng lên một chút buồn phiền.
Trọng không hiểu vì sao nhưng trong lòng thấy hơi bối rối. Chàng
chẳng lạ gì tinh thần thiên cộng của cái đám sinh viên quốc gia
được bố mẹ gởi đi du học ở ngoại quốc. Sinh ra và lớn lên trong
nhung lụa, lại ra đi quá sớm, họ dễ bị đạo binh tuyên truyền của
Cộng sản đầu độc. Cha Thanh có phải là một trong cái đám này
không, Trọng tự hỏi? Tại sao lại “tình nguyện xin về nước phục
vụ?”, rồi lại phục vụ đúng ngay trong 1 cái làng Thượng nổi tiếng
là “Việt Cộng” này. Tuy có cảm tình với cha Thanh nhưng chàng
cũng thấy hơi ngờ ngợ trong người. Giọng của Trọng có vẻ hơi bớt
thân mật đi chút ít:
– Bên Pháp vui không cha?
– Nếu như đi du lịch chừng vài tuần thì
nơi nào cũng vui cả. Nhưng ở lâu rồi thì anh mới thấy là không
chỗ nào bằng quê mình được, không người nào bằng người mình được,
không có tình thương nào bằng tình thương Việt Nam được.
– Ý con muốn nói, thưa cha, là ít nhất,
bên đó họ thanh bình, không có chiến tranh. Sống trong một nước
hòa bình chắc sướng lắm.
– Tôi nghĩ là hòa bình hay chiến tranh
bắt đầu từ ở con người. Con người gây ra được chiến tranh thì con
người cũng làm được hòa bình. Một con người hòa bình sống giữa
chiến tranh vẫn thấy mình an bình. Ngược lại, một con người háo
chiến sống giữa 1 miền đất hòa bình vẫn không có hòa bình.
Bây giờ thì Trọng thấy khó chịu thật.
Giọng điệu này đúng là giọng điệu tuyên truyền ru ngủ mà bọn Cộng
sản thường dùng. Ông cha thiên Cộng này muốn chửi bọn chúng mình
là háo thắng đây chăng? Sao ông ta không biết là nếu Việt Cộng
rút quân về Bắc, đừng xâm lăng nữa thì đất nước sẽ thanh bình
liền.
Nghĩ vậy
nhưng Trọng biết chuyện làm của mình. Mình không đến đây để cãi
lý hay làm mất lòng 1 ông nhà tu thiên Cộng trẻ tuổi từ Pháp mới
về. Mục đích của chàng là tìm hiểu về cái làng này càng nhiều
càng tốt.
Nhìn
mặt Trọng, cha Thanh chợt hiểu chàng có điều gì bất mãn nhưng
chưa tiện hỏi.
– Hòa Bình, ý con muốn nói là người ta
không bị chết bất tử, không bị cháy nhà bất tử, không bị pháo
kích bất tử như cái thành phố Kon Tum lâu lâu chẳng biết chúng nó
đặt súng ở đâu mà cứ pháo vào thành phố hoài, chúng con kiếm mãi
không ra.
Cha
Thanh nhìn đăm đăm vào Trọng một lúc rồi gật gù, cười:
– Tôi đã đoán là anh đến đây vì có 1
mục đích, nhưng không sao, khi nào có dịp tôi sẽ cắt nghĩa cho
anh hiểu.
Cha
Thanh rót thêm cà phê cho Trọng:
– Anh uống thêm cà phê! Tôi ở đây ít
khi gặp người Việt Nam cùng tuổi để tâm sự. Người Việt chỉ có mấy
đứa con nít trong hội hát, người lớn toàn là Thượng. Họ nói tiếng
Việt rất ít, chỉ nói tiếng Thượng và tiếng Pháp.
Thì ra đã làm người, ai cũng có tâm sự,
ai cũng biết vui biết buồn. Cha Thanh cũng không tránh khỏi định
luật này. Nói chuyện thêm một lúc, thấy cha Thanh có vẻ thành
thật cởi mở, Trọng hỏi:
– Thưa cha, chẳng dám giấu cha, đúng
như ý cha đoán lúc nãy, con muốn hỏi thăm cha một điều.
Hình như đã chờ câu hỏi này từ lâu, cha
Thanh cười:
–
Anh nói đi, xem thử có đúng như những gì tôi nghĩ không?
– Thưa cha, cha ở xa về không biết, cái
làng này xưa nay nổi tiếng là một làng “bất khả xâm phạm.”
Cha Thanh cười:
– Bất khả với ai chứ với anh thì chịu.
Nếu bất khả thật thì làm sao giờ này anh vào đây để nói chuyện
với tôi được?
– Thưa cha, con không biết phải giải thích thế nào nhưng cái làng
này có 1 ông cha Tây khó chịu lắm... Con không muốn đem vấn đề
quân sự ra nói chuyện với cha nhưng cha nghĩ xem, Việt Cộng cứ
lâu lâu kéo súng về đặt gần làng để bắn đi mà mình không làm gì
được. Cha nghĩ xem, họ đã ở trên đất nước mình, chẳng giúp gì
được cho mình lại còn đi che chở cho giặc... Cha là người Việt
Nam, con nghĩ cha có thể thông cảm được với con.
Trọng nhìn cha Thanh hồi hộp chờ câu
trả lời. Giọng cha Thanh nghiêm trang:
– Vậy theo ý anh, chúng tôi phải làm
gì?
Hai chữ
“chúng tôi” xác định 1 sự “đoàn kết khắng khít” với nhau mà Trọng
rất sợ. Chưa kịp trả lời thì cha Thanh tiếp luôn:
– Trước hết, anh Trọng à, tôi xin xác
nhận với anh là làng này không chứa Việt Cộng. Tôi biết cha cố
Pierre, ngài cũng không chứa Việt Cộng.
Trọng thấy nhẹ nhõm trong người. Chàng
biết cha nói thật.
– Ngược lại, nói anh đừng buồn, chúng
tôi cũng không thể làm tay sai cho chính quyền. Chúng tôi biết
Việt cộng thường đem pháo về gần làng để bắn vào thành phố nhưng
chúng tôi không thể báo cáo việc này cho ai biết hết. Chuyện
không phải của chúng tôi, chúng tôi không để ý đến. Anh nên hiểu
cho rằng, vấn đề ý thức hệ, vấn đề quốc gia hay cộng sản không có
trong đầu óc những người miền núi dốt nát này. Đối với họ chỉ có
vấn đề sống hoặc chết. Anh nghĩ xem, những người dân một cổ hai
tròng ở những vùng hẻo lánh như thế này không thể dứt khoát theo
một bên nào được. Theo quốc gia thì chết với Việt Cộng, mà theo
Việt Cộng thì cũng chết với các anh.
Cha Thanh nói đúng. Người dân ở những
vùng xôi đậu luôn luôn chịu một cổ hai tròng. Theo bên này thì
chết với bên kia. Nếu mình không bảo đảm được an ninh cho họ 100%
thì cũng đừng mong có sự trung thành 100%.
– Tôi cũng đã nghe được những lời than
phiền của bên quốc gia mình về linh mục Pierre, ngài hay kiện lên
tới tòa thánh La Mã những chuyện nhỏ nhặt không đâu. Thật ra, anh
phải hiểu cho rằng, sống ở một nơi xa ánh sáng văn minh thì đôi
khi cũng phải làm dữ 1 chút mới dọa được những ông tỉnh trưởng
tham nhũng, những cấp chỉ huy lính bê bối. Thành thật mà nói,
những chuyện như thế làm sao tránh được trong cuộc chiến.
– Thế Việt Cộng về bắn phá bậy bạ cha
Pierre có kiện không?
– Kiện chứ! Kiện đứt đuôi con nòng nọc
nhưng anh biết thế giới cộng sản mà. Chúng nó che chở cho nhau
không cần biết tốt xấu. Hơn nữa, hệ thống thông tin tuyên truyền
của cộng sản ở thế giới tự do rất mạnh, chúng có thể phủ đầu
những tin tức bất lợi cho chúng rất dễ dàng.
Trọng nghe đến đâu thì thấm đến đó. Cha
Thanh mồi điếu thuốc, nhìn đồng hồ rồi đứng lên hỏi:
– Anh nhìn tôi, anh có thể tin rằng 1
người như tôi, một người mà gia đình đã bỏ cả quê hương, bỏ cả mồ
mả tổ tiên để vào Nam tránh họa cộng sản, thì có thể là một người
bắt tay hay dung túng bọn cộng sản được không?
Trọng thấy phấn khởi trong lòng và biết
là đã đến giờ mình phải ra đi. Chàng đứng dậy, lắc đầu:
– Không bao giờ.
Cha Thanh cùng Trọng bước ra cửa:
– Cám ơn anh đã thông cảm cho tôi và
quan trọng nhất, cám ơn anh đã có can đảm vào làng để nói chuyện
với tôi. Nghĩ cũng lạ, người ta cứ cho rằng làng này chứa Việt
cộng mà xưa nay chưa có 1 người lính nào dám vào làng này để tìm
hiểu. Anh vào đây rồi, anh có thấy 1 cây AK hay 1 cây B40 nào
giấu trong này không?
Trọng cười:
– Con chỉ thấy... thánh giá và... ca
đoàn.
Cha
Thanh cười theo. Hai người đứng ngoài bãi cỏ, cha Thanh nói:
– Tôi muốn ở lại hàn huyên với anh lâu
hơn nhưng có công chuyện phải ra ngoài làng bây giờ, bọn nhỏ đang
chờ. Anh còn đóng quân ở đây, thỉnh thoảng ghé thăm tôi chơi.
Trọng móc bao thuốc lá mời cha Thanh 1
điếu rồi dúi nguyên cả gói còn lại vào tay ông ta:
– Cha giữ lấy gói thuốc này mà hút, con
còn nhiều.
Cha
Thanh cầm bao thuốc lá, cười:
– Trung úy muốn “mua chuộc” tôi à?
Trọng cũng đùa theo:
– Một trong những điều tâm niệm của
người chiến sĩ quân lực VNCH là phải thương dân, giúp đỡ dân và
bảo vệ dân mà cha...
Cả hai người cùng
cười rồi chia tay nhau.
Trọng bình thản bước từng bước một ra
bìa làng, lòng thấy nhẹ nhõm thư thái. Cuộc mạo hiểm của Cọp Đen
coi như thành công ngoài sức tưởng tượng. Lúc bắt đầu bước vào
đây, chàng chỉ dám bước vì tiếng hát, chẳng ngờ lại được gặp gỡ
cha Thanh và được hiểu thêm nhiều chuyện. Từ đây, cái nhìn của
chàng về cái buôn thượng vang danh... Việt Cộng này sẽ khác hơn.
Tới ngoài làng, Trọng cảm động khi nhận
ra những ánh mắt lo âu của thuộc cấp. Chàng cười xòa rồi dắt lính
đi 1 vòng phía ngoài làng để nghiên cứu địa thế.
Chàng để ý gần làng có 1 con suối không
lớn lắm nhưng sâu thăm thẳm, muốn leo xuống phải khó khăn vô
cùng. Đi hết 1 vòng quanh làng, Trọng thấy tự tin hơn. Địa thế
như thế này thì chúng không thể kéo pháo về được, chỉ có thể đem
súng cối và hỏa tiễn về bắn quấy rối. Cọp đen đứng trên 1 mô đất
suy nghĩ. Cối thì cho chúng mày bắn tới tết ông cũng cóc sợ, chỉ
ngán chúng nó kéo hỏa tiễn 122ly về. Hỏa tiễn 122ly là một thứ vũ
khí khủng bố dân lành vì có tầm bắn xa, dễ cơ động nhưng thiếu
chính xác. Nhiều khi hỏa tiễn bay xa mục tiêu cả... chục cây số
vì dàn phóng được mấy ông chế ẩu tả cấp tốc bằng tre, cho nổ 10
quả một lần để rớt bừa bãi vào thành phố rồi bỏ chạy. Trọng đã
từng nhìn thấy cảnh những em bé mất đầu mất tay, những người dân
lành vô tội bị chết thảm thiết vì những trái 122ly này.
Trọng lấy bản đồ ghi chép và đánh dấu
những chỗ cần thiết rồi dắt lính về. Trời đã về chiều, gió cao
nguyên bắt đầu thổi lồng lộng đem hơi lạnh từ trong núi ra. Ngày
đầu tiên như vậy coi như là thành công quá rồi. Trọng đếm từng
bước một trên con đường đất, suy nghĩ vu vơ.
“Vậy là sắp tới Nô Ên rồi trung úy,”
câu nói vô tình của người lính lại trở về với Trọng. Phượng giờ
này chắc đang dạo phố phường hay chuẩn bị bánh trái để đón lễ
giáng sinh sắp tới. Không biết nàng có nghĩ đến mình không nhỉ.
Quái lạ, sau mấy năm tưởng đã quên bẵng người con gái đó, không
hiểu tại sao hôm nay mình lại nghĩ đến nàng tới mấy lần. Trọng
trầm ngâm suy nghĩ.
Thôi đúng rồi, mình từ giã nàng ra đi
vào 1 mùa giáng sinh. Đúng 1 năm sau, cũng vào mùa giáng sinh gió
lộng như thế này, mình đã trở về.
Mắt chàng thấy cay cay. Phượng ơi
Phượng, Phượng đâu hiểu anh vẫn còn yêu Phượng, mãi mãi yêu
Phượng như thuở nào trước khi anh đi lính.
Chuyện tan vỡ của hai người thật ra
không biết phải đổ lỗi cho ai. Nếu có Phượng tại đây, nàng sẽ nói
là tại Trọng. Còn riêng Trọng, chàng nghĩ chính Phượng là
người... phải chịu trách nhiệm nặng nề.
Sau ngày từ giã nàng ra đi, những tuần
lễ đầu, mỗi tuần Trọng đều viết cho Phượng 1 lá thơ. Đó là những
ngày còn nhàn nhã ở trung tâm tuyển mộ nhập ngũ chưa vào quân
trường. Ở đấy, người ta cho các khóa sinh được sống một cuộc đời
tương đối thoải mái để làm quen dần với nếp sống nhà binh.
Hễ nhận được lá thơ nào là Phượng trả
lời ngay lá thơ đó. Tình yêu con gái chan chứa, nàng viết có khi
dài đến 8, 9 trang giấy học trò.
Rồi Trọng vào quân trường Quang Trung,
những lá thơ viết cũng vơi dần theo vì chẳng có dư thì giờ. Thì
giờ ngủ còn chưa có lấy thì giờ đâu để viết. Tuy nhiên, Trọng
cũng cố gắng mỗi tháng viết cho Phượng 1 lá.
Phượng là “gái bên song cửa” nên không
thể hiểu được cái chuyện khó khăn rất bình thường này của nhà
binh. Nàng lại lãng mạn, đo tình yêu bằng những lá thơ nên thấy
tự ái mình bị va chạm nặng nề. Những lá thơ trả lời của Phượng vì
thế cũng lơi dần đi.
Rồi Trọng vào Thủ Đức, lò luyện thép
gian khổ nhất và vĩ đại nhất của giống dân da vàng thời đó, thì
giờ càng trở nên eo hẹp. Thậm chí đến việc đi ăn và đi... cầu mà
cũng phải chạy vắt giò lên cổ thì làm gì có thì giờ ngồi viết thơ
cho Phượng.
Một ngày, Trọng nhận được lá thơ của mẹ già. Mẹ viết: “Hồi con
mới đi, Phượng ngày nào cũng đến chơi với các em con và thăm mẹ.
Nhưng đã mấy tháng nay mẹ không còn thấy Phượng đến nữa. Mẹ hơi
lo xa 1 chút, con đừng buồn. Mẹ không biết con có làm gì cho
Phượng nó buồn không. Con rán biên thơ thăm Phượng. Mẹ quý nó
lắm, nó rất là dễ thương...”
Trọng đang ngồi ôm cây M16 gác tuyến 1
buổi chiều sau giờ học, đọc thơ xong, nhớ nhà, nhớ Phượng, bất
giác hai hàng nước mắt rơi lã chã. Đồng thời, vốn là một kẻ ngang
ngạnh bất khuất từ lúc nhỏ, Trọng cũng thấy tự ái mình bị tổn
thương trầm trọng. Nếu người ta không còn yêu mình nữa thì thôi,
mình không thể hạ mình để xin xỏ tình yêu. Nhất là cái thứ tình
yêu bạc bẽo chỉ có trên đầu môi chót lưỡi kia.
Vài tuần sau, lá thơ tiếp theo của đứa
em gái mới xé nát linh hồn Trọng: “Em thấy thầy Chương dạy toán
hay đến nhà chị Phượng chơi luôn. Một lần gặp em, chị ấy bảo thầy
Chương chỉ là người quen trong gia đình... Em không dám nói gì vì
em biết anh là lính xa nhà và nhà mình lại nghèo nữa... Em nói
cho anh biết vậy thôi, mong anh đừng buồn và hãy rán bảo trọng
tấm thân...”
Trọng gấp lá thư, cười méo mặt lại: “Con nhỏ này thật ngây thơ.
Tin sét đánh như vậy mà bảo người ta đừng buồn...” Nghĩ đến
chuyện đã gần 3 tháng chưa nhận được thơ Phượng, Trọng quyết định
ngưng luôn thư từ với nàng. Thật ra trong lúc đó, Phượng đang đau
khổ vì tưởng Trọng lừa dối mình. Trọng bảo đi học 6 tháng sẽ về,
bây giờ gần cả năm rồi mà chưa thấy tăm hơi gì cả. Thư cũng chẳng
thèm viết về nữa.
Nhà Phượng quả có ông thầy giáo dạy
toán tên Chương hay đến chơi thật nhưng trong nhà chỉ có bố
Phượng thích ông này, ngoài ra chẳng ai ưa cả. Phượng biết mình.
Phượng biết Phượng chỉ có thể yêu Trọng mà thôi. Nàng thường nói
đùa với mấy đứa bạn cùng lớp: “Tao có nói với thầy Chương rằng,
cũng như từ 1 điểm ngoài đường thẳng, người ta chỉ có thể vẽ được
1 đường thẳng thẳng góc với đường thẳng ấy và chỉ 1 mà thôi, trái
tim tao chỉ có 1 hình ảnh Trọng và chỉ 1 mà thôi...”
Tuy yêu tha thiết nhưng vốn được bố mẹ
nuông chiều từ thuở nhỏ, Phượng luôn luôn muốn được làm người
quan trọng, muốn người ta phải năn nỉ mình, muốn được có quyền uy
ngay cả với người mình đang yêu. Vì thế, tuy thư không thèm viết
nhưng trái tim Phượng ngày nào cũng như chảy ra khi nghe thấy có
tiếng xe Honda ngoài ngõ...
Rồi 1 ngày gần lễ giáng sinh, mẹ Trọng
sang báo cho Phượng biết là: “Thằng Trọng mãn khóa rồi, thứ sáu
này ra trường, thứ bảy nó sẽ về đây bằng máy bay quân sự...”
Phượng mừng quá khóc rưng rức. Sáng thứ
bảy, nàng “quên hết hận thù” đến nhà bố mẹ Trọng để cùng ra phi
trường đón Trọng. Cả nhà chờ mãi đến tối chẳng thấy Trọng đâu hết
đành lên xe ra về.
Riêng Phượng, nàng không thể tha thứ
cho Trọng cái tội này được. Nhưng nàng không biết rằng sáng hôm
thứ bảy sau ngày lễ gắn lon, Trọng hí hửng xách hành lý ra trạm
hàng không dân sự Tân Sơn Nhất để nghe một tin chết người: “Vì
nhu cầu hành quân, các phi vụ chuyên chở hành khách thông thường
đã bị hủy bỏ...”
Đáng lẽ chàng nên ra đón xe đò về Nha
Trang liền thì không đến nỗi nhưng chàng nán lại, hỏi người hạ sĩ
quan hậu trạm về chuyến bay kế tiếp. Hắn bảo có thể chiều nay...
Cái “chiều nay” của hắn kéo dài đến...
2 ngày. Có 10 ngày phép quý báu thì đã mất toi hết 2 ngày nằm
chết dí một chỗ ở trạm hàng không quân sự. Trọng đi ra đi vào lẻ
loi buồn khổ như 1 bóng ma, chẳng ai để ý đến. Hóa ra cặp lon
chuẩn úy vàng chóe trên cổ mất cả năm mới giật được đối với thiên
hạ chẳng ra cái thá gì cả. Nhưng chàng cũng tự an ủi được phần
nào khi nhìn thấy có vài ông trung tá đại tá cũng ngồi chờ méo
mặt ra... Quân đội thật là tàn nhẫn và rắc rối!
Mãi chiều thứ hai, lúc Trọng đã bắt đầu
có ý định bỏ đi đón xe đò về thì người ta cho Trọng leo lên chiếc
C–119 về Nha Trang. Nhìn lại thành phố cũ sau 1 năm đã mừng, nhìn
lại căn nhà cũ nơi mình đã sinh ra và lớn lên còn mừng hơn. Trọng
bước vào qua hàng rào và chợt đau đớn nhận ra là nhà mình nghèo
quá. Điều này phải đi lâu ngày về nhà mới nhìn thấy được. Trong
khi các nhà hàng xóm chung quanh mọc lên nào trụ ti vi, nào xe
gắn máy mới đậu trước nhà, nhà Trọng nước sơn nước gỗ vẫn y
nguyên như từ thuở chàng lên 8.
Mẹ Trọng ngồi ngoài hiên, nhìn thấy con
trai liền đứng bật dậy chạy ra cầm lấy tay Trọng vừa khóc vừa
nói:
– Con ơi,
cả năm nay, chiều nào Mẹ cũng ra ngoài hè ngồi chờ con như thế
này...
Thấy
nhà hoang vắng quá, Trọng hỏi:
– Bố đi làm chưa về sao mẹ?
– Về rồi chứ, nhưng bố mày phải đi chạy
xe Honda ôm kiếm chút tiền để phụ với tao. Chạy xe thì mệt thật
đấy và nhục nữa nhưng lương công chức như bố mày thì tiêu làm sao
cho đủ.
Hai mẹ
con cầm tay nhau bước vào nhà. Chàng thấy đồ đạc trong nhà chẳng
có gì thay đổi. Sự nghèo khó thật khó mà giấu thiên hạ. Nghĩ đến
bố mẹ chịu bao nhiêu cực khổ để nuôi nấng mình nên người, bây giờ
khôn lớn mà chẳng giúp gì được gia đình lại phải sống xa nhà, hai
hàng nước mắt của Trọng bất giác tuôn rơi đầm đìa.
Mẹ Trọng mắng:
– Con trai, mày về nhà không mừng tại
sao lại khóc?
– Con khóc à?
– Không khóc thì sao mà mặt mũi đầm đìa nước mắt thế kia, có chùi
đi không người ta nhìn thấy người ta cười cho. Lớn rồi, làm lính
rồi mà cứ còn mau nước mắt.
Suốt buổi chiều hôm đó Trọng ở nhà
không đi đâu cả. Trước cặp mắt ngạc nhiên của mẹ, Trọng săn tay
áo ra múc nước lau nhà. Hết nhà ngoài đến nhà trong, Trọng lau
sạch hơn cả em gái chàng. Xong rồi Trọng giặt thêm mấy thau quần
áo, rửa chén và quay nước giếng đổ đầy mấy phuy. Mẹ Trọng ngồi
trên sạp, nhìn con trai cười hỏi:
– Trường sĩ quan Thủ Đức dạy mày...
chùi nhà và giặt quần áo đấy à? Tao nuôi từ nhỏ đến lớn có thấy
mày động tới cái gì trong nhà này đâu. Tao biết người ta dạy hay
như thế thì tao cho mày đi học làm sĩ quan lúc lên 10 tuổi.
Trọng cũng cười theo mẹ:
– Có quân trường nào lại dạy như thế,
mẹ! Người ta chỉ dạy cách đánh giặc thôi. Suốt năm qua, sáng nào
con cũng phải nhảy xuống đường mương để “chà láng” hai bên, rồi
chùi cầu tiêu, làm đủ thứ việc mà con chưa bao giờ làm ở nhà. Con
nghĩ bố mẹ cực khổ bao nhiêu năm để nuôi con nên người mà không
dùng được, đến lúc đi lính lại được chính phủ xài tối đa nên con
muốn làm vậy để trả chút công ơn sinh thành cho bố mẹ.
– Đi lính thế mà tốt. Tao sinh mày ra
mấy chục năm nay có bao giờ nghe mày nói được một câu hiếu thảo
như thế đâu.
Rồi cu Đán về, nhìn thấy Trọng chỉ nói được 1 câu “Anh về đấy à”
xong là phóng tót lên xe đạp chạy mau như bị ma đuổi. Trọng biết
nó đi đâu và mừng thầm trong bụng. Nó đi báo tin cho Phượng biết
là Trọng đã về.
Nhưng chờ mãi đến tối mà Trọng chẳng
thấy Phượng đến. Cu Đán ngồi trong 1 góc nhà tiu ngỉu. Trọng cũng
muốn đi thăm Phượng nhưng thấy ngại. Xa nhà cả năm mới về chưa
gặp đầy đủ mặt bố mẹ, ai lại bỏ đi thăm bồ bịch như vậy!
Chiều, Trinh, em gái Trọng về, nhìn
thấy Trọng và nhìn thấy nhà cửa bóng tưng thì mừng quýnh lên. Mẹ
Trọng bảo:
–
Anh Trọng chùi nhà và giặt đồ hết cho mày rồi đó.
Trinh ra nhà sau và thấy quả đúng như
lời mẹ nói. Em chạy lên, gạt nước mắt vừa khóc vừa mếu máo nói:
– Sao anh làm thế anh Trọng? Anh đi
lính cực khổ suốt cả năm trời, về nhà có vài ngày không để các em
hầu hạ, anh lại hầu hạ các em.
Mẹ Trọng cười:
– Cái nhà này hôm nay hay thật, hết
người này khóc rồi đến người kia khóc...
Gần 10 giờ đêm, bố Trọng dắt xe Honda
vào ngõ, mặt mày bơ phờ, tóc rối bù. Nhìn thấy Trọng, ông hớn hở
hỏi:
– Con về
rồi đấy à? Ra trường được đổi đi đâu?
– Thưa bố con về Sư đoàn 23 bộ binh.
Bố Trọng tròn mắt lại, khuôn mặt đang
hớn hở bỗng méo đi, giọng ông thẫn thờ như người mất của:
– Nghĩa là mày sẽ đi lính bộ binh, lính
đánh giặc?
–
Vâng!
Ông lắc
đầu, dựng xe lên, giọng cay đắng:
– Con bà Sáu bên này cũng ra trường
cách đây mấy tháng nhưng lẹ mồm lẹ miệng thế nào chạy được về an
ninh quân đội, con bác Sung trong sở tao cũng được ra truyền tin,
1 thằng khác vào không quân đi Mỹ đi Tây vù vù... Chỉ có con
mình, khốn nạn, chẳng ra cái thể thống gì cả, đi cầm súng hứng
đạn cho thiên hạ...
Mẹ Trọng gắt nhẹ:
– Ông này hay nhỉ? Con nó về không mừng
sao lại mắng mỏ um sùm là thế nào?
Trọng không biết phải nói gì trong hoàn
cảnh đó. Nào Trọng có muốn sống cuộc đời khổ cực của người lính
bộ binh. Thậm chí đã xin về tiểu khu Khánh Hòa cho gần nhà mà
cũng không được. Nhà nghèo không có tiền, không vây cánh, không
quen biết lớn thì đành chịu chứ biết sao.
Bố Trọng đứng lặng một lúc rồi bước vào
nhà, khuôn mặt chảy dài ra, lẩm bẩm trong miệng:
– Mẹ, chuẩn úy bộ binh thì ăn cái máu
gì...
Mẹ Trọng
lại gắt:
– Tôi
xin ông! Ông nhìn thấy con đen đủi tội nghiệp đến như vậy ông
không động lòng sao, cứ đay nghiến mãi...
Trọng nghe rõ những gì bố nói nhưng
không cảm thấy buồn chút nào vì chàng hiểu bố. Bố chỉ thương con
mà nói vậy. Làm cha ai cũng cầu mong cho con cái được sung sướng.
Mà nghĩ cho cùng, bố nói đúng. Chuẩn úy bộ binh thì ăn cái máu
gì.
Mẹ Trọng
dọn cơm, đưa cu Đán 50 đồng bảo ra đầu ngõ mua cho bố xị đế.
Trọng ngồi bên cạnh bố, cố tìm một lời an ủi. Ông so đuã, nhìn
con trai rồi rót cho chàng 1 cốc rượu nhỏ:
– Mày đi lính biết uống rượu không?
– Cám ơn bố, con xin mời bố mời mẹ sơi
cơm...
Rồi
Trọng nghẹn lời. Đã 1 năm qua, chàng chưa bao giờ được dịp nói
như vậy.
3
người lẳng lặng nâng chén đũa nhưng không khí nặng nề làm sao ấy.
Riêng Trọng, chàng vờ vịt chan gắp cho mẹ vui lòng. Cơm không thể
nào nuốt nổi. Nhìn cảnh nhà nghèo khó, cảnh bố chạy gạo lam lũ
Trọng thấy mình không làm tròn bổn phận của người con trai lớn
trong gia đình.
Uống gần hết ve rượu, bố Trọng lim dim
đôi mắt. Men rượu làm thần kinh ông trở nên dịu dàng, những khó
khăn của cuộc sống dường như tạm rời khỏi trí ông. Ông gắp một
miếng thịt bỏ vào chén Trọng:
– Tặng cho con trai. Hồi chiều bố có
nói gì con đừng buồn. Bố suy nghĩ lại, bố thấy bố hơi quá. Con
rán ăn đi, vài hôm nữa vào rừng không có mà ăn đâu con.
Trọng bỗng bỏ đũa, nhìn bố nghẹn ngào:
– Thưa bố, con xin lỗi bố.
Bố Trọng nhìn xéo con trai:
– Mày làm gì?
– Con xin lỗi bố vì con bất hiếu. Bố mẹ
nuôi con cực khổ, bây giờ con đã lớn, nhà cửa lại sa sút mà con
không được gần gũi để hầu hạ giúp đỡ bố mẹ, con thấy xót xa lắm.
Bố Trọng lim dim suy nghĩ một lúc rồi
nắm tay con trai, nghẹn ngào:
– Con trai ơi, mày phải biết là ra đi
đáp lời sông núi là hành động báo hiếu cao cả và có ý nghĩa nhất
đấy con ạ.
Trọng nhìn bố. Lần đầu tiên trong đời, chàng thấy bố khóc. Hai
hàng nước mắt chảy dài trên khuôn măt già nua, sạm nắng. Ông nhìn
thẳng vào đôi mắt Trọng, giọng đau đớn nhưng quyết liệt:
– Có gia đình mà không còn tổ quốc thì
có hơn gì những người khách trú, chỉ vì miếng ăn mà chỗ nào cũng
sống được. Từ rày trở đi, con xa bố mẹ, trên bước đường chinh
chiến, dù cực khổ hay nguy hiểm đến đâu con cũng phải nhớ lời bố
con dạy như vậy.
Rồi ông đứng lên bỏ đi vào nhà trong.
Trọng bắt ghế ra ngồi trước hiên nhà hút thuốc, nhìn sao trời
lồng lộng, suy nghĩ mông lung về gia đình, về tổ quốc, về những
lời bố nói...
Nhưng sự suy nghĩ nào của Trọng rồi cũng dẫn đến... Phượng. Nghĩ
đến Phượng, chàng thấy lòng mình quặn đau. “Biết mình về mà sao
nàng không thèm đến thăm mình nhỉ?” Nàng quên mình thật rồi...
Trọng cứ suy nghĩ mãi như vậy cho đến khi lên giường đi ngủ. Ngày
đầu tiên về nhà chàng cảm thấy thật khác với những gì mình đã mơ
ước từ 1 năm nay.
Sáng hôm sau, Trọng ngồi uống cà phê và
ăn xôi với mẹ. Mẹ bảo:
– Lát nữa con thay đồ đi thăm Phượng
đi.
Trọng tính
nói “Việc gì phải thăm người ta” nhưng nhìn ánh mắt van lơn của
mẹ, chàng gật đầu. Gần trưa, Trọng dựng xe Honda trước nhà
Phượng, bước từng bước một nặng nề vào nhà.
Mọi người vui vẻ chào mừng Trọng, nhưng
chàng như đọc thấy được vài tia nhìn thương hại trong ánh mắt của
người ta. Điều này làm Trọng bực mình.
Trọng ngồi ngoài phòng khách tán gẫu
với mẹ Phượng, uống gần hết ly nước trà, Phượng vẫn chưa chịu
xuất hiện. Chàng thấy bất mãn và tự ái bị tổn thương nặng nề. Nếu
Phượng không còn thương mình nữa, thì cũng tiếc gì vài lời thăm
hỏi dành cho 1 người quen biết đi lâu ngày mới về?
Trọng đốt hết điếu thuốc, Phượng cũng
chưa thèm ló mặt ra. Chàng ngồi thêm một lúc nữa rồi tự nhủ lòng
mình: “Người ta đã không thèm tiếp thì thôi, nên về đi Trọng,
đừng hạ mình chờ đợi lâu như thế...”
Thế là Trọng đứng lên kiếu từ, mẹ
Phượng níu kéo bao nhiêu cũng không được:
– Cháu đến thăm bác và Phượng, rất tiếc
Phượng bận. Xin phép bác cháu về, hôm khác cháu lại ghé.
Mẹ Phượng xoay vào trong nhà la toáng
lên:
– Cái con
phải gió này, tao thì quật cho mấy cái chổi lông gà! Anh ấy đến
chơi sao mày không ra tiếp.
– Thôi cháu xin chào bác.
Rồi Trọng xoay người bước mau ra cửa.
Thật ra, lúc ấy Phượng đang ngồi khóc
âm thầm trong phòng. Nàng muốn bắt Trọng chờ dăm ba phút để phạt
Trọng mấy cái tội. Tội thứ nhất, 6 tháng không thèm về như đã
hứa. Tội thứ hai, không về cũng chẳng thư từ suốt 4, 5 tháng. Tội
thứ ba, bắt nàng chờ suốt 1 ngày hôm thứ bảy ở phi trường. Và tội
thứ tư nặng nhất, về nhà hôm qua mà mãi đến hôm nay mới thèm đến
thăm Phượng.
Nhưng Phượng không ngờ Trọng nóng tính quá, bỏ về liền. Ngồi
trong phòng, Trọng nói gì, mẹ nàng nói gì nàng nghe hết. Nghe hết
và lòng quặn đau nhưng không thể ra được vì tự ái. Anh ấy đòi về
mình mới chịu chạy ra là thua anh ấy rồi... Suốt ngày hôm đó,
Trọng chạy xe lang thang khắp thành phố rồi cuối cùng dừng xe ở
bờ biển. Trọng kiếm một nơi vắng lặng, ngồi im lìm trên cồn cát
hút thuốc lá lơ đãng nhìn sóng vỗ...
Về nhà chưa tới 24 tiếng mà đã có bao
nhiêu chuyện thay đổi. Trọng chợt nhớ lại truyện của anh chàng Từ
Thức mà chàng nghe được lúc nhỏ.
Anh chàng này đi chơi lạc vào cõi tiên
chỉ có mấy ngày, lúc trở lại trần thế, thấy cảnh vật đổi thay,
hỏi một cụ già mới biết là mình đã vắng mặt mấy trăm năm, những
người cũ đều đã chết cả. Trọng nghĩ cái thành phố này với mình
hình như cũng vậy thôi. Mình là Từ Thức tân thời chăng, sao thấy
cái gì cũng thay đổi. Từ con người cho đến cảnh vật.
Tuy hứa với mẹ Phượng là hôm khác con
trở lại nhưng cho đến ngày lên đường, Trọng chẳng bao giờ trở lại
thăm Phượng. Phượng không biết Trọng chỉ ở nhà có mấy ngày, vẫn
nhất quyết làm reo như những ngày còn đi học. Phượng cứ nghĩ
“Trước sau gì rồi anh ấy cũng trở lại đây xin lỗi mình” như ngày
xưa còn đi học. Hồi đó, cơn giận của Phượng có khi kéo dài đến 2
tháng.
Sáng
hôm ngày lên đường, Trọng gọi cu Đán vào, cho nó 500 đồng, đưa 1
phong thư:
–
Em đem lá thơ này đưa tận tay chị Phượng.
Lá thư đó, Trọng chỉ nguệch ngoạc vài
chữ:
“Anh đi.
Hôm nọ, đến thăm em mà không được gặp. Anh ra đi mà lòng áy náy
vô cùng, không biết mình sẽ phải làm gì nữa. Dù sao thì cũng chúc
Phượng một mùa giáng sinh vui vẻ. Không biết chừng nào anh mới
được về lại Nha Trang.
Nguyễn Văn Trọng
Tái bút: Hình như, anh nhớ, đã có một
thời chúng mình yêu nhau ghê lắm phải không Phượng...”
Chỉ có vậy thôi là Trọng biến mất khỏi
thành phố, lầm lũi và âm thầm như 1 bóng ma. Chàng tự nhủ lòng
mình chắc phải lâu, lâu lắm mình mới trở lại thành phố này.
Suy nghĩ miên man về mùa giáng sinh
buồn năm đó mà Trọng dắt lính về đến gần nơi đóng quân lúc nào
không hay. Đang để ý quan sát hầm hố của lính tráng thì Trọng
bỗng nhìn thấy cha Thanh cùng mấy em đoàn hát nhà thờ hì hục đẩy
1 chiếc xe bò không có... bò kéo. Trọng tải chiếc xe hình như
nặng lắm nên năm sáu người đẩy, ai nấy cũng mồ hôi mồ kê nhễ
nhại.
Tới gần
chút nữa, chàng thấy chiếc xe bò chất đầy đá xanh. Bánh xe sắt
lún sâu xuống mặt đường đất.
Cha Thanh nói:
– Rán lên chút nữa đi chúng con, chiều
rồi, không khéo thì tối mất... A, chào anh Trọng, tưởng anh đã về
rồi...
Chiếc
xe bò bị chất quá trọng tải, cứ đứng yên một chỗ không thèm nhúc
nhích. Một cậu thanh niên đề nghị:
– Hay mình đổ bớt đá xuống đi cha, nặng
quá chắc đi không nổi.
Cha Thanh đang chưa kịp trả lời thì đã
nghe tiếng nói của đại đội trưởng trinh sát Nguyễn văn Trọng:
– Cha để chúng con giúp một tay.
Nói xong Trọng xoay người nhìn lính,
chỉ tay vào chiếc xe bò, phất một cái rồi chạy tới kề vai vào
thành chiếc xe bò đầu tiên. Lính của Trọng lột hết súng ống gom
lại một đống cho 2 người giữ, số còn lại ào tới vây kín chiếc xe,
kề vai đẩy phụ.
Trọng hô to:
– Nào bây giờ tất cả nghe tôi đếm
đây... 1,2,3... lên.
Chiếc xe bò nặng nề như được nhấc bổng
lên khỏi mặt đất, đi tới trước, bánh xe đánh những vòng tròn đều
đặn, kẽo kẹt.
Được một lần mấy chục “quới nhân” giúp đỡ bất ngờ, mặt cha Thanh
tươi hẳn lên, luôn miệng nói:
– Tốt quá, tốt quá, cám ơn mấy anh vô
cùng...
Trọng
hỏi cha Thanh:
– Cha chở đá về xây nhà thờ mới?
Cha Thanh thở phì phò, cười:
– Không, tôi ở đây chỉ có 2 tháng, làm
gì có thì giờ xây nhà thờ. Cách đây mấy tuần, khi mới về đây, tôi
để ý thấy một điều là làng này có nhiều người bị gãy chân và què
tay...
Trọng
thoáng lên 1 ý nghĩ đen tối: Thượng cộng đi đánh du kích bị phi
pháo của ta chứ gì.
Cha Thanh nói ngay:
– Không phải như anh nghĩ đâu. Lúc đầu
tôi cứ tưởng vậy nên để ý tìm hiểu và 1 tuần sau chính tôi xém tí
nữa thì bị gãy chân.
Trọng ngạc nhiên. Cha Thanh cười:
– Đơn giản lắm. Làng này có 1 con suối
để cho người ta lấy nước và tắm giặt. Đường từ dưới suối lên đến
làng là 1 cái dốc rất cao, rất nguy hiểm vì không điểm tựa lại
trơn trợt. Bình thường muốn đi lên hay xuống phải cẩn thận lắm
mới khỏi té. Trời mưa thì càng nguy hiểm hơn gấp bội phần.
Trong nhớ lại con suối nhỏ sau làng mà
mình đã đi quan sát lúc nãy. Dưới cặp mắt nhà binh của Trọng,
chàng chỉ quyết đoán được 1 điều là Việt Cộng không thể kéo pháo
qua con suối được nếu không có cầu vì đứng trên nhìn xuống mà
chàng đã thấy rợn người. Nếu lỡ trợt chân té xuống thì nhẹ là què
tay gãy chân, nặng là có thể va đầu vào đá mất mạng như chơi.
Nhưng cũng cùng 1 con suối đó, dưới cái nhìn của một con người có
lòng từ bi bác ái thì lại thấy khác. Cha Thanh nhìn thấy sự nguy
hại của dân làng.
– Vậy cha chở đá về để làm đường?
– Đúng! Tôi xin được tòa giám mục mấy
xe đá, tính làm 1 con sạn đạo nhỏ thôi. Thật ra chẳng có gì khó,
chỉ trải đá rồi đầm nó xuống là xong. Theo dự trù của tôi, làm
lai rai đến lễ Noel thì phải xong con đường nhỏ này, chẳng ngờ xe
GMC chở đá vào đây bị mắc lầy, đành phải đổ đá xuống gần quốc lộ
rồi từ từ khiêng vào.
– Sao cha không kêu dân làng ra giúp
một tay?
– Mùa
này đúng là mùa rẫy bái của họ, những người có sức lực đều ra đi
từ lúc mờ sáng. Lúc nãy anh vào làng thấy trống trải chắc đã biết
rõ.
Một ý
tưởng hay thoáng qua đầu óc Trọng. Nếu mình kéo hết đại đội xuống
đây thì mấy đống đá này sẽ được thanh toán trong vòng vài tiếng
đồng hồ. Sau đó, nếu mỗi người một tay thì con đường sạn đạo sẽ
được đắp không khó lắm.
Tối đó, Trọng tập họp đại đội lại, kể
chuyện cha Thanh, chuyện con suối nhỏ và cho biết quyết định của
mình cho lính nghe. Trọng kết luận:
– Anh em biết, chỉ còn vài ngày nữa là
đến lễ giáng sinh. Phong tục của lễ Giáng Sinh là người ta thường
tặng quà nhau. Tôi đề nghị Đại đội 45 trinh sát chúng ta đắp con
đường sạn đạo tặng cho dân làng buôn Thraa. Những người Thượng
miền núi này từ đây sẽ có 1 cái nhìn khác về người lính quân đội
Việt Nam Cộng Hòa...
Lính tráng vỗ tay rần lên. Chàng ngạc
nhiên, không ngờ những con người ngang ngược thô lỗ, bắn giết
chuyên nghiệp đang đứng trước mặt mình đây lại có những trái tim
đầy lòng nhân ái như vậy. Hóa ra, ở nơi mỗi con người, dù sống
trong hoàn cảnh nào đi nữa vẫn còn có một tấm lòng.
– Rồi, anh em về chuẩn bị nghỉ ngơi và
canh gác. Các trung đội trưởng ở lại gặp tôi để nhận chỉ thị đặc
biệt. Tan hàng.
Hàng trăm cái miệng cùng la to lên, đầy
hứng khởi, vang động cả núi rừng:
– Cố gắng!
Đại đội vừa tan hàng, Trọng đang ngồi
phân chia công tác và bàn định địa điểm thả quân phục kích với
mấy trung đội trưởng thì toán lính tiền đồn gọi máy báo cáo phát
hiện 1 người mặc đồ đen đang tiến gần tới chỗ đóng quân. Trọng
chụp ống liên hợp nói liền: “Chỉ thị của Cọp Đen: Tuyệt đối cấm
nổ súng. Tôi lặp lại, tuyệt đối cấm không được nổ súng trong bất
cứ trường hợp nào. Cho người ra tiếp xúc rồi báo cáo.”
Chàng moi óc suy nghĩ cố tìm hiểu xem
tại sao lại có người muốn tới nơi đóng quân của mình vào lúc trời
gần tối như thế này. Một lúc sau, toán phòng thủ báo cáo người
mặc đồ đen là “Cha Thanh”. Cha Thanh muốn gặp Trọng. Trọng mừng
rỡ nhưng hơi lo lắng. Trời gần tối, cha Thanh đột ngột lên đây ắt
phải có chuyện gì đặc biệt. Chàng đứng dậy móc cây Colt 45 nhét
vào bụng, chỉ 1 ông trung đội trưởng:
– Anh, anh về liền lập tức cho trung
đội anh chuẩn bị súng ống chờ lệnh điều động của tôi. Những người
còn lại ngồi đây chờ tôi, lát tôi trở lại.
Rồi Trọng ngoắc tay cho người cầm máy
đi theo mình. Hai thầy trò lao nhanh xuống đồi.
Trọng nhìn thấy cha Thanh mồ hôi mồ kê
nhễ nhại đang vác trên vai 1 gói gì to tướng trên vai.
– Chào cha! Cha làm con muốn đứng tim.
– Chào anh Trọng, anh phải tha lỗi cho
cái tội đường đột của tôi.
Trọng ra tới ngoài tuyến phòng thủ, bắt
tay cha Thanh. Ông đưa cho Trọng gói đồ:
– Hồi chiều bận quá nên quên, có 1 ít
khô nai tôi muốn đem lên tặng anh em cho kịp trước bữa cơm tối.
Mà mấy anh em dùng cơm chưa, tôi sợ trễ bữa cơm tối nay nên phải
vội vã như vậy.
Trọng đỡ gói đồ thấy nặng lắm, có thể
gần 20 ký. Chàng nghĩ đến đoạn đường dài với gói đồ nặng trên vai
của cha Thanh mà thấy thương cho ông vô cùng.
– Cám ơn cha, tội nghiệp cha vì chúng
con mà phải cực khổ như vầy. Mà cha bày vẽ làm gì... Mời cha vào
thăm “nhà” của chúng con một chút...
Trọng giữ lại một ít khô còn bao nhiêu
chia đều cho 4 trung đội trưởng, nói:
– Các anh nhớ nói cho lính biết là quà
của cha Thanh đấy.
Lính dọn cơm cho Trọng và cha Thanh
ngồi ăn trong lều chỉ huy. Trọng hỏi:
– Cha uống bia được không?
– Được chứ!
Trọng bỏ mấy cục nước đá vào cái ca
nhôm rót đầy ly bia rồi nói:
– Mời cha làm dấu.
– Cám ơn anh.
Trong căn lều thấp bé của bộ chỉ huy
đại đội, 1 ông tu sĩ và 1 ông sĩ quan quân đội ngồi ăn uống rất
tương đắc, cười nói luôn mồm.
Cha Thanh ngạc nhiên đến độ muốn đánh
rơi cả chén đũa khi nghe Trọng nói ngày mai anh em trinh sát sẽ
tình nguyện xuống khiêng đá làm sạn đạo để tặng cho dân làng buôn
Thraa. Cha mừng quá đến nghẹn lời, không biết nói gì, cứ luôn
miệng khen:
–
Thế thì tốt quá, thế thì tốt quá...
Cơm xong, Trọng rót cho cha Thanh ly
nước trà.
–
Các anh hay thật. Trong rừng trong núi mà vẫn chuẩn bị được những
bữa ăn tươm tất như thế này, tôi quả thật không ngờ. Cứ tưởng
lính tráng ăn uống kham khổ lắm.
Trọng cười:
– Thường thì không được như vậy nhưng
hôm nay đặc biệt vì chúng con đựơc đóng quân gần thành phố, phải
cố gắng “sống như người văn minh một lần cho biết...”
Câu nói của Trọng làm lòng cha Thanh
chùng xuống. “Sống như người văn minh một lần cho biết”. Cha nghĩ
đến những người tuổi trẻ Việt Nam khác cùng tuổi Trọng giờ này
đang du học ở ngoại quốc, những người tuổi trẻ khác đang hút xì
ke, đang biểu tình và xuống đường ở thành phố... Than ôi, thật
chưa bao giờ có một thứ tuổi trẻ nào đáng thương và bị đối xử bất
công bằng tuổi trẻ Việt Nam.
Thấy cha Thanh có vẻ nghĩ ngợi, Trọng
lại tự nhiên nghĩ đến cuộc đời của những vị tu trì như cha Thanh.
Chàng không hiểu tại sao 1 người tuổi trẻ, hát hay, tài cao, đang
học hành ngon lành ở bên Pháp, tương lai sáng rỡ bỗng tự nhiên từ
bỏ tất cả đi làm linh mục để về đây coi cái làng Thượng nghèo hèn
đầy Việt Cộng này...
Cha Thanh nhìn đồng hồ có vẻ muốn từ
giã rồi nghiêm nghị nhìn Trọng nói:
– Anh Trọng, tôi lên đây gặp anh vì 2
lý do. Trước hết, để tặng mấy anh một mớ khô nai, thứ nhì...
Trọng chờ đợi.
– Thứ nhì là tôi có một chuyện muốn nói
với anh...
Cha
Thanh móc trong túi ra 1 bức hình đưa cho Trọng coi. Trọng đỡ
lấy, nhìn thấy 1 phi công trẻ tuổi đẹp trai đang cười toe toét
dưới chân một chiếc khu trục cơ Skyraider. Giọng cha Thanh trở
nên bùi ngùi:
– Đó là di ảnh của cố Trung úy phi công Trần văn Toàn, anh ruột
của tôi. Anh Toàn bị bắn rơi trong 1 phi vụ oanh tạc tại miền cao
nguyên này, lúc tôi đang học sắp trở thành linh mục.
Trọng tá hỏa mặt mày. Từ lúc sáng đến
giờ, chàng tuy lễ phép với cha Thanh nhưng luôn luôn coi cha là
một người thuộc “phía bên kia”. Không ngờ anh ruột của cha Thanh
là 1 phi công đã hy sinh vì tổ quốc.
– Sáng nay, lúc nói chuyện với anh, tôi
là 1 linh mục của buôn Thraa. Bây giờ, tôi là 1 người Việt Nam
nói chuyện với anh...
Trọng kính cẩn hai tay nâng tấm hình
trả lại cho cha Thanh.
– Tôi rất quý anh tôi. Đúng hơn, tôi
phải nói từ lúc nhỏ, anh Toàn là thần tượng của tôi. Lý do chính
mà tôi xin về phục vụ ở miền cao nguyên đồi núi này cũng là vì
anh Toàn. Tôi muốn hiến dâng đời mình để phục vụ Thiên Chúa ở một
chỗ mà anh tôi đã hiến dâng đời mình cho tổ quốc...
Mắt cha Thanh buồn thăm thẳm:
– Trong phúc âm, Chúa nói rằng: Không
có tình yêu nào lớn bằng hy sinh mạng sống cho người mình yêu...
Cha Thanh đứng lên, chìa tay ra:
– Chỉ có vậy thôi. Truyện này tôi chưa
hề nói cho ai nghe, nhưng tôi nói cho anh nghe là vì tôi quý anh.
Sáng nay lúc nói chuyện với anh, tôi thấy anh có vóc dáng và điệu
bộ hiên ngang của anh Toàn...
Trọng đứng dậy theo, bắt tay cha Thanh:
– Cám ơn cha đã cho con biết chuyện anh
Toàn. Sáng mai mình gặp nhau ở bìa làng.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa mọc, Trọng
đã cho đại đội tập họp, cắt toán canh gác, phân chia công tác rồi
dẫn quân vác xẻng cuốc ào xuống đồi. Cha Thanh đã chờ sẵn ở dưới
với 1 bình cà phê vĩ đại.
Vài tiếng đồng hồ sau, tất cả mấy đống
đá được thanh toán sạch sẽ, đem về chất thành từng đống trên bờ
suối. Trọng hỏi ý kiến của 1 ông trung sĩ từng là thợ nề trước
khi vào lính rồi cho ông ta đứng ra chỉ huy để làm đường. Bắt đầu
từ dưới bờ suối, đá được đóng sâu vào đất lần lần đi lên.
Tiếng đập đá, tiếng gọi nhau, tiếng
cười nói vang lên rộn ràng như một cái chợ. Lính vừa làm việc vừa
đùa giỡn với nhau. 1 đứa khiêng đá, cao hứng ong ỏng hát: “Ai bảo
chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ... Ngồi mình trâu ta rờ
sừng trâu, rồi ta bóp... dzú trâu...”
Nhiều người cười ồ lên. Cha Thanh cũng
cười. 1 đứa khác ca vọng cổ: “Em Lan ơi, hạnh phúc của đôi ta
không phải là lầu son gác tía, mà chỉ là 1 túp lều tranh với 2
cái hủ... vàng...” Trọng phì cười. 2 hũ vàng thì mua được mấy
trăm cái lầu son gác tía.
Lòng mọi người như tràn ngập một nỗi
niềm hân hoan sung sướng vì một công việc bác ái nhỏ mọn. Trọng
là người làm việc hăng nhất, đi đứng và chỉ chỏ luôn mồm. Lính
tráng thấy thế, càng ra sức làm việc.
Chỉ một lát sau, dân làng buôn Thraa
không biết từ đâu mò về. Họ vây quanh toán người làm việc to nhỏ
nói chuyện với nhau. Tuy không hiểu được tiếng Thượng, nhưng
Trọng nhìn thấy được những nỗi hân hoan trên khuôn mặt họ.
Chiều ngày hôm sau, tối trước lễ giáng
sinh, công tác hoàn thành. Con đường rắn chắc, lớn và đẹp như
trong một bức họa của miền đồng quê trong tranh.
Lính khắc nguệch ngoạc vài chữ vào 1
tấm biển gỗ, đóng vào 1 thân cây: “Tòa GM Kontum và ĐĐ 45/TS,
SĐ23BB/QLVNCH thân tặng.”
Trọng đứng nhìn con đường đá xanh bắt
đầu từ dưới bờ suối chạy lên tới con đường mòn phía trên như
người họa sĩ nhìn lại tác phẩm của mình. Lòng chàng rộn lên một
niềm vui khó tả.
Tiếng tập hát của ca đoàn trong làng
bỗng vẳng ra, lồng lộng trong gió:
“Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng
bừng...”
Trọng
đốt 1 điếu thuốc để cho lòng mình bay loãng theo tiếng hát và
không hiểu tại sao, lại nhớ đến Phượng.
Nghĩ đến Phượng, lòng chàng như thắt
lại. 2 năm sau ngày từ bỏ thành phố, Trọng lại trở về nhà. Lần
trở về thứ nhì kể từ khi chàng đi lính.
2 năm chiến trận của vùng rừng núi Tây
Nguyên đã biến Trọng thành 1 thứ lính bộ binh dày dạn của chiến
trường. Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng đi đứng, ăn nói, làm cái gì cũng
ngang tàng và dường như người lúc nào cũng tiết ra một thứ
chất... chỉ huy.
Ngồi trong nhà, chàng nhìn thấy cảnh
vật nhà mình vẫn nghèo hèn, không khí vẫn tiêu điều như ngày nào
chàng ra đi nhưng lạ một điều là Trọng không còn thấy chua xót
nữa. 2 năm qua, dọc ngang khắp nẻo đường quê hương, Trọng đã nhìn
thấy quá nhiều gia đình sống khốn khổ nghèo hèn hơn nhà mình gấp
mấy lần. Nước mình chẳng có được bao nhiêu gia đình giàu, còn đa
số đều lầm than cực khổ cả.
Mẹ Trọng báo một tin động trời:
– Con Phượng sắp làm đám cưới rồi đấy
con.
Trọng
bình thản hỏi mẹ:
– Với ai vậy mẹ?
– Ông giáo Chương. Tao đã bảo mãi, thời
buổi này mà không nhanh tay nhanh chân thì ở giá suốt đời con ạ.
Tao quý con Phượng quá, tao tưởng mày với nó thế nào cũng thành
thân được với nhau.
Trọng nâng ly bia uống cạn, đưa tay
quẹt ngang miệng một cái:
– Con còn trẻ mà mẹ...
– Trẻ mà suốt đời cứ ở trong rừng thì
làm sao mà lấy được vợ hở con?
– Mẹ cứ lo vớ vẩn...
Tuy miệng nói cứng nhưng lòng Trọng
đang đứt từng khúc. Chàng ra đứng trước hiên nhà, nhìn lên trời
cao và chợt nhớ đến 1 tấm hình poster nhập cảng. Tấm hình vẽ 1
cậu bé đưa hai tay ra thả con chim bay lên trời với hàng chữ:
“When you love some things, set it free. If it comes back to you,
it is yours. If it doesn't, it never was.”
Câu văn tiếng Anh dài dòng nhưng có thể
diễn nghĩa bằng một câu tục ngữ Việt Nam ngắn: “Giữ người ở,
chẳng ai giữ người đi...”
Chàng tính lên xe Honda bỏ đi nhậu thì
Trinh về. Em len lén nhìn mẹ rồi bảo nhỏ Trọng:
– Chị Phượng muốn gặp anh.
Trọng tái mặt, lòng dạ đau đớn bồi hồi.
Gặp nhau làm gì nữa Phượng. Hết rồi. Đứa em gái tiếp luôn:
– Chị ấy... chị ấy khóc sưng cả mắt.
Trọng đứng lặng yên suy nghĩ 1 lúc rồi
chẳng nói chẳng rằng, lừng lững bước ra đạp máy chiếc xe Honda.
Mẹ Trọng hỏi vọng ra:
– Con đi đâu thế?
Trọng trả lời thản nhiên:
– Đi uống rượu mẹ ạ, tối con về...
Chàng rồ ga chiếc xe, quay đầu bảo với
em gái:
– Mày
nói hộ với chị Phượng, tao không có nhà.
Chiếc xe Honda lao tới trước, tiếng
động cơ gầm lên như một cơn cuồng nộ.
Trọng đang ngồi trong quán với đám bạn
học cũ, uống vừa hết chai bia thứ năm thì nhìn thấy Phượng đột
ngột bước vào quán. Nàng đẹp lộng lẫy như ngày nào nhưng buồn,
buồn kinh khủng. Nhìn thấy Phượng, ngụm bia Trọng vừa uống xém
phun cả ra ngoài. Mấy đứa bạn của Trọng chẳng lạ gì Phượng, nhìn
Phượng rồi khó chịu quay mặt đi. Trọng cúi đầu, xoay xoay cái ly
trong tay, tự hỏi không biết nàng đến đây để làm gì.
Phượng tới bàn Trọng, nhìn mọi người
dịu dàng nói:
– Mấy anh cho phép Phượng nói chuyện riêng với anh Trọng một chút
được không?
Không ai nói gì. Phượng nói tiếp, lần này giọng cương quyết hơn:
– Phượng phải nói chuyện với anh Trọng.
Mấy anh thông cảm cho Phượng.
Trọng hất đầu làm dấu. Đám bạn rời bàn
đứng lên. Phượng cười ngay. Cũng nụ cười cũ, nụ cười đẹp rạng rỡ
mà Trọng đã từng say đắm trong bao nhiêu năm. Phượng hỏi:
– Anh không mời Phượng ngồi sao?
Trọng tính nói “Tôi đâu dám mời vợ
người ta ngồi” nhưng kềm hãm được. Dù gì đi nữa thì hai người
cũng đã có thời yêu nhau. Trọng kéo cái ghế hơi xa xa:
– Mời Phượng.
Phượng kéo vạt áo dài ngồi xuống. Nàng
để hai tay trên bàn, nghiêng đầu say đắm nhìn Trọng như nhìn một
bức họa trác tuyệt nhất của trần gian. Mắt nàng mở to như muốn
lấy hết những gì mình trông thấy. Trọng bối rối nửa như muốn
tránh ánh mắt mềm dịu đầy yêu đương của nàng, nửa như muốn đón
nhận nó cho bõ những tháng ngày nhớ nhung cay đắng.
Một lúc thật lâu sau đó cũng chưa ai
nói với ai lời nào. Hình như trong hoàn cảnh này, chỉ có sự yên
lặng là tiếng nói hay nhất. Rồi Trọng cắm 1 điếu thuốc vào môi,
Phượng nhanh tay bật 1 que diêm cho chàng. Ánh lửa lóe lên, Trọng
càng thấy Phượng đẹp lạ lùng. Trọng ngần ngừ 1 giây rồi khom
người tới che tay mồi lửa. Chàng thoáng ngửi được mùi nước hoa và
mùi thơm da thịt dịu dàng từ người Phượng toát ra. Trọng thấy tâm
thần ngây ngất. Chàng nhớ, gần 10 năm trời, mình nghiện cái mùi
này, không thể sống thiếu nó dù chỉ một ngày. Rồi lại nghĩ đến
chuyện Phượng sắp lên xe hoa, tim chàng thắt lại. Trọng hút một
hơi thuốc, nhả khói lên trần. Phượng thổi tắt que diêm, ngồi yên
ngắm Trọng hút thuốc lá. Nàng cũng nhận ra là từ lâu, mình nhớ
cái hình ảnh này của Trọng.
Cả hai lại im lặng. Một lúc lâu sau,
Trọng hỏi:
–
Phượng sắp lấy chồng, đến đây gặp tôi không sợ thiên hạ đàm tiếu
sao?
Phượng
hỏi ngược lại:
– Anh khinh Phượng lắm phải không?
– Tại sao lại phải khinh?
– Anh đừng vờ vịt nữa. Vì Phượng đã
phản bội anh. Anh Trọng, ngay cả Phượng còn tởm Phượng nữa, nói
gì ai?
Trọng
khựng người. Xưa nay Phượng nổi tiếng là một người con gái bạo
dạn ăn nói chẳng kiêng nể ai, nhưng chàng không ngờ Phượng lại
bạo đến như vậy. Rồi bỗng Trọng nhìn thấy hai hàng lệ chảy dài
trên mặt nàng. Giọng Phượng nhỏ lại, ấm ức:
– Anh đừng làm khổ Phượng nữa anh Trọng
ạ. Anh thừa biết, dư biết, biết chắc và biết rõ rằng là trên đời
này Phượng chỉ yêu mình anh mà thôi...
Trọng chớp mắt thật mau. Trái tim của
con cọp đen lừng danh vùng tam biên bỗng chảy ra. Chảy mềm ra
trước những lời nói gay gắt nhưng chân tình của người tình cũ.
Bao nhiêu hận thù, bao nhiêu cay đắng từ mấy năm qua bỗng chìm
mau xuống hết. Bất giác, Trọng đưa tay ra nắm lấy bàn tay Phượng,
bàn tay mà đã gần 4 năm chàng chưa được nhìn thấy.
Phượng đưa hai tay ôm chặt lấy bàn tay
của Trọng rồi cúi đầu, nói qua cơn thổn thức:
– Phượng phải lấy chồng vì Phượng đã có
thai hai tháng...
Trọng chẳng có một phản ứng nào cả, cặp
mắt chỉ trở nên buồn thăm thẳm:
– Với thầy Chương?
– Không phải thầy Chương đâu anh ạ,
thầy Chương cao thượng, chỉ hy sinh lấy Phượng vì yêu Phượng.
Chuyện này lỗi hoàn toàn của Phượng. Một tối Phượng đi ball, quá
vui nên uống chút rượu với bạn bè, chẳng ngờ...
Mắt Trọng tóe lửa lên và thấy đau nhói
trong tim. Tay chàng run lên từng hồi trong tay Phượng. Phượng
nghẹn ngào tiếp:
– Thằng Dân con ông trưởng ty Công
Chánh đó anh ạ. Sáng hôm sau, Phượng tỉnh dậy trong phòng ngủ với
nó. Phượng đã trở thành đàn bà từ sau đêm hôm ấy...
Trọng rít khẽ qua hai hàm răng:
– Quân khốn nạn.
Phượng khóc lên rưng rức. Nhiều ánh mắt
đổ dồn về phía hai người. Trọng ái ngại kéo ghế ngồi gần Phượng
để che lấp cảnh nàng khóc. Trọng hỏi:
– Thầy Chương biết chuyện này?
Phượng gật đầu:
– Chỉ có thầy Chương và Phượng biết
thôi.
Phượng
nghiêng người sát vào Trọng, mân mê bàn tay chàng:
– Anh Trọng, chuyện buồn của Phượng,
Phượng đã nói hết, anh có khinh Phượng không?
– Không em ạ. Lỗi không phải ở em. Lỗi
ở thằng khốn nạn đã lợi dụng em.
– Anh còn yêu Phượng như ngày nào
không?
Trọng
gật đầu:
–
Phượng hiểu lòng anh, anh yêu Phượng mãi mãi... nhưng mình đâu
còn gì với nhau nữa để mà yêu với ghét Phượng.
– Anh có tha thứ cho Phượng không?
– Chuyện của Phượng, anh chẳng có quyền
gì để tha thứ cũng như thắc mắc. Vì sao Phượng hỏi vậy?
Phượng nói chậm, rõ từng tiếng một:
– Nếu anh còn yêu Phượng và tha thứ cho
Phượng, Phượng sẽ từ hôn với thầy Chương để chờ anh.
Trọng giật nảy mình lên như ngồi trúng
ổ kiến. Xưa nay, chàng cứ ngỡ thầy Chương may mắn lắm mới lấy
được Phượng, bây giờ chàng mới đau đớn nhận ra rằng Phượng may
mắn lắm mới lấy được thầy Chương... Phượng nhìn Trọng chờ đợi.
Nàng chờ đợi Trọng sẽ ôm mình trong vòng tay rồi cả hai đứa sẽ
khóc đến hết nước mắt. Nhưng trái với những gì nàng nghĩ, Trọng
vẫn ngồi im bất động. Một lúc sau chàng cất giọng ôn tồn:
– Anh lính tráng cực khổ, thân mình lo
còn chưa xong, chưa hề dám nghĩ đến chuyện lập gia đình.
Phượng bật khóc nho nhỏ, đau đớn:
– Phượng không cần biết! Phượng sẽ chờ.
10 năm, 20 năm, 30 năm... Phượng nói thật. Phượng từ hôn nhé anh
Trọng, bây giờ vẫn còn kịp...
Trọng nhíu mày im lặng một lúc rồi dụi
điếu thuốc đang hút, lắc đầu:
– Không Phượng ạ, anh nghĩ kỹ rồi, hãy
coi như hai đứa mình vừa nhỡ chuyến tàu cuối.
– Chả có tàu bè gì ở đây cả. Phượng yêu
anh, Phượng chỉ biết vậy.
Trọng buông tay Phượng ra, kéo ghế ngồi
lui ra sau, lắc đầu chậm rãi:
– Không được Phượng ạ.
– Vì sao?
– Vì trong hoàn cảnh này chỉ có mình
anh khổ. Nếu Phượng từ hôn, mọi người đều khổ, kể cả Phượng. Anh
bảo đảm Phượng sẽ quên được anh trong vòng không tới 1 năm. Riêng
anh, dù không lấy được Phượng, anh sẽ không bao giờ quên được
Phượng hết. Anh sẽ yêu Phượng suốt đời. Nhưng bây giờ... Vĩnh
Biệt Phượng...
Phượng ngã người ra sau, nhắm mắt lại
như không thể tin được những gì mình vừa nghe. Rồi giọng nói của
Trọng bỗng trở nên lạnh lùng:
– Chị... Chương, chị có 5 phút đồng hồ
để rời khỏi bàn này. Tôi cho chị 5 phút đồng hồ để chuẩn bị. Đúng
5 phút.
Giọng
nói Trọng sang sảng và oai vệ tựa hồ đang hô quân ào ra mặt trận.
Phượng giận tái mặt lại, quắc mắt nhìn lên. Vừa tính mở miệng thì
nàng khựng người lại vì thấy mặt Trọng đã chan hòa nước mắt. Đôi
mắt chàng sâu thăm thẳm và buồn đến chết người. Tuy vậy, giọng
nói của Trọng vẫn sang sảng qua màn lệ:
– Chị Chương, chị ngồi lâu quá như thế
này không tốt. Chị biết miệng người đời mà. Một phút qua đi rồi
đó, tôi nhắc lại là chị chỉ còn 4 phút nữa để chuẩn bị rời bàn...
Phượng ngần ngừ một chút rồi đứng dậy,
mắt long lên, mặt tái nhợt:
– Em xin tuân lệnh trung úy, em đi.
Nhưng em cũng muốn nói cho trung úy biết một điều, là trung úy
chỉ là một thứ quân tử tàu... dở hơi và hết thời, trung úy chỉ là
một thứ giả hình ngu si dốt nát, trung úy ngu như con bò, trung
úy vụng về như con vịt, trung úy bất lực như con kiến...
Nói đến đây nàng bật khóc. Trọng co
người lại, như những ngày dài chàng đã từng ngồi co người nghe
pháo của địch rớt ngay trên miệng hầm ở trận Dak To:
– Chị còn 3 phút nữa, chị cứ tiếp tục,
tôi đi lính chịu... pháo quen rồi...
Phượng ngưng chửi, đưa hai tay lên bưng
lấy mặt. Một lúc sau, nàng bỏ tay xuống, nước mắt lưng tròng:
– Phượng còn mấy phút nữa?
– Đúng 1 phút.
Phượng thở dài. Yêu nhau 10 năm, tưởng
sẽ sống với nhau trọn đời, ai ngờ chỉ còn lại 1 phút đồng hồ ngắn
ngủi với nhau. Phượng bỗng cúi người đưa hai tay ra ôm lấy mặt
Trọng đặt một cái hôn bất ngờ lên môi chàng. Môi nàng ướt đẫm
nước mắt. Trọng ú ớ không nói lên lời. Phượng giữ khuôn mặt Trọng
trong hai tay mình, nhìn sâu vào đôi mắt u buồn, bùi ngùi nói:
– Anh Trọng, anh muốn vậy cũng được.
Trước khi đi Phượng chỉ xin nói với anh một điều.
– Nói đi Phượng!
– Phượng sẽ còn yêu anh mãi mãi. Vĩnh
biệt anh Trọng...
Rồi nàng buông tay, xoay người bước ra,
thiểu não và tuyệt vọng như một người vừa đánh mất tất cả. Trọng
nhìn theo Phượng, ruột đứt ra từng khúc với từng bước chân của
nàng.
Chàng
biết rằng từ đây, mình sẽ không còn bao giờ yêu được người con
gái nào như đã yêu Phượng.
“Vĩnh biệt Phượng, Phượng cũng nên nhớ
cho rằng dù gì đi nữa thì anh vẫn mãi mãi yêu Phượng...” Trọng
nói nhỏ như vậy và rót thêm bia vào ly.
1 thằng bạn của Trọng kéo ghế ngồi
xuống, nhìn theo Phượng phê bình tự nhiên:
– Con nhỏ này dữ như bà chằng lửa. Rồi
mày coi, nó sẽ tròng cái quần sì líp vào đầu thầy Chương mà nó
kéo như người ta kéo xe bò.
Trọng nhún vai không nói gì, xoay đầu
vào phía tối để che giấu 2 dòng nước mắt đang chảy ràn rụa trên
má...
*****
Không ngờ con đường sạn đạo thành công
ngoài sức tưởng tượng của Trọng. Cách đối xử của dân làng buôn
Thraa với lính quốc gia bây giờ khác xa những ngày trước. Lính
Trọng cũng cảm thấy thân thiện và tự nhiên hơn với những người
dân trong làng. 2 bên vui vẻ chuyện trò. Lính đem đồ hộp thuốc lá
ra đổi lấy thổ sản của dân làng. Không đồng ngôn ngữ nên tiếng
mặc cả, tiếng cười vang lên cả 1 vùng. Không khí vui nhộn.
Đêm Giáng sinh, ai muốn đi lễ Trọng dắt
theo hết. Nhiều đứa ngoại đạo, nghe cha Thanh tập hát hay quá
cũng đi theo để nghe hát. Cha Thanh mừng rỡ lắm vì có thêm một số
con chiên bất ngờ, cho làm lễ ở ngoài trời. Đèn đuốc thắp lên
sáng trưng cả 1 vùng. Hơn một nửa số con chiên là lính của Trọng.
Lễ bắt đầu, ca đoàn hát:
“Hội nhạc thiên quốc đắm say nghiêng
quỳ,
dứt cung nhạc thấy im lặng chín
tầng...
Khi nghe kề bên nôi hèn Chúa
đây,
tiếng Đức Mẹ cất lên nhẹ hát
mừng...”
Tiếng
ca thánh thót giữa vùng trời Trường Sơn lồng lộng gió. Đứng chen
lẫn với đám dân làng Thượng, Trọng kéo cao cổ áo jacket cho bớt
gió, lòng dâng lên một niềm hạnh phúc không thể nào cắt nghĩa
được. Một cảm giác êm đềm ấm cúng bao phủ lấy toàn thân.
Trọng cất tiếng hát theo ca đoàn:
“Vừa nghe kề sát nôi hèn,
tiếng Mẹ nhẹ hát êm đềm.
Vừa nghe kề sát
nôi hèn,
êm ái giọng mẹ ru con...”
Trọng hơi tiếc vì cha Thanh giảng bài
bằng tiếng Thượng, chàng chẳng hiểu gì. Nửa chừng, cha ngừng rồi
tất cả dân làng cùng quay nhìn Trọng vỗ tay. Trọng và lính chẳng
biết gì cũng vỗ tay theo. Mọi người cười ồ và vỗ tay to hơn nữa.
Cha Thanh nói:
– “Tôi xin đại diện dân làng buôn Thraa
cám ơn Trung úy Trọng cùng đại đội 45 trinh sát đã làm cho chúng
tôi con đường sạn đạo. Đó là 1 món quà ý nghĩa của quân đội vào
dịp lễ Giáng sinh này. Nó sẽ trở thành một dấu tích của tình
thương khó mà phai lạt được trong lòng những người dân buôn
Thraa...”
Trọng lúng túng đến độ tội nghiệp để tìm cách đáp lại những lời
khen tặng. Gần cuối lễ, cha Thanh đọc:
“Xin Chúa đoái thương cho những ngày
chúng con đang sống được bình an. Để nhờ lượng từ bi Chúa nâng
đỡ, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi mọi nguy hiểm và được yên
ổn khỏi mọi biến loạn. Vì công nghiệp vô cùng của Chúa Giê su Ki
Tô con Thiên Chúa là Chúa chúng con... Amen.”
Tiếng ca lại cất lên:
“Cao cung lên,
khúc nhạc Thiên Thần Chúa,
hòa trong làn
gió,
nhè nhẹ vấn vương...”
Trọng làm dấu thánh giá, lòng tràn ngập
hạnh phúc. Thứ hạnh phúc tuyệt đối của trời cao, của cõi bất
diệt.
“Xin
Chúa đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an.
Để nhờ lượng từ bi Chúa nâng đỡ, chúng con sẽ luôn luôn thoát
khỏi mọi nguy hiểm và được yên ổn khỏi mọi biến loạn...” Đời mình
nhiều biến loạn quá, tuổi trẻ Việt Nam nhiều biến loạn quá. Biến
loạn của nạn cộng sản, của đao binh, của sự nghèo đói, của sự bất
công, của nạn tham nhũng...
Tiếng ca tiếp tục, thánh thoát:
“Ôi đê mê,
lắng nghe thoang thoảng cung đàn,
một
đêm khuya vang,
lặng trong tuyết
sương...
Đàn ơi, cứ rung những điệu réo
rắt,
hát khen con một Chúa Trời,
người sinh xuống cõi đời,
hỡi người
dương thế,
lặng nghe cung đàn...”
Giữa những biến loạn và khó khăn chồng
chất đó, tuổi trẻ Việt Nam, người Việt Nam đã sống, vẫn sống vẫn
chiến đấu và tồn tại như luôn luôn “Được thoát khỏi mọi biến
loạn...”
Tiếng
ca tiếp tục lồng lộng trong gió, như bay tuốt lên trời, như chôn
kín lòng người vào trong 1 cõi hoan lạc đắm say:
“Thôi
hỡi trần gian,
im tiếng đi mà tôn kính,
Chúa con sinh ra trong máng cỏ hang lừa,
tuy Chúa là vua muôn nước suy phục tôn kính,
Chúa Con ra đời trong máng cỏ hang sâu...”
Bài hát dứt, mọi người im lặng từ từ
tản mác. Không khí bỗng trở nên linh thiêng trầm mặc. Trọng quỳ
ngay xuống đất, làm dấu cầu nguyện lần cuối. Suy nghĩ mãi, Trọng
thấy mình tuy không hạnh phúc đầy đủ lắm, nhưng giữa 1 quê hương
đầy bất hạnh và khốn cùng, chàng thấy mình quá đầy đủ, chẳng biết
cầu xin gì nữa trong đêm thánh này. Cuối cùng chàng chỉ cầu: “Xin
chúa cho quê hương đất nước con sớm được thanh bình...” Trọng
tính làm dấu đứng lên thì hình ảnh Phượng lại xuất hiện nhập nhòe
trong tâm trí, liền cầu xin tiếp: “Xin cho Phượng của con có được
bình an trong tâm hồn để sống...” Trọng làm dấu đứng lên. Phải,
được “Bình An Trong Tâm Hồn” mới là chuyện quan trọng nhất. Từ
lúc có trí khôn, Trọng chưa bao giờ thấy tâm hồn mình được bình
an và nhẹ nhàng như tối nay, trong đêm Thánh này...
*****
Bây giờ, nếu ai ghé qua miền Tây
Nguyên, đến một cái làng buôn Thượng cách thành phố Kon Tum chừng
40 cây số về hướng Tây Bắc, người ta sẽ còn nhìn thấy con đường
sạn đạo do Đại đội 45 Trinh sát của Sư đoàn 23 bộ binh làm bắt
đầu từ dưới suối lên...
Tấm biển gỗ khắc “Tòa GM Kontum và
ĐĐ 45/TS, SĐ23BB/QLVNCH thân tặng” đã bị kẻ chiến thắng gỡ
xuống quăng đi mất rồi.
Người ta tưởng rằng hễ ném tấm biển đó
đi là có thể xóa nhòa được “dấu tích tình thương” của quân đội
Việt Nam Cộng Hòa trong lòng người dân. Người ta cũng tưởng rằng
hễ cứ lăng mạ đạo quân bất hạnh đó, chà đạp nó, nhận nó xuống đáy
bùn nhơ là nó sẽ trở thành dơ dáy bẩn thỉu như ý mình muốn. Những
kẻ chiến thắng đã lầm.
Dù ai có làm gì đi nữa, dân biết, trời
biết, cả thế giới này biết đạo quân bất hạnh với 1 triệu người đã
ngã gục dưới cờ không phải là 1 thứ lính đánh thuê tàn bạo như đã
bị vu khống xuyên tạc. Ở mỗi 1 con người trong đạo quân đó, là
một tấm lòng, một trái tim nhân ái, một đầu óc biết suy nghĩ và
biết xót thương, một mối tình yêu thương gia đình, yêu thương tổ
quốc vô bờ bến...
Tuyên truyền, hạ nhục, vu khống là sở
trường của những người cộng sản, nhưng, tại sao 16 năm sau ngày
chiến thắng, họ còn cay cú đến độ đưa ra một chương trình qui mô
để hạ nhục một đạo quân đã thất trận và đàn áp thẳng tay các tôn
giáo? Phải chăng, những người chiến thắng đã bắt đầu nhận ra rằng
dân chúng hai miền sắp sửa đứng lên để tiêu diệt họ?
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
New Orleans 11/8/1991
Mùa Noel 1991
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, October 18,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang