Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Lính
Tác giả:
Cửu Long
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Chị tên Nguyệt, lúc đó
chị khoảng 13 tuổi, còn tôi khoảng 11. Theo lời người ta kể thì
chị mồ côi cha mẹ được vợ chồng người hàng xóm đem về nuôi. Ông
Bà Chín không có con nên họ xem chị như con cái trong nhà, cho
chị đi học. Đổi lại, chị phải dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc Ông Bà
Chín. Chị học trên tôi hai lớp, tôi đệ thất, còn chị lớp đệ ngũ.
Theo như chị kể lại, quê chị ở Tân Thành bị Việt Cộng về chiếm
làng, ba má chị mất tích chỉ hai ngày sau đó. Người cậu của chị
phải dẫn cả gia đình chạy di tản ra quận lỵ nơi tôi ở. Họ dẫn chị
theo nhưng không đủ điều kiện nuôi cả gia đình gần 10 người nên
cho Ông Bà Chín làm con nuôi.
Nhà chị đối diện nhà tôi trên đường dẫn
ra bờ sông Tiền Giang. Buổi sáng đầu tiên tôi gặp chị trong bộ bà
ba đen cũ đã ngả màu phèn vàng úa và đôi dép đứt quay phải nối
lại bằng giây kẽm. Chị đang quét nhà, từ trong ra ngoài thì bị bà
Chín rầy, bảo phải quét từ ngoài vào trong. Bà giải thích quét ra
là đẩy hết cái phước ra ngoài, phải quét vô để nhận được phước.
Tôi thấy hai mắt chị long lanh nước mắt như muốn khóc nên vội
chạy tới hỏi:
– Bộ mầy mới tới đây làm cho bà Chín hả?
Chị trả lời:
– Hông phải, tao là con nuôi của ba má
Chín.
Tôi nói
với chị:
– Tui
tên Bình, nhà tui bên đó.
– Tao tên
Nguyệt, mầy mấy tuổi?
– 11
– Tao 13, mầy phải gọi tao bằng chị.
–
Ừ, chị Nguyệt hé
Vậy là tôi làm quen được với chị từ đó.
Năm chị học hết đệ tứ thì phải thôi học do Ông Chín bịnh nặng rồi
qua đời, Bà Chín một mình không đủ điều kiện cho chị tiếp tục đi
học. Mỗi ngày chị ra sạp vải ngoài chợ tiếp Bà Chín buôn bán. Năm
tôi 15 tuổi phải xa nhà lên tỉnh tiếp tục học thi tú tài một, rồi
tú tài hai nên ít khi được gặp lại chị. Sau khi đậu tú tài hai
chuẩn bị vào đại học thì nghe tin Bà Chín cũng vừa qua đời, bỏ
lại ngôi nhà cũ nát vì không có người đàn ông chăm sóc. Lúc này
tôi đang rảnh rang nên tình nguyện giúp chị sửa sang lại căn nhà
của chị được thừa hưởng. Mỗi ngày trước khi chị ra sạp vải, chị
hay hỏi tôi cần mua vật dụng gì để chị gọi người đem tới, tôi
khỏi phải mua. Sau ba tháng hè, tôi cũng tạm sửa lại căn nhà của
chị, tuy không khéo nhưng cũng không dột trước hổng sau.
Khi cuộc chiến càng ngày càng khốc
liệt, tôi bị động viên, vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Ngày ra
trường về thăm ba má thì gặp lại chị Nguyệt. Lúc này chị đã là
gái đôi mươi, có rất nhiều chàng trai đang theo đuổi nhưng chị
vẫn phòng không gối chiếc. Nhiều lần chị tâm sự với má tôi:
– Con trai cái quận này sao mà như công
tử bột, tối ngày chỉ biết lo tán gái, nhậu nhẹt, nhìn như cọng
bún thiu cô nào vô phước mới rước họ về làm chồng.
Hai tuần phép qua rất nhanh. Ngày tôi
chuẩn bị trình diện sư đoàn, chị đem tượng Phật nhỏ qua đưa cho
tôi, bảo giữ trong người làm vật hộ thân. Hai mắt chị long lanh
nước mắt như muốn khóc. Tôi vội nói:
– Vài bữa có phép thường niên tôi về
thăm chị. Chị ráng giữ gìn sức khỏe.
– Bình đi mạnh giỏi, Nguyệt mỗi đêm sẽ
đọc kinh cầu xin Trời Phật che chở cho Bình.
Tôi hơi giật mình khi chị xưng Nguyệt
chứ không còn mầy tao như ngày xưa. Thật sự mà nói, lúc nào tôi
vẫn xem chị như người thân trong gia đình, không có một chút tình
cảm trai gái giữa tôi và chị.
– Cảm ơn chị lo lắng cho tôi.
Tôi ra đi biền biệt. Hơn mười tháng sau
tôi trở về thăm nhà sau khi xuất viện do bị thương chân phải. Đêm
đầu tiên vừa về tới nhà là chị qua thăm, hỏi như muốn khóc:
– Sao Bình bị thương mà không cho
Nguyệt hay để đi thăm?
– Vết thương không có gì trầm trọng lắm
đâu chị, vả lại tôi không muốn chị lo lắng, lặn lội đường xá xa
xôi nguy hiểm cho chị.
– Bình nói vậy coi Nguyệt như người
dưng sao?
–
Đâu phải vậy chị, tôi thương chị như người thân trong nhà mà.
– Ừ nhớ đó nhe, thương như người thân
trong nhà.
Trong những ngày phép dưỡng thương đó nhiều khi chị làm bộ gọi
tôi qua sửa dùm cây đèn dầu hay đóng lại chân bàn bị lung lay.
Chị nấu đủ món cho tôi ăn, bảo là tẩm bổ để khi trở lại đon vị có
đủ sức đi hành quân. Có ngày chị đóng cửa sạp vải, lấy cớ mệt về
nhà nghỉ. Chị bảo muốn về để gần gũi, tâm sự với tôi trước khi về
đơn vị. Không biết ba má tôi nghĩ gì mà cứ thỉnh thoảng hỏi khi
nào tôi lập gia đình. Tôi viện cớ đang thời chiến tranh chưa muốn
lập gia đình.
Lần lượt hai đứa em gái tôi lấy chồng phương xa, bỏ lại ba má tôi
già yếu. Thằng em trai còn đi học viện đại học Cần Thơ, được miễn
dịch phải bỏ học về nuôi ba má. Tôi thì ra đi biền biệt, cả năm
mới về thăm nhà. Mỗi lần về chỉ năm ba hôm rồi lại ra đi. Chị thì
vẫn phòng không đơn chiếc. Có lần tôi hỏi:
– Sao chị chưa chịu lấy chồng để có
người lo lắng trước sau cho chị?
– Bình nhìn chung quanh đây xem ai là
người xứng đáng cho Nguyệt nâng khăn sửa túi? Nguyệt thà ở giá
suốt đời chứ không muốn chung chăn với những người hèn nhát, chạy
chọt giấy tờ trốn quân dịch.
– Vậy có người đàn ông như thế nào chị
mới chịu?
–
Người ấy phải giống như Bình, sống đời trai hiên giang lo giúp
nước, diệt giặc, bảo vệ quê hương.
– Vậy để tôi tìm ông nào trong đơn vị
giới thiệu cho chị nhe.
– Đồ quỷ, đừng có chọc Nguyệt như vậy
nữa, Nguyệt nói thiệt mà.
Cuộc đời cứ thế trôi đi. Ngày 30 tháng
4, 1975. Tôi bị bắt rồi đi tù trại cải tạo Vườn Đào. Năm sau chị
đến thăm tôi. Chị cho hay thằng em tôi bị bọn công an phường bắt
tội phản động. Nó rải truyền đơn bị bắt. Họ đánh nó chết trong
tù. Hai đứa em gái theo chồng vượt biên ngày đất nước rơi vào tay
cộng sản, không biết tin tức gì cho đến nay. Ba má tôi quá đau
buồn bịnh nặng không đi thăm tôi được nên nhờ chị đi dùm. Chị còn
kể là sạp vải của chị đã bị xung vào hợp tác xã. Bây giờ chỉ sống
nhờ chăm sóc khu vườn nhỏ của ba má tôi kiếm huê lợi nuôi sống ba
má tôi và chị. Nhìn chị già đi rất nhiều so với ngày xưa. Mắt chị
hoằn đen, hốc hác, tiều tụy đi. Tôi cũng không hơn gì chị sau một
năm tù đày, lao động, thiếu ăn.
Ba má tôi lần lượt qua đời không có một
đứa con về để tang. Chị phải bán ngôi nhà của chị để có tiền chôn
cất ba má tôi. Đều dặn mỗi ba tháng là chị đến thăm một lần tiếp
tế cho tôi thêm chút thức ăn phụ vào phần ăn ít ỏi của người lính
tù thất trận. Bốn năm sau thì họ thả tôi. Ngày ra trại với vài
chục đồng chi phí xe cộ và mảnh giấy ra trại. Tôi với năm người
bạn tù đi bộ ra đến chợ Mỹ Phước Tây đón xe ra Cai Lậy. Mấy bà
bán hàng trong chợ nhìn chúng tôi trong bộ quần áo rách bươm liền
gọi:
– Mấy cậu
vô đây ăn sáng rồi hãy đi, 2 tiếng nữa xe mới chạy.
Họ đem cho chúng tôi 6 dĩa cơm sườn bì
và sáu ly cà-phê đen. Đó là bữa cơm ngon nhất trong bốn năm đời
tù cải tạo của tôi. Mọi người chung quanh bu nhau kẻ cho trái
bắp, người cho gói xôi bảo là để dành đi đường ăn đỡ đói. Chúng
tôi nhìn họ mà nước mắt cứ tuôn tràn không nói nên lời, dù chỉ
một tiếng cám ơn. Khi đến giờ xe chạy, người tài xế xe nhất định
không lấy tiền cho dù chúng tôi cố dúi tiền vào tay anh. Tôi nhớ
lại tên quản giáo Ba Phần lên lớp chúng tôi:
– Các anh có tội rất lớn với nhân dân.
Chúng tôi giữ các anh trong vòng rào kẽm gai là để bảo vệ các anh
vì nhân dân sẽ trả thù cho những tội ác các anh đã gây ra.
Nhân dân chợ Mỹ Phước Tây đã trả thù
chúng tôi với những dĩa cơm sườn, những gói xôi, những trái bắp
mà họ có thể để dành cho người thân của họ trong lúc cả nước phải
thắt lưng buộc bụng trong thời kỳ bao cấp, củi quê gạo châu này.
Khi xe đến Cai Lậy thì khoảng 2 giờ
chiều. Năm người bạn tù chờ xe về Sài Gòn, còn tôi về miền Tây.
Anh lơ xe chạy ra ngã ba Cai Lậy ngoắc xe lại gởi tôi lên chuyến
xe cuối cùng. Trước khi lên xe, anh đưa cho tôi một ổ bánh mì
thịt rồi chào tay kiểu quân đội. Như cái máy, tôi chào lại vì
theo phản ứng tự nhiên của một người lính VNCH dù đã thất trận.
Anh nói vội rồi chạy vào trong chợ Cai Lậy.
– Ông thầy đi đường bình an.
Tôi nhìn theo anh lơ xe, cố nhớ gương
mặt anh để khi nào có dịp tôi sẽ trả lại ơn nghĩa anh đã dành cho
chúng tôi. Một lần nữa, anh tài xế nhất định không chịu lấy tiền
xe. Mấy người đàn bà trên xe nhìn tôi với ánh mắt thông cảm. Họ
nhường cho tôi một chỗ ngồi hàng ghế cuối xe.
Tôi về đến nhà khoảng 10 giờ đêm. Ngôi
nhà cũ kỹ cửa đóng im lìm. Tôi gõ cửa.
– Ai mà gõ cửa ban đêm ban hôm vậy?
Tiếng chị Nguyệt đang ngáy ngủ từ bên
trong.
– Bình
đây chị.
Tôi
nghe tiếng chân trần chạy hấp tấp ra cửa. Chị Nguyệt mở cửa rồi
ôm lấy tôi khóc:
– Nguyệt không biết Bình về hôm nay. Có
đói không để Nguyệt hâm cơm lại cho Bình ăn?
– Trên đường về tôi được người ta cho
ăn nhiều lắm, đến giờ còn no lắm.
Tôi đến trước bàn thờ ba má, quỳ lạy
xin lỗi tội bất hiếu không về chịu tang ngày hai Người mất. Tôi
nhìn khói nhang quyện vòng theo cây đèn dầu le lói như ba má về
thăm thằng con xấu số mới ra tù. Tôi quỳ trước bàn thờ mà nước
mắt cứ tuôn tràn.
– Ba má tha tội cho con, vì hoàn cảnh
tù đày mà con không về để tang cho ba má.
Chị đặt tay lên vai tôi:
– Hai bác rất hiểu cho Bình, đừng quá
đau buồn, hãy ráng lên để đối đầu với những ngày sắp tới.
Và những ngày sắp tới đến với tôi trong
khổ cực của “thằng sĩ quan Ngụy”. Họ bắt tôi trình diện hàng
tuần, không được đi xa khỏi xã. Tất cả những hành vi của tôi đều
bị theo dõi. Đôi khi bọn công an xã đến gõ cửa ban đêm để kiểm
tra, xét nhà và muốn biết chắc chắn là có tôi trong nhà. Tôi sống
như người bị giam lỏng trong nhà tù lớn.
Tôi nhìn chị chăm sóc cho tôi từng
miếng ăn, giấc ngủ như một người vợ lo cho chồng mà nghĩ đến cái
vô tình của tôi.
– Chị Nguyệt.
– Gì đó Bình?
– Tôi muốn hỏi chị chuyện này.
– Ừ, Bình nói đi.
Ngập ngừng một hồi tôi nói:
– Chị nhớ lúc mới quen, chị bảo tôi
phải gọi chị hay không?
– Nhớ chớ sao không. Những ngày vui đó
qua mau quá.
–
Chị còn muốn tôi gọi chị nữa hay không?
– Vậy Bình muốn gọi tôi gì đây?
– Tôi gọi chị là vợ tôi được không?
Chị Nguyệt nhìn tôi với ánh mắt rất
ngạc nhiên rồi đổi sang mừng rỡ:
– Em chờ câu nói đó của anh lâu lắm
rồi.
Hai tháng
sau chúng tôi làm đám cưới. Tiệc cưới rất đơn giản, chỉ mời bà
con lối xóm. Hai năm sau Nguyệt cho tôi đứa con trai đầu lòng.
Tôi đặt tên Nhẫn để nói lên cái nhẫn nại của chị dành cho tôi.
Năm sau nữa thì chị cho tôi thêm đứa con gái, chị đặt tên nó là
Cam để nói đến cái cam khổ của vợ chồng chúng tôi.
Một hôm đầu năm 1990, chị chạy hớt hải
về nhà:
– Anh
ơi! Họ muốn cho mình đi định cư bên Mỹ.
– Em lại mơ tưởng viễn vông. Ai lại cho
thằng sĩ quan Ngụy như anh đi khỏi Việt Nam.
– Đây nè, coi đi.
Chị đưa cho tôi xem tờ báo cho biết Bộ
Ngoại Giao và Quốc Hội Mỹ chấp thuận cho tù nhân chính trị được
đi định cư tại Mỹ ký ngày 30/7/1989. Lòng vòng lo nạp đơn, lót
tiền cho họ ký giấy cũng hơn hai năm. Tôi dỡ mộ đem xương cốt ba
má thiêu rồi đem gởi vô chùa vì tôi biết là sẽ lâu lắm mới trở
lại quê hương này. Tuy đã nuôi tôi lớn lên, tuy nhiều người vẫn
còn tình người sẵn sang đùm bọc che chở người thất trận. Nhưng
tôi phải ra đi để con tôi có tương lai hơn, có nhiều cơ hội để
vươn lên với đời hơn.
Bao nhiêu tiền chúng tôi dành dụm đều
cạn sạch. Ngày gia đình tôi lên máy bay đi Mỹ, trong túi còn đủ
200 đồng đô-la sau khi bán nhà, bán đất của cha mẹ để lại. Đáp
xuống phi trường JFK thành phố New York. Cả gia đình hai đứa em
gái tôi có mặt đầy đủ đón gia đình tôi. Ba anh em chúng tôi ôm
nhau khóc sau hơn 17 năm xa cách. Mấy đêm đầu tiên tôi không ngủ
được, vừa lạ chỗ, vừa lo lắng cho tương lai sắp đến. Mình phải
làm gì lo cho gia đình, cho con cái đi học, và đủ mọi chuyện cứ
liên tục hiện lên trong đầu. Từ quê hương bỏ lại sau lưng, từ quê
hương thứ hai sẵn sàng bao dung cho người lính thất trận.
26 năm sau, nhìn lại từ ngày đến đất
nước Mỹ giàu lòng nhân đạo này, hai đứa con tôi đã ra trường đi
làm xa. Vợ chồng tôi nghỉ hưu dời về vùng đất ấm Florida. Chị
Nguyệt nay đã gần 70 nhưng vẫn còn nét đẹp của người phụ nữ Việt
Nam luôn lo cho chồng, cho con. Sáng nào tôi cũng có ly cà-phê
sữa nóng ít sữa, còn chị thì vẫn một ly trà cúc đường phèn. Nhiều
lần tôi nói lời cảm ơn chị đã cưu mang ba má tôi khi tôi còn
trong tù cải tạo. Chị chỉ cười đưa hàm răng khểnh rồi nói:
– Em kết anh từ lúc mình mới gặp nhau
lần đầu.
– Vậy
tại sao bắt người ta kêu bằng chị?
– Làm chị cho nó oai chút chơi mà...
– Lúc nào em cũng là Chị Nguyệt của
anh.
Cửu Long – Viết theo lời
kể của một HO.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, August 17, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang