Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Cuộc đời một Hoạn quan
Tác giả:
Khuất Đẩu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Khi vua Bảo Đại tuyên bố “thà làm dân một nước độc lập còn
hơn làm vua một nước nô lệ” và trao ấn kiếm cho hai vị đại diện
cách mạng, trong đó có một nhà thơ với những câu thơ buồn hơn cả
những cơn mưa sụt sùi của xứ Huế, ngài cũng đã làm cho các ông
hoàng bà chúa sụt sùi không kém. Bọn họ khóc kể, vật mình vật mẩy
trong những lâu đài còn rực rỡ ánh vàng son vì số phận đã không
còn nuông chiều họ nữa. Họ sẽ bị ném ra khỏi kinh thành, bất ngờ
và tàn nhẫn như bị lôi ra khỏi những giấc mơ rất đẹp.
Cũng buồn không kém, cũng thất vọng, lo
sợ, nhưng chỉ dám khóc thầm, đó là những hoạn quan. Như những con
gián, sợ mọi người nhìn mặt như sợ nhìn thấy ánh sáng ngày, ngay
buổi tối hôm ấy họ đã lặng lẽ trèo thành trốn về quê cũ.
Bác cả tôi là một trong số những hoạn
quan cuối cùng của triều Nguyễn.
Ngày bác về, cả làng rùng rùng kéo nhau
đi xem khiến cho con đường vào nhà chật cứng người. Họ đồn thổi,
thêm thắt, vẽ chuyện, cứ như bác là một nhân vật xa lạ nào đó từ
đâu tới, chứ không phải do bà tôi đã từng mang nặng đẻ đau. Rằng
bác không dái không chim, giữa háng trơn tuột chỉ có mỗi cái vảy
nhỏ như lưỡi mèo để thải nước tiểu mà thôi. Bác không đực, không
cái, vô duyên và lãng xẹt như thế, không biết sinh ra để làm gì.
Nhưng cũng từ miệng họ, trời đã sinh ra là ắt có chỗ dùng, nên
bác không cần hoạn mà vẫn được vào cung để ngày đêm hầu hạ thiên
tử và các quý nhân, một nơi mà ngoài đức vua và các hoàng tử ra,
không một ai được phép có “cái đó”.
Chính từ nơi cung khuyết ấy trở về với
bao nhiêu bí mật, bao nhiêu diệu vợi bên cạnh các bậc mẫu nghi,
các bà chúa, các công nương đã khiến bác trở thành một người quan
trọng còn hơn cả một người vừa đắc cử quốc hội. Người ta muốn
biết vua ăn ra sao, ngủ như thế nào và tò mò nhất là chuyện “ấy”.
Bọn đàn ông trong làng kháo nhau, đêm đêm bác được vua sai bồng
các cung nữ đã tắm rửa thơm phức lên cho ngài “ngự”, xong việc
lại bồng về. Được kề cận lá ngọc cành vàng, được hít thở mùi
hương vương giả những ngần ấy năm, ai mà không mơ ước.
Nhà tôi không ngớt người tới thăm. Ai
cũng muốn được gặp bác. Nhưng bác thì trốn biệt trong phòng của
bà. Đó là một gian buồng kín bưng, lúc nào cũng phảng phất một
mùi là lạ, như mùi của bóng tối. Bà tôi mất đã 10 năm, mang theo
nỗi buồn nhớ khôn nguôi đứa con bé bỏng. Bà thường nói các bà mụ
nặn cái đầu bác to quá nên thiếu mất cái chỗ đó để làm đàn ông.
Cho đến khi bà mất, hình ảnh của bác còn đọng lại trong bà, cũng
chỉ là một đứa bé mới lên 10. Đó là năm mà bà khóc tiễn bác đi ra
kinh đô xa vời vợi. Nỗi buồn xa con chỉ được an ủi đôi chút khi
làng theo lệnh vua, cấp cho bà nửa mẫu công điền.
Đứa bé 10 tuổi ấy một lần đi là không
bao giờ được trở lại. Mãi cho tới lúc chết. Vậy mà giờ đây, sau
40 năm, nhờ cách mạng, bác lại được trở về với cái hào quang tơi
tả của một ông quan hoạn, được vào ra chốn cung đình nghiêm mật
nhưng không phải nhờ văn hay chữ tốt, không ông cống ông nghè, mà
chỉ nhờ dưới háng không có “cái ấy”.
Cái sự ồn ào của xóm làng rộ lên ít lâu
rồi cũng lắng xuống. Biết bao nhiêu công việc mới của cách mạng
đang chờ. Nào học tập đời sống mới, nào phá đình, đào đường, rồi
phá thành Bình Định. Bác tôi như một con mèo ốm, lúc nào cũng run
rẩy vì lạnh và vì sợ. Khi sắp xếp những người trong làng thành
đoàn thể, người ta không biết phải xếp bác vào nông dân hay phụ
nữ. Vào nông dân thì các ông không chịu. Nó đâu có cái ấy. Mà vào
phụ nữ, các bà lại trề môi: cái thứ bị trời hoạn ấy ai mà thèm.
Thành ra bác khơi khơi ở giữa, khỏi phải họp hành tới lui, khỏi
nghĩa vụ nghĩa viếc.
Không biết cách mạng quên hay vì làng
hãy còn thương bác mà nửa mẫu công điền không bị lấy lại. Tuy
không còn bổng lộc, nhưng nhờ vậy bác vẫn sống được. Có điều bác
không biết cầm cày cầm cuốc, không biết cây lúa mọc lên ra sao,
nên cha tôi khuyên bác cho người ta làm rẽ, rồi cất riêng cho bác
1 ngôi nhà nhỏ ở góc vườn. Bác sống ở đó, cũng biệt lập và kín
đáo như ở trong cung cấm.
Đồ tế nhuyễn của bác đựng trong một
chiếc hộp nhỏ sơn đen cẩn xà cừ óng ánh. Trong hộp chỉ có 1 chiếc
trâm đã gãy, 1 vòng ngọc thạch bị vỡ, 1 ít viên phấn nụ màu trắng
lâu ngày đã xỉn và sứt mẻ. Bác thường bày ra trên một chiếc khăn
nhiễu đỏ, nâng niu mấy món đồ vô dụng ấy với tất cả lòng sùng
kính. Có cảm giác như bác đang đứng hầu ai đó một cách khiêm
cung. Một đôi khi bác nói thành tiếng, thưa đức ngài, con trót
dại. Có thể nghĩ rằng đó là những vật trong cung mà bác vô ý làm
hư hại nên bị quở mắng. Cái kỷ niệm xót xa đó gắn liền với chút
vàng son một thuở khiến bác quên đi cái thực tại nghèo đói tồi
tàn. Bác lơ mơ, ngầy ngật giữa mùi hương lạnh lẽo và xa vắng như
đang mộng du. Cầm đôi đũa tre tưởng như đũa ngà, bưng chén đất
tưởng như chén ngọc, nghe gió thổi qua lùm tre kẽo kẹt tưởng như
đàn sáo dìu dặt, thấy ống quần ai vén lên tận háng khi rửa chân
tưởng lệnh bà đang đi tắm...
Trong khi bên ngoài, cả làng cả nước
đang rùng rùng như sóng trào gió giật vì cuộc kháng chiến thì bác
vẫn lặng lẽ trung thành với những hình bóng cũ. Bác quên hẳn
chúng tôi và rồi chúng tôi cũng quên dần bác. Chỉ đến khi giỗ
chạp, cha tôi ra mời bác mới vào. Nhưng bác chỉ đứng xa mà nhìn
chứ không vào thắp hương. Cha tôi nói, bác tự cho mình có tội bất
hiếu nên không dám đứng trước bàn thờ.
Năm ấy bác chỉ hơn 50, nhưng vì không
có râu và để tóc dài nên trông bác như một bà lão. Trong những
buổi chiều tắt nắng, bác ngồi trước thềm nhà như một con chó ốm
nhớ chủ, nước mắt lặng lẽ rơi từng giọt không buồn lau. Lẽ ra bọn
trẻ chúng tôi, có được một người với rất nhiều bí mật như thế là
cả một kho tàng để đào bới những chuyện kỳ thú, nhưng với vẻ u
buồn lạnh nhạt của bác, chúng tôi ít đứa nào dám tới gần. Cái trò
tinh nghịch nhất mà chúng tôi có thể làm một đôi lần, ấy là nằm
rạp trong vườn chuối để rình xem bác đái ngồi. Bị kiến cắn và bị
cha lấy roi phết lên mông nên cũng chẳng biết gì hơn ngoài cái
ống chân xanh rớt và teo nhách không một sợi lông của bác.
Ấy thế mà cũng có một lần bác phải ra
trước nhân dân. Trong chiến dịch bài phong kiến, không biết vì
đùa nghịch hay vì ác ý mà chủ tịch ủy ban thôn đã lôi bác ra
trong một cuộc mít tinh, để hỏi về cách sống xa hoa của bọn vua
chúa và cách bóc lột của chúng.
- Mày làm gì trong cung?
- Thưa hầu hạ.
- Hầu hạ ai?
- Thưa hầu vua và hoàng hậu.
- Phải gọi đích danh là thằng Bảo Đại
và con Nam Phương, biết chưa?
- Dạ thưa biết.
- Nó ăn, mày làm gì?
- Thưa đứng hầu.
- Nó ngủ, mày làm gì?
- Thưa sửa soạn chăn màn.
- Nó đái, mày làm gì?
- Dạ...
- Có cầm c... cho nó đái không?
Tới đây thì cả làng nổ ra một trận cười
ầm ĩ mà chỉ có tiếng hô đả đảo phong kiến mới dập tắt được. Bác
đứng đó, ngơ ngác, run rẩy. Chắc bác tự hỏi đây là nơi đâu? Địa
ngục chăng?
Bác mềm oặt ngã xuống. Lại một trận cười nữa.
Cha tôi bồng bác về, đương nhiên là
không giống như lúc bác bồng các cung tần, mà giống như đang ôm
một thằng bù nhìn làm bằng rơm.
Bác nằm như chết 3 ngày đêm. Rồi bác
dậy, bước vào cái từ đường là nơi lẽ ra bác được thừa tự nếu sinh
được con trai. Thầm thì một lúc, bác lại về nhà mình đóng kín
cửa, còn cha tôi thì xách cuốc đi đâu đó.
Một lúc sau, cha tôi về với 1 cục đất
sét. Ông đập nhỏ, lấy 1 ít nước ngào trộn như lúc đắp ông táo.
Khi đã thật nhuyễn, ông ngồi nặn một cái “bộ tam” có đủ cả chim
dái rồi đem phơi khô. Khi đã khô cứng ông lấy rơm đốt cho đến lúc
thành sành. Dường như sau đó ông có thêm vào một ít tóc rụng mà
mỗi khi chải đầu mẹ tôi thường cuộn lại như một cái kén dắt lên
mái tranh.
Ba
tôi đem đến cho bác. Cầm cái vật kỳ lạ trên tay, khuôn mặt nhăn
nheo của bác như căng ra, cái nhìn của bác nửa như kinh ngạc nửa
như hài lòng. Dường như trên đôi môi khô héo xanh xao của bác ánh
lên một nét cười rất nhẹ. Bác nói, chú tốt với tôi quá. Rồi bác
về nhà mình đóng cửa lại.
Hôm sau bác bảo tôi dẫn bác lên thăm mộ
mẹ. Bác ngồi rất lâu, tay luôn bứt những cọng cỏ trên mộ bà. Khi
đi về, bác ghé thăm một vài nhà quen. Những bác Năm, bác Bảy đã
từng chơi với bác lúc nhỏ. Tuy có hơi bất ngờ, nhưng ai cũng ân
cần chào đón bác. Lần đầu tiên tôi thấy bác vui. Trông bác không
khác gì những người đàn ông trong làng.
Cứ tưởng như thế là đủ để cho bác vui
sống với tuổi già. Không ngờ là bác chuẩn bị để chết.
Thực ra bác chưa tới số. Nhưng có lẽ vì
xấu hổ, vì lạc lõng nên bác đã treo cổ tự tử.
Nhà bác luôn cài kín cửa, nên khi nghe
có mùi hôi, tông cửa vào mới biết là bác đã chết từ lâu. Tấm thân
mỏng mảnh của bác không đủ sức căng phồng lên, nhưng vẫn có những
giọt nước chảy xuống đọng vũng trên nền đất bu đầy kiến. Nhiều
con tinh quái còn theo sợi dây cột từ xà nhà, chui vào mắt vào
mũi bác.
Cha
tôi khóc, cắt dây đưa bác xuống. Lúc này bác mới thật giống là
con bù nhìn. Cái lưỡi bé xíu của bác không biết cách thụt vào nên
khuôn mặt bác trông vừa buồn cười vừa đáng sợ. Những con kiến
trên người bác hốt hoảng bò ra. Chúng nhốn nháo tới lui trên làn
da vàng ệch, bối rối chạm râu vào nhau như để hỏi thăm đường về.
Một đời lạnh lẽo của bác kết thúc như
thế đó. Ngoài một vài giọt nước mắt em khóc cho anh, cũng chẳng
còn ai khóc bác.
Cha tôi bảo mẹ lấy lá
bưởi và lá é nấu nước để ông lau rửa cho bác. Mùi thơm của lá làm
bớt đi phần nào mùi khăm khẳm của thịt da mục rữa.
Cha tôi tự mình khâm liệm cho bác. Khi
bác đã được lột truồng, cha tôi lấy cái bộ tam cất trong hộp đặt
vào giữa háng rồi mới mặc áo liệm màu trắng. Cái vật khô cứng ấy
không ăn nhập gì với thịt da bỗng nảy cao lên dưới làn vải như có
ai thò tay động đậy. Một vài người đàn ông đến phụ giúp quay mặt
vào vách để giấu nụ cười.
Bác được đem chôn ở chân núi Mò O, vẫn
đắp mộ hình cái chàn như bao nhiêu người đàn ông khác. Cha tôi
thở dài nói với mấy người đào huyệt:
– Thôi thế cũng xong một kiếp người.
Mai sau có đầu thai ảnh cũng không còn làm quan hoạn nữa.
Lúc trở về, mẹ tôi trách cha, sao không
chôn cái hộp theo bác. Cha bảo, đem theo làm gì nữa. Chẳng lẽ còn
muốn ảnh làm con ma bị thiến hoài sao.
Bác được thờ trên một cái bàn nhỏ cạnh
bàn thờ tổ tiên. Không có di ảnh, chỉ có chiếc hộp hình chữ nhật
của bác đặt sau lư hương giống như một cái áo quan còn phủ vải đỏ
chưa hạ huyệt.
10 năm sau, nhà bị đốt, cái hộp ấy cũng
thành tro.
KHUẤT ĐẨU
1/11/2010
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, November 12, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang