Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Quê hương
Tác giả:
Phan Xuân Sinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Từ lâu
tôi chờ đợi một người nào đó viết về quê tôi, như Phan Nhự Thức
viết về Quảng Ngãi, Nguyễn xuân Hoàng viết về Nha Trang, Trần
Doãn Nho viết về Huế. Thế nhưng chẳng có ai làm điều này giùm
tôi, hoặc có người viết rồi mà tôi chưa được đọc, thôi thì bây
giờ tôi viết về Ðà Nẵng của tôi vậy.
Thật tình thì Ðà nẵng cũng không có
nhiều danh lam thắng cảnh, cũng ít nơi thơ mộng. Người dân chúng
tôi nòi văn chương chữ nghĩa cũng ít, nhưng nói “móc họng” thì
nhiều. Danh nhân thì đếm trên đầu ngón tay các ông Thái Phiên, Án
Nại mà những người chính tông Ðà Nẵng cũng ít người biết. Còn ông
Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Duy Hiệu, v.v. tiểu sử các
ông ai ai cũng biết...
Thường thì Ðà Nẵng – Quảng Nam là một,
nó dính liền với nhau cùng một thân một gốc, từ phong tục, tập
quán, văn hóa, xã hội và nhất là “cãi lộn” cũng đều y chang như
nhau. Trong thời kỳ Pháp thuộc họ chia anh em chúng tôi ra làm
hai cho dễ cai trị, nhưng chỉ mỗi một việc là hành chánh còn tất
cả chỉ là một.
Tôi còn nhớ khi học Tiểu Học, tôi học
trường Hòa Vang, trường này thuộc tỉnh Quảng Nam mặc dù tôi là
dân Ðà Nẵng, nhà tôi cách trường chừng bảy trăm mét. Họ chấp nhận
cho tôi vào học tức là họ xem tôi là thành phần con cháu của
Quảng Nam. Nói thế để quý vị các tỉnh khác biết rằng nói đến Ðà
Nẵng tức là nói đến Quảng Nam. Chớ dại thấy mấy ông Quảng Nam
ngồi đó mà đụng chạm đến Ðà Nẵng thì quý vị sẽ bị phản ứng ngay
lập tức, “cãi” cho tới cùng.
Tôi sinh ra và lớn lên tại làng Nại
Hiên Tây thuộc trung tâm của Ðà Nẵng, (Ðà Nẵng lúc ấy chỉ có 7
làng tại trung tâm: Bình thuận, Phước Ninh, Nam Dương, Thạch
Gián, Thạch Thang, Hải Châu, Nại Hiên Tây), ranh giới phía Tây là
ngã ba Huế, Phía Nam là Chợ Mới, Đông Bắc đều giáp biển.
Làng tôi nghèo nhất thị xã, dân chúng
phần đông sống bằng nghề khuân vác bến tàu hoặc các kho hàng, một
số ít buôn gánh bán bưng. Tôi lớn lên giữa một phố nghèo xơ xác.
Có ai đó nói rằng quê hương như vậy thì chẳng có chi là thơ mộng
nên làm sao mà viết được.
Bây giờ tôi mới hiểu ra được một phần,
tôi có quá nhiều điều để viết về quê tôi, từ con người đến con
đường, từ mái nhà đến góc phố, v.v. trong lòng tôi tất cả đều
khác những nơi tôi đã đi qua, nó dễ thương hơn, đẹp đẽ hơn, mật
thiết hơn, vì đó là quê hương của tôi. Nó là hiện thân những cái
gì trân quý nhất chất chứa trong lòng tôi, “Quê hương mỗi người
chỉ một...”, câu hát khi còn ở Việt Nam tôi thấy nó rất “sáo” làm
sao ấy, thế mà qua Mỹ thỉnh thoảng nghe lại bỗng dưng tôi ray
rứt, cuống cuồng.
Mỗi lần nghe bài này là Ðà Nẵng hiện ra
trước mắt tôi, dòng sông Hàn đang lững lờ trong đầu tôi, khuôn
mặt của những thằng bạn nhỏ chập chờn ẩn hiện. Như vậy mới biết
quê hương luôn luôn nằm trong trái tim, luôn luôn chực chờ, phục
kích đâu đó sẵn sàng tràn ngập khi có dịp.
Bờ sông Hàn Đà Nẵng ngày nào nhà tôi
gần Cổ Viện Chàm, những buổi trưa hè oi bức rủ vài thằng bạn vào
đây ngồi dưới tượng Chàm mát rượi, chạy trốn cái nóng của gió Lào
đang vật vã quê tôi, mỗi lần vào đây tôi thấy trong người lâng
lâng, những hình tượng đầu voi, mặt khỉ không làm cho tôi sợ mà
tôi lại thấy thân quen.
Tôi thường hay ra ngồi những bậc tam
cấp dưới những hàng sứ già nhìn ra sông Hàn, những con thuyền
buồm trắng qua lại dọc trên sông thật thơ mộng. Hình như khi tôi
biết những hình ảnh qua trước mắt tôi “thơ mộng” thì chính lúc đó
tôi cũng bắt đầu làm thơ.
Những câu thơ
“con cóc” đầu tiên ra đời chuyên chở những thứ lãng mạn tưởng
tượng. Hồi học lớp nhất đăng được một bài thơ trên báo Tuổi Xanh
ở Sài Gòn mang vào lớp khoe với chúng bạn đến tai cô giáo, cô gọi
tôi lên đưa tờ báo cho cô xem, cô không cho tôi một lời khen nào
mà phán một câu: “Học hành chẳng ra chi mà bày đặt thơ với thẩn”.
Cô giáo đã bóp chết tài năng của tôi
vừa chớm nở. Từ đấy vì quá mắc cở với bạn bè tôi không dám làm
thơ, không làm thơ nhưng học hành cũng chẳng ra chi, thi trượt
vào Đệ Thất trường Phan Châu Trinh, đành phải mài lũng đít quần ở
trường Tây Hồ và Sao Mai. Ðây là khoảng thời gian đẹp nhất của
tôi, để lại cho tôi biết bao kỷ niệm buồn vui nhất trong đời, cái
thuở học trò vừa mới lớn, yêu thầm nhớ trộm, mơ mộng viễn vông.
Cũng như những thành phố khác, Ðà Nẵng
cũng có những con đường dễ thương, tình tứ, một bờ sông nên thơ
mà những kẻ yêu nhau để lại ở đó biết bao kỷ niệm. Thuở còn đi
học thỉnh thoảng trong lớp thường tổ chức những cuộc picnic bằng
xe đạp, từng đoàn học sinh đạp xe lượn vòng trên các con đường đi
Sơn Chà, Tiên Sa, Mỹ Thị, Non Nước, Nam Ô, Khuê Trung, Cẩm Lệ...
những địa danh thân thuộc mà mấy chục năm xa rời Ðà Nẵng tôi vẫn
nhớ rành rọt từng gốc cây, con đường, bãi cát.
Những quán cà phê Diệp Hải Dung, cà phê
Hạ, cà phê Ngọc Lan, cà phê Thông Tin, mà tôi đã ngồi hàng giờ để
nhìn những giọt cà phê rơi xuống đáy ly. Kiosque bên kia đường
của cà phê Thông Tin là tiệm bán kính đeo mắt, có một người con
gái rất đẹp tên là Ðông, đã làm điêu đứng biết bao thằng học sinh
trồng những gốc “si” tổ bố, hình như lúc ấy tôi cũng ở trong nhóm
lóc nhóc này. Rồi một ngày nào đó nghe tin Ðông lấy một ông sĩ
quan Hải Quân và vắng mặt ở tiệm kính bên kia đường, lúc ấy tụi
tôi cũng không còn thích thú uống cà phê ở góc đường Thông Tin
nữa.
Làm sao tôi
quên được những cái tên Trương Thị Ngọc Thật, Lâm Thị Sâm, Phan
Thị Sách, Nguyễn Thị Thy... những người một thời đã làm rớm máu
trái tim “mới lớn” của tôi, đã nâng tôi lên chín tầng mây rồi nửa
chừng thả tôi rơi xuống hố thẳm, cho tôi nếm thử mùi vị ngọt
ngào, cay đắng của một thứ tình yêu tưởng chừng như không thật,
cho tôi những tháng ngày buồn vui rộn rã, bơm cho tôi no tròn
nhưng cũng đâm cho tôi xì hơi xẹp lép và cũng bắt đầu từ đó tôi
sợ hãi những người con gái có chút nhan sắc nhưng lại tính toán
chi li trong tình yêu, đem tình yêu làm trò tung hứng nô đùa.
Ðà Nẵng giết mòn mỏi tôi của những ngày
mới lớn, đẩy tôi đến tận cùng bờ tuyệt vọng của cuộc đời. Thế mà
với tôi luôn luôn và bao giờ tôi cũng trân quý, thương nhớ đến
thành phố này. Ngoài trừ bài học đầu tiên về tình yêu còn tất cả
nơi đây đã tập và dìu dắt tôi từ bước đi đến lời ăn tiếng nói, từ
một tấm lòng dành cho tha nhân đến căn bản đạo đức làm người,
nghĩa là Ðà Nẵng là một biểu tượng cao quý nhất chiếm hầu hết
những suy nghĩ của tôi.
Xa Ðà Nẵng gần 30 năm, mỗi lần gặp ai
đó cùng quê nhắc lại hai chữ Ðà Nẵng là tự nhiên lòng tôi quay
quắt muốn trở về. Tự nhiên những hình ảnh những người thân của
tôi hiện lên. Ba tôi, một thầy giáo hiền hòa, suốt đời tận tụy
với nghề nghiệp, suốt đời sống trong bần cùng nhưng trong sạch,
người dân làng Nại Hiên quý trọng ông, ước ao của ông cũng bình
dị như những người dân nghèo quê tôi là mong cho con cháu nên
người, còn cái khổ cực của bản thân ông không đáng kể.
Khi tôi vừa đặt chân đến Mỹ vài tháng
thì được nghe tin Ba tôi mất, ông chưa kịp hưởng được những đồng
đô–la do tôi gởi về thì ông vội vàng ra đi, sống trong nghèo khổ
chết trong thanh bạch. Ba tôi trước đây có một người bạn thân
thiết như anh em ruột. Chú đúng là hình ảnh người Quảng Nam chân
chính.
Cho đến
bây giờ tôi vẫn còn nhớ hình ảnh của chú, mỗi lần trong quê ra Ðà
Nẵng dự đám giỗ kỵ, Chú mang khăn đóng áo dài, đôi guốc mộc bao
giờ Chú cũng kẹp nách chứ không mang. Vào đến nhà ngồi trên ghế
đàng hoàng, bắt đầu Chú phủi hai bàn chân vào nhau rồi nhè nhẹ
đặt chân vào guốc, nếu xỏ mạnh như sợ đôi guốc bị đau.
Từ bến xe về nhà tôi cũng xa, trưa nắng
như đốt đường cái nóng sôi, thế mà chú Kết của tôi không sợ da
chân bị lột, bị bỏng, mà sợ đôi guốc bị mòn. Có lần đến bên Chú
hỏi về điều này, Chú mộc mạc trả lời, đi chân đất quen rồi mang
guốc khó đi, hơn nữa đi xa sợ guốc mau mòn. Ðó là hình ảnh tiết
kiệm cố hữu của những người dân quê tôi.
Ba tôi thường ngồi kể cho tôi nghe
những chuyện về con người, tập quán, phong cách, ăn uống của
người Quảng Nam Ðà Nẵng qua cái nhìn mang chút hài hước của ông.
Có lần nhìn chú Kết, ông nói với tôi, các thư sinh Quảng Nam ngày
xưa ra Huế đi thi, làm sao mà mang guốc lội bộ qua năm cái đèo,
phải đi bằng chân đất như Chú Kết bây giờ vậy, ra đến Huế thì
đoàn thư sinh Quảng Nam không giống ai hết, quần thì ống cao ống
thấp, áo thì vắt vai, guốc thì kẹp nách, giọng nói rổn rảng khó
nghe có phần cộc cằn, đôi lúc “móc họng” người ta. Thế mà các
tiểu thư Huế lại chịu cái loại đàn ông này, đàn ông thật thà chất
phác, ăn cục nói hòn nhưng trong bụng đầy kinh thư chữ nghĩa.
Bằng chứng là năm ông quan đầu triều
Nhà Nguyễn được phong “Ngũ Phụng Tề Phi”. Người Quảng đi đâu, ở
đâu mỗi lần nhắc nhở về quê hương, họ cũng đều hãnh diện, sướng
rân lên với cái xứ sở “Ngũ Phụng Tề Phi” của họ. Ðể an ủi cho cái
nghèo, cái thiếu ăn, họ cho rằng đất của họ “nhân tài mọc nhiều
quá lúa mọc không nổi”, nên cái chuyện quanh năm không đủ gạo
phải ăn độn là chuyện bình thường.
Nói đến cái ăn thì quê tôi “kỵ” nhất là
đồ ăn có nước nhiều, lõng bõng mau đói, mì Quảng thì rau phải xắt
nhỏ để chứa được nhiều, nước lèo chan vừa đủ thấm. Không có nơi
nào ăn mặn bằng dân Quảng Nam, mắm phải mặn cho đỡ hao. Mít thì
thích ăn mít ướt để ăn được nhiều còn mít ráo vài múi thì đã ớn.
“Ăn chắc mặc bền” đó là câu thực dụng nhất cho quê tôi.
Khi còn ở Sài Gòn tôi có một cơ sở làm
ăn nhỏ, thỉnh thoảng cũng làm mì Quảng, bánh đập để đãi công
nhân. Theo thói quen mì chan ít nước giống như ngoài mình, nhưng
dân Nam Kỳ ăn như vậy không quen họ phải chan nước cho đầy như
bún bò hay phở, còn bánh đập họ không chấp nhận được vì bánh đập
trong Nam có thịt bò nướng kẹp vào, bánh tráng bánh ướt trống
trơn chấm mắm thì chẳng có chi hấp dẫn.
Có một lần về lại Ðà Nẵng các bạn tôi
dẫn đi Cẩm Lệ để ăn bánh tráng cuốn thịt heo, khi chấm vào chén
mắm cái, tôi mới giật mình vì mắm quá mặn, khẩu vị của tôi không
còn thích hợp vì mấy chục năm sống trong Nam tôi quen với mắm nêm
có vị lạt hơn, ngọt hơn.
Một lần về thăm Ðà Nẵng, ngồi trước nhà
người bạn ở đường Ðộc Lập, một chuyện thật tức cười làm tôi thấy
thương và tội nghiệp cho quê tôi. Ðường Ðộc Lập xưa nay chỉ chạy
một chiều, xe đang chạy thuận dòng bỗng dưng có một thanh niên từ
đâu chạy ngược chiều và tông vào một xe khác.
Hai bên thả xe ra giữa đường to tiếng
cãi nhau suýt ấu đả, phải trái gì không biết cứ cãi nhau, đúng ra
chỉ một lời xin lỗi thì mọi chuyện đều xong, vì hai xe chẳng thấy
hư hại gì, thế mà họ “tiết kiệm” một lời xin lỗi và dùng thoải
mái lắm lời cho việc cãi vã.
Ðúng là xứ Quảng Nam hay cãi của tôi,
về Sài Gòn kể lại chuyện này với anh Tường Linh, bằng cái giọng
lý sự rất Quảng Nam của ảnh vừa nói chơi vừa nói thật: “Ông bà
của mình ngày xưa tội đồ của Triều đình bị đày vào xứ Quảng Nam,
trên đe dưới búa, thấp cổ bé họng, sự uẩn ức lâu ngày đè nén nên
khi tràn ra được thì cứ tràn, cãi nhau không cần phải trái trắng
đen, miễn sao cho hả được giận. Nên tụi mình có cái ‘gen’ này”.
Người xứ khác làm sao hiểu được cái “kỳ
cục” này của người ngoài mình, họ chỉ thấy sự ương ngạnh ngang
ngược, câu nói mang hai ba nghĩa mạt sát, thọc gậy, móc họng đối
phương. Họ làm sao hiểu được cái bản tính dứt khoát, chịu đựng,
chung thủy của mình. Yêu, ghét, bạn, thù phân minh. Hồi còn nhỏ
tôi sợ nhất là những ngày giỗ kỵ hay chạp mả, thế nào trong bữa
ăn cũng có cãi lộn, cũng to tiếng, cũng nói móc, xỉa xói với
nhau, hình như đây là cái tật và đúng dịp để mọi người tự do phát
biểu, nói ra được các điều u uất trong lòng cho vơi đi chút tự
ái, thua thiệt.
Bạn bè của tôi phần đông ở các quận Ðại
Lộc, Ðiện Bàn, Duy Xuyên, Hội An nên nhà tôi ở Ðà Nẵng là trung
tâm vãng lai của bạn bè. Hạ Ðình Thao, Lê văn Trung, Vũ Ðức Sao
Biển, Kiều Uyên, Ngô Thi, Ðỗ Hơn, Nguyễn Thang, Thái Tú Hòa. Ðó
là những người khách thường xuyên nhất của tôi khi còn học sinh,
chúng tôi có với nhau những kỷ niệm sâu đậm của thuở hàn vi, các
“thi hào” này dần dần rụng mất sau cái thời Tiểu Thuyết tuần san
của ông Nguyễn Thiện Dzai đình bản, chỉ có một hai người còn đeo
đuổi nghiệp viết lách như Vũ Ðức Sao Biển, Lê Văn Trung.
Cái thời học sinh thật dễ thương, mang
nhiều mộng mỵ, thư tình viết tràng giang đại hải không biết mệt,
thuốc lá hết điếu này sang điếu khác hút không kịp thở. Ở Sài Gòn
nhà tôi sau này cũng trở thành nhà khách cho các bạn cũ ở Ðà Nẵng
vào và thêm các anh Hà Nguyên Thạch, Ðinh Trầm Ca, Phan Nhự Thức,
Uyên Hà.
Tôi
có dự đám cưới của anh Phan Nhự Thức hồi còn ở Sài Gòn, ngồi cùng
bàn với Anh Chị Hồ Thành Ðức và Bé Ký (nhưng lúc ấy tôi không
quen với anh chị và cũng chẳng có ai giới thiệu cho tôi biết).
Anh Tường Linh sau 75 cùng làm việc với tôi ở một tổ hợp sản xuất
Bột trẻ Em Ðông Phương ở đường Bạch Ðằng Bình Thạnh. Còn anh Ðinh
Trầm Ca cùng làm với tôi ở kem đánh răng Mimosa. Ðó là những
khuôn mặt văn nghệ của xứ Quảng mà tôi đã quen và thân thiết.
Tôi lập gia đình tại Sài Gòn, vợ tôi là
người Bắc, khi quen nhau không biết rằng vợ tôi trước đây sống và
lớn lên ở Ðà Nẵng, xuất thân từ Trường Pascal. Khi hai đứa đến
hồi “gỡ không ra” thì tôi mới phát hiện vợ tôi biết quá nhiều về
quê tôi, kể vanh vách cho tôi nghe từ con đường góc phố, từ ly
chè Ngã Năm đến tô bún bò Bà Ðào, từ bánh bèo chén trường Nam
Tiểu Học đến bánh xèo đường Lê Ðình Dương, từ bến đò Hà Thân đến
bãi biển Thanh Bình. Và cuối cùng phán cho một câu: “Em sợ cái xứ
đó quá rồi chạy vào đây mà cũng không tránh khỏi”, lời trách móc
đáng yêu đó tôi nhớ suốt đời.
Con gái Bắc tế nhị, khéo léo bao nhiêu
thì con trai Quảng Nam cộc cằn, độc đoán bấy nhiêu, họ kín đáo,
thầm lặng bao nhiêu thì mình hoạch hoẹ, ồn ào bấy nhiêu. Ôi cái
xứ mình tạo ra những con người như thế, quá thẳng thắn, quá cứng
rắn, mà cái gì “quá” thì nó cũng căng dễ đứt, không hay. Vừa phải
chừng mực thì tốt hơn. Thế nhưng người Quảng thì không chịu thái
độ không dứt khoát này, chấp nhận tràn đầy chứ không thể lưng
chừng. Ðó là một đức tính rất tốt nhưng khi xử thế rất ít thành
công.
Một lần
về thăm lại Ðà Nẵng chở vợ đến nhìn lại ngôi trường Pascal, đứng
trước cổng trường vợ chồng tôi xúc động ghê ghớm, không ngờ một
ngôi trường đẹp đẽ hiền hòa đã bị tàn phá thô bạo như vậy, thảm
cỏ xanh mướt ngày nào bây giờ thành bãi chất cây cối ngổn ngang,
những lớp học ngày xưa biến thành chỗ sản xuất. Vợ tôi không còn
can đảm đứng nhìn thêm, cúi đầu rưng rưng nước mắt.
Tới trường Sao Mai đứng ở cổng sau
(đường Lê Ðình Dương) nhìn vào, ngôi trường hằng mấy chục năm
không được tu bổ, tường rêu phong loang lỗ, học sinh ăn mặc lếch
tha lếch thếch, thầy cô giáo cũng chẳng hơn gì. Nhớ ngày xưa các
thầy của tôi đứng trên bục giảng oai phong biết mấy, quần áo tươm
tất, cà vạt hẳn hoi. Làm sao tôi quên được hình ảnh đó của các
thầy cô: Trương Thị Thúy, Mai văn Bộ, Hoàng Vinh, Hà Thúc Lễ,
Vĩnh Linh, Lâm sĩ Hồng, Hồ Sĩ Hùng, Lê văn Nghĩa, Phạm Xuân
Hương, Nguyễn Tàu, Lê Chương, Ðức Cha Lê Văn Ấn, Cha Vũ Như
Huỳnh... những người dìu dắt tôi cho tôi những kiến thức để sống
với đời, những căn bản đạo đức để sống với người.
Bao giờ trong tôi các thầy cũng để lại
một sự kính trọng không thể phai nhạt được. Sau một vòng thăm lại
các trường cũ trở về, vợ chồng tôi ngậm ngùi đau xót, Ðà Nẵng của
tôi tang thương như vậy sao, tâm trạng vợ chồng tôi lúc ấy giống
như Trần Doãn Nho đã viết: “Tôi đi trên thành phố thân thương mà
như đang phiêu du ở vùng đất xa lạ”, hoặc “Tôi sống giữa quê
hương mà như người khách lạ”. Nơi đó cũng còn lại những người bạn
học cùng tôi thuở nào: Liêu, Ký, Bích, Dũng, Quang, Kim Sơn,
Hường, Trang, Thùy Dương, Nga, Thư... Mỗi lần có dịp về lại Ðà
Nẵng họ tiếp đón tôi như một người thân. Bạn trai, bạn gái trong
tiệc rượu nâng ly cụng với nhau chẳng nề hà, sống lại với nhau
những ngày xa cũ.
Tôi ở vùng ngoại ô Boston, Bạn của tôi
là mấy ông Quảng Nam rất cực đoan ở cách xa nhau, họ cho tôi là
thứ Quảng Nam mất gốc bởi cái tính ba phải cả nể của mình, “thằng
mô không phải là chưởi dô mẹt hắn, chớ đừng nhân nhượng ốt dột
như rứa”. Chỉ có Trần Trung Ðạo hay bênh vực cho tôi, không có
bao nhiêu người mà mỗi lần gặp nhau cãi nhau như mỗ bò.
Thế nhưng tuần nào có làm món ăn Quảng
Nam là gọi nhau ơi ới, nhà anh Dư Mỹ hay nấu những món đặc sản
Quảng Nam và vợ chồng tôi là khách thường xuyên. Nhà anh Nguyễn
Ngọc Thanh thì hay sưu tầm các loại mắm Quảng Nam, cho đến bây
giờ tôi cũng không biết làm cách nào mang các thứ ấy vào Mỹ,
những thứ mắm cái cá nục, cá cơm còn nguyên con đỏ au mùi vị y
chang như mắm ở ngoài mình, quý lắm thân thiết lắm như tôi với
anh Dư Mỹ mới được xớt một chút ít. Ở quê mình vài con mắm một
trái ớt là xong bữa cơm, chẳng cần chi cao lương mỹ vị, quả thật
dân mình quá khổ.
Ði xa càng thấy nhớ và càng thương cho
những con người không thể rời bỏ quê cha đất tổ, mồ mả ông bà.
Những con người suốt cả cuộc đời bám chặt với ruộng vườn, không
màng đến vật ngon của lạ, khoai sắn là chất độn trường kỳ.
Ngồi đây mỗi lần nghe tin bên quê nhà
gặp thiên tai bão lụt là lòng tôi thóp lại, cái cảnh màn trời
chiếu đất khi còn nhỏ đã chứng kiến tự nhiên hiện lên trước mắt
tôi, chỉ còn biết cách cầu trời khấn phật cho quê tôi sống bình
yên. Ðó là điều rất khó bởi lẽ giải đất Miền Trung nơi chịu nhiều
tai họa, chỉ có nhiều hay ít, chứ không thể nào có bình yên thật
sự.
Ðà Nẵng
của tôi, làm sao tôi trang trải hết được tấm lòng của đứa con xa
xôi, nghĩ về quê mẹ trên những dòng chữ làm sao tôi mô tả sự dấu
yêu, thương cảm, mà tôi đã dành hết cho giải đất chôn nhau, cắt
rốn thân yêu này.
Chữ nghĩa của tôi cũng hạn hẹp, không
đủ, thì làm sao tôi diễn đạt những điều ray rứt của nhớ mong trên
những trang giấy. Thôi thì, có viết thêm cũng không thể nào viết
hết. Ðà Nẵng cho tôi xin cúi đầu từ biệt.
Phan Xuân Sinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Baclieu Ta chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, January 28,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang