Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Khảo
Luận
Chủ đề:
binh pháp
Tác giả:
Lê Huy Trứ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mười
nguyên lý của quốc sách – chiến lược và chiến thuật – bao gồm:
Biết – Mưu – Thế – Phòng thủ – Bảo toàn
– Chủ động – Lợi động – Tốc chiến – Bảo mật – Biến hóa.
Chúng ta hãy cùng nhau phân tích từng
nguyên lý một dưới đây để biết tại sao mình đã thắng/thua, vì sao
mình đã không thắng/không thua.
Dĩ nhiên những điều phân tích dưới đây
ứng dụng luôn cho địch, tại sao địch đã thắng/thua, tại sao địch
đã không thua/không thắng.
Những chiến lược, chiến thuật và 10
nguyên lý căn bản dưới đây được rút tỉa từ Tôn Tử Binh Pháp, và
các binh pháp thế giới.
Bài học quân sử này không có gì là mới
lạ cả. Ai cũng biết, nhưng biết quyền biến, sử dụng uyển chuyển,
đúng lúc đúng thời mới mong đạt được hiệu quả và thành công. Dù
không thắng nổi sức địch mạnh cũng không dễ gì thua. Biết ta,
biết địch thì trăm trận không thua.
1. BIẾT
Đại Đế Napoleon nói: “Biết người, biết
ta, trăm trận trăm thắng.” Đó cũng là nguyên tắc quan trọng trong
binh pháp của Tôn Tử.
Tôn Tử từng nói: “Các bậc minh quân,
tướng giỏi, mỗi khi xuất động thì đạt được thắng lợi, thành công
vẻ vang là do: điều biết trước. Muốn biết trước không thể cầu quỷ
thần [ghi chú của người viết, coi bói] coi việc mà phán đoán,
không thể suy nghiệm đo lường, mà phải do điều biết rõ [tình báo
chính xác] tình hình của đối phương...”
Muốn biết thì phải tìm hiểu, điều tra,
nghiên cứu, dùng ngoại giao, tâm lý chiến, gián điệp, tình báo và
địch vận để lấy tin tức quân sự, kinh tế, viện trợ, tiếp vận,
theo dõi nhất cử nhất động, những thói quen, tật xấu của cấp
lãnh đạo và chỉ huy của địch. Những tin tức thâu lượm phải được
kiểm chứng trình độ chính xác, không sai lạc, nếu không có thể
làm hư kế hoạch.
Người đưa tin cũng cần phải nắm vững
nguyên tắc trên.
Như vậy, tướng chỉ huy hay nhà lãnh đạo
phải biết mình, biết người. Tri Kỷ, Tri Bỉ! Biết mình để thấy cái
hay mà phát huy, thấy cái dở để tránh hoặc sửa đổi. Biết địch để
thấy chỗ mạnh chỗ yếu của địch mà đặt ra kế hoạch tấn công, phản
kích hoặc đề phòng.
Nguyễn Công Trứ viết: Lúc thái bình
phải nghĩ đến cơn nguy biến... luôn luôn trau dồi sở trường, bổ
khuyết sở đoản của mình để phòng khi hữu sự... lấy sở trường của
mình để chống với sở đoản của địch, tránh dùng sở đoản của mình
để đối phó với sở trường của địch.
Quân trường Võ Bị và Thủ Đức của QLVNCH
có phương châm: Đa năng, đa hiệu, và Cư an tư nguy.
2. MƯU
Mưu là mưu
chước, mưu lược. Người lãnh đạo cũng như tướng chỉ huy phải biết
dùng mưu chước, mưu lược để đánh thắng địch. Mưu lược là sắp đặt
mưu kế, sắp đặt kế hoạch, có lịch trình để hành động. Muốn có mưu
lược thì nguyên tắc làm việc phải có phương pháp, có ban tham mưu
giỏi để bàn thảo, sắp xếp kế hoạch nhịp nhàng với những đơn vị
bạn. Hữu dõng vô mưu chỉ dùng sức mạnh mà không biết dùng mưu
cũng dễ đưa đến thất bại, hao quân, tổn tướng.
Tôn Tử trình
bày trong thiên Thủy Kế như sau:
“Lúc chưa chiến mà mưu tính thấy có cơ
hội thắng lợi, thì thường là sẽ thắng. Lúc chưa chiến mà mưu tính
thấy khó thắng, thì ít khi được thắng.
Mưu tính nhiều, dễ thắng; mưu tính ít,
khó thắng. Huống hồ không chịu mưu tính gì hết, coi đó đủ thấy
trước thắng hay bại như thế nào rồi.”
Trong binh thư, Tôn Tử đưa ra 36 kế
(tam thập lục kế) được tóm lược những mưu chước ứng xử trong các
trận địa, và môi trường chính trị đương thời. Như thế, đối với kẻ
địch nếu ta không có mưu lược ắt sẽ thất bại vì sẽ bị mắc mưu của
địch.
3. THẾ
Thế là cái
sức mà ta phải biết để dựa vào tạo nên sức mạnh cho mình.
Có nhiều loại
thế: Thế thiên nhiên như lãnh thỗ, “Hoành Sơn Nhất Đái”, địa
hình, rừng núi sình lầy, địa vật, khí hậu, thời tiết... Thế lòng
người (thế tâm công), thế tài chánh, thế chính trị, thế ngoại
giao, thế viện trợ quân sự và kinh tế, thế phương tiện; thế bên
trong nước (nội lực, kể cả thế của địch quân); thế bên ngoài nước
(ngoại lực của các nước láng giềng, đồng minh và thế giới. Kể cả
thế hậu phương của địch).
Tôn Tử nói:
“Phàm điều khiển quân, bất kể nhiều hay
ít đều là việc tổ chức biên chế quân đội, chỉ huy quân nhiều hay
ít là vấn đề hiệu lệnh. Thống lĩnh toàn quân gặp địch tấn công mà
không bị bại trận, ấy là nhờ vào thuật biến hóa kỳ ảo khi dùng
binh là chính. Dùng binh công địch được thế như lấy đá chọi
trứng, ấy là nhờ biết vận dụng chính xác tránh thực chọn hư giữa
‘điểm và diện’.”
Tôn Tử diễn tả trong thiên “Binh Thế”
như sau:
“Kẻ
[lãnh đạo giỏi và tướng soái tài ba] thiện chiến cầu cái thế mà
không hề trách ở người. Cho nên kẻ thiện chiến biết chọn người
[có khả năng] để thừa thế... Bởi vậy, cái thế của kẻ thiện chiến
có khác nào như chuyển một hòn đá to từ trên cao ngàn trượng cho
lăn xuống giốc. Đó tức là thế [đòn bẩy, tứ lạng đổi lấy ngàn
cân].”
Trong
thiên “hư thực” Tôn Tử cho biết:
“Hình thế của một cuộc hành binh giống
như nước. Hình thế của nước là tránh chỗ cao, [mà dâng lên hay]
đổ xuống chỗ thấp. Cho nên hình thức của một cuộc hành binh là
tránh chỗ thực (chỗ mạnh) mà công kích chỗ hư (chỗ yếu). Dụng
binh tác chiến không có hình thế cố định, không có phương thức
nhất định. Hư hư thật thật. Dùng binh phải yếm trá. Tùy cơ ứng
biến dựa vào biến đổi của địch mà chiến thắng thì gọi là dụng
binh như thần.”
Trong thiên “hành quân” Tôn Tử đã đưa
ra những hướng dẫn và khuyến cáo về thế địa hình địa vật để đóng
quân, di chuyển quân, tấn công cũng như lui quân...
Tôn Tử tiên
liệu trong thiên Cửu Biến:
“Làm tướng có 5 điểm nguy hiểm: liều
chết khinh suất có thể bị giết, tham sống sợ chết có thể bị bắt,
nóng giận hồ đồ có thể mắc mưu, liêm khiết tự trọng không chịu
được nhục nhã, và nhất là thương dân có thể lo buồn bất an.
Phạm 5 sai
lầm đó thì tai hại khó lường cho việc dùng binh. Quân bị diệt,
tướng bị giết đều do 5 điểm nguy hiểm ấy mà ra, không thể không
suy xét kỹ.”
VNCH chúng ta thua CSBV cũng vì cái
điều thứ 5 này – lòng thương dân và quan tâm cho tính mạng binh
sĩ.
QLVNCH
không nỡ hy sinh gia đình, bỏ rơi dân chúng để mà di tản chiến
thuật, không nỡ thí quân nếu không bị bắt buộc.
Vì quân đội
VNCH đã thề quyết Bảo Quốc, An Dân (Cư An Tư Nguy).
Đối với CS,
tình cảm yếu mềm là điểm yếu nhất của “Ngụy và khối Tư Bản”.
Người biết
dựa thế sẽ tạo thêm sức mạnh cho mình, biến sức người thành sức
mình, biến thế thiên nhiên thành lợi điểm cho mình, tạo bất lợi
cho địch; “gậy ông đập lưng ông”. Biết dùng các phương pháp chính
trị, tâm lý, thương mại, giáo dục, khoa học, kỹ thuật quản trị
hiện đại để đạt kết quả cũng là biết dùng thế vậy. Muốn đạt được
thế cần phải nỗ lực nghiên cứu, biết tâm lý lấy lòng dân, lòng
người, biết dựa vào chính nghĩa, chính trị, tình báo, tuyên
truyền, biết học hỏi các phương thức mới, biết dùng người có khả
năng, nghe lời mưu sĩ, và tướng soái... Ngoài thế bên ngoài, thế
bên trong rất quan trọng. Tuy nhiên, nếu chỉ có đầu óc lệ thuộc
ngoại bang, luôn luôn ỷ lại vào người khác mà không tự dựa vào
sức mình thì sẽ khó thành công.
4. PHÒNG THỦ
Phòng thủ là bảo vệ mình, bảo vệ đơn
vị, bảo vệ lãnh thổ của mình, không được thờ ơ, không được khinh
địch, không để sơ hở, nhờ vậy sẽ không bị địch tấn công bất ngờ.
Trong thiên
“Cửu Biến”, Tôn Tử viết:
“Phép dùng binh không nên yên trí là kẻ
địch không đến mà phải cậy ở sức mình để chờ đợi kẻ địch đến.
Không nên yên trí rằng kẻ địch không tấn công mình, mà phải cậy ở
chỗ [phòng thủ thế nào để] địch không thể tấn công mình nổi.”
Có nghĩa rằng
luôn luôn phải đề phòng dù không biết địch có tấn công hay không.
Do đó, kế
sách phòng thủ không bao giờ coi thường địch, lơ là phòng địch
tưởng rằng địch không thể nào tấn công được. Nói rộng hơn, đề cao
cảnh giác là hành động quan trọng để bảo toàn lực lượng, không để
địch trà trộn, xâm nhập lấy tin tức, tung tin thất thiệt, không
mắc mỹ nhân kế, không để bị phục rượu, hoặc bị mua chuộc bằng
tiền bạc, sắc đẹp, hoặc bị khích tướng. Đề cao cảnh giác cũng là
sáng suốt không để địch gieo nghi ngờ, hoang mang, lo sợ, gây
chia rẽ trong nội bộ làm suy yếu tiềm lực và mất tinh thần chiến
đấu của ta. Vì thiếu đề cao cảnh giác nên ta đã mắc mưu
[kế] ly
gián của địch, chia rẽ nội bộ làm suy yếu tiềm năng của chính
mình.
5. BẢO
TOÀN
Bảo toàn
là bảo tồn lực lượng, không hoang phí sức lực và tài sản một cách
vô ích.
Trong
thiên “Mưu Công”, Tôn Tử ghi:
“Phép dụng binh, bảo toàn lực lượng
quốc gia là nhất; phá hoại sức mạnh của nước là kém; giữ nguyên
binh lực là nhất, phá hại sức quân là kém; giữ vững đơn vị là
nhất, phá hoại đơn vị là kém. Cho nên đánh trăm trận trăm thắng
chưa phải là giỏi. Không đánh mà khuất phục được binh lực của đối
phương mới là đệ nhất. Bởi thế, hay nhất là dùng mưu kế, kế đến
là dùng ngoại giao, cuối cùng mới giao chiến, còn tấn công thành
trì là hạ sách.”
Tôn Tử nói thêm: “Kẻ giỏi dùng binh có
thể khuất phục đối phương mà không cần chiến; đoạt thành trì mà
không cần tấn công; hủy diệt nước đối nghịch mà không mất nhiều
thì giờ, do đó có thể tranh thủ thiên hạ; không phải đồn trú binh
đội mà được lợi hoàn toàn. Đó là phép mưu công vậy.”
Người lãnh đạo giỏi, tướng tài khi “nắm
chắc phần thắng mới khởi công; dùng mưu, ngoại giao là tiên
quyết, cùng lắm mới phải đối đầu, giao chiến, dùng quân nhưng
phải tránh thất thoát, hao quân. ‘Tiên dụng lễ, hậu dụng binh’”.
Muốn bảo toàn lực lượng trước khi tấn
công hay đột kích phải nghiên cứu cẩn thận, lượng định tình hình
địch, tình hình của ta.
Tuy nhiên, bảo toàn lực lượng không có
nghĩa là nhát sợ, thấy thời cơ đã đến mà không khởi công. Thời cơ
chỉ đến một lần, hoặc lâu lắm mới đến.
6. CHỦ ĐỘNG
Nguyên tắc thứ sáu là luôn luôn chủ
động. Chủ động để chi phối mặt trận, nếu cần thì “tiên hạ thủ vi
cường”. Phải tiên liệu, biết rõ địch tình, biết thế của ta (mạnh
hay yếu). Khi ra quân thì biết rõ ta, biết rõ bạn, biết rõ các
đơn vị yểm trợ, biết rõ tình hình địch để nắm phần thắng lợi.
Trong thiên
“Hư Thực”, Tôn Tử nói như sau:
“Phàm tới trước nơi chiến địa để chờ
đối phương thì khỏe; kẻ đến sau cầu chiến đấu tất phải mệt. Cho
nên kẻ thiện chiến biết dồn đẩy địch mà không để địch dồn đẩy
mình, có hại. Như thế, địch đang khỏe, bị ta làm cho mệt, địch
đang no có thể ta làm cho đói, địch đang yên ta có thể làm cho
địch rối....
Khi ta muốn đánh dù địch ở trong hào sâu lũy cao cũng phải ra
đánh với ta, bởi ta chọc vào chỗ yếu (nhược điểm) mà địch phải
cứu. Lúc ta không muốn đánh, dẫu ta vẽ thành mà thủ, [kế không
thành], địch cũng không tới đánh ta được, bởi ta dụ địch đi sang
một lối khác [hay làm cho địch lo sợ có phục binh]. Cho nên ta
phải biết rõ hình thể địch, còn ta thì vô hình. Cũng tức là ta
chuyên chú vào một chỗ nhất định trong khi lực lượng địch bị ta
phân tán. Ta chuyên chú vào một, địch phân tán ra mười, khác nào
ta lấy một đánh mười.”
Hoặc là:
“Lấy lợi mà nhử thì có thể khiến địch
tự đến, lấy hại mà dọa thì địch không thể đến. Cho nên địch đang
nhàn rỗi, ta có thể làm cho vất vả; địch đang no, ta có thể khiến
cho đói; đang yên ta có thể làm cho động”.
7. LỢI ĐỘNG
Lợi động là lấy lợi để hành động.
Nguyên tắc lợi động còn được dùng để nhử địch, lôi kéo địch.
Nhiều người khi thấy lợi lớn sẽ bị lôi cuốn vào những công việc
mà họ không muốn.
Trong lịch sử Đông Tây đã có những kẻ
phản bội, những người làm nội tuyến hoặc làm gián điệp cho địch
cũng vì ham lợi.
Tôn Tử viết trong thiên “Hỏa Công” như
sau:
“Không
lợi thì không động, không được việc thì không dùng, không thấy
nguy thì không đánh; kẻ làm chúa (tức nhà lãnh đạo) không được vì
tức giận mà khởi binh; người làm tướng không vì phẫn uất mà gây
hấn; khi thấy có lợi thì mới động, không thấy có lợi thì dừng
lại...”
Napoleon nói: “Chỉ có 2 điều con người hợp thành (united) một
khối, đó là quyền lợi và sợ hãi (fear and interest).”
Con người dù thánh thiện đến mấy đi nữa
đều vẫn muốn được lợi, lợi vật chất hoặc lợi tinh thần. Người chỉ
huy biết lợi dụng tâm lý, động viên tinh thần binh sĩ sẽ gia tăng
khả năng chiến đấu của chiến sĩ dưới quyền.
Đó là nguyên
tắc “dùng lợi để thúc binh”. Người chiến sĩ ngoài mặt trận thấy
cuộc chiến không mang lợi ích cho chính mình, cho gia đình mình,
cho dân tộc mình ắt sẽ nản lòng, thiếu tinh thần chiến đấu.
8. TỐC CHIẾN
Tốc chiến là
đánh nhanh, kết thúc nhanh. Theo nguyên lý này thì khi cần động
binh thì phải tốc chiến, tốc thắng, đánh nhanh, ngưng nhanh, rút
nhanh không nên kéo dài vì có thể làm hao tổn tính mạng và tinh
thần quân sĩ.
Những nhà chiến thuật chiến lược giỏi
không đánh dây dưa sẽ hao binh tổn tướng, làm giảm tinh thần
chiến đấu của quân sĩ. Ngoài ra khi chiến trận kéo dài, số thương
vong cao sẽ làm cho hậu phương rúng động gây ra những phản ứng
tâm lý bất lợi.
Người xưa nói: “Binh quý ở ít mà thắng
mà không quý ở nhiều ô hợp, ở lâu.” Phải biết kết thúc chiến trận
nhanh chóng, không kéo dài sẽ hao binh tổn tướng.
9. BẢO MẬT
Bảo mật là giữ gìn bí mật của mình.
Những kế hoạch động binh, kế hoạch phòng thủ, vân vân, cần được
bảo mật tối đa. Càng giữ được bí mật, càng dễ thành công vì địch
không lường trước được ta, địch không biết ta làm gì, tính gì.
Với nguyên tắc bảo mật, nhà quân sự có
thể tấn công khi địch không ngờ (xuất kỳ bất ý, xuất binh nơi
địch không phòng bị mà địch không hay).
Dụng gián điệp, phản gián, tung tin
vịt, phao thất thiệt là những phương pháp được dùng để biết những
bí mật của địch và bảo vệ bí mật của ta.
Các cơ quan an ninh tình báo, an ninh
quân đội có nhiệm vụ điều tra, phát hiện nội tuyến, địch vận, dân
vận, trí vận để bảo vệ bí mật quân sự, và quốc gia. Ngoài ra, mỗi
một chiến sĩ, mỗi cán bộ, mỗi người dân đều phải là một nhà tình
báo, luôn luôn đề cao cảnh giác đề phòng sự xâm nhập của địch.
10. BIẾN HÓA
Biến hóa là
thay đổi tùy theo tình hình, uyển chuyển, không cứng ngắt, tùy
thời, tùy tình hình mà biến hóa.
Tôn Tử viết trong thiên “Binh Biến” như
sau:
“...
binh không phải lúc nào cũng giữ nguyên một thế, [đất] nước không
phải lúc nào cũng giữ nguyên một đường.”
Từ đó, Tôn Tử
đưa ra thành nguyên lý:
“Cho nên kẻ biết dùng binh pháp... địch
giả chạy không bao giờ đuổi theo, binh hăng không bao giờ công
kích, không bao giờ bị địch đưa mồi ra dụ, địch lui không bao giờ
đón, vây ngặt quá thì mở dường cho địch tháo ra, giặc cùng không
bao giờ bức bách.”
Ngoài trận địa hay trong chính trường,
người lãnh đạo không bao giờ được khư khư cứng ngắt, không chịu
uyển chuyển tùy theo tình thế, vì không quyền biến, linh động sẽ
đưa đến thất bại não nề.
“Nhân tài tuy như lá mùa Thu nhưng anh
hùng hào kiệt thời nào cũng có”.
Tướng sĩ giỏi phải biết tùy cơ ứng
biến. Nơi chiến trường không nhất thiết tuân lệnh vua.
Danh tướng
mưu sĩ lúc tiến quân không ích kỷ vì danh vọng. Tướng sĩ can đảm
khi phải thối không sợ hình phạt cho chính mình.
Nếu công thủ, di tản đưa đến hậu quả
vạn cốt khô nhưng với mục đích bảo quốc cứu dân trong cơn khẩn
cấp nguy biến, đó là nhiệm vụ phải quyết định của tướng sĩ.
Những cấp
lãnh đạo và chỉ huy nào có đảm khí và mưu lược để làm nên những
điều lưu danh vạn cổ đó chính là nhân tài lương đống, và là anh
hùng trấn quốc của dân tộc.
Kế 36, Tẩu Vi Thượng Sách
Cuối cùng là chẩu hay tẩu. Tẩu đây là
kế hoạch, chuẩn bị di tản chiến lược và chiến thuật đúng với binh
pháp dù chưa thấy có quân trường nào trên thế giới huấn luyện dù
rằng đó là điều luôn luôn xảy ra. Di tản không phải tan hàng
mạnh ai nấy chạy, thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, gia đình ai tự
bảo vệ dù thật tế nó sẽ phải phản ứng tự nhiên như vậy của con
người.
Hơn
nữa, lúc mà quân dân hoảng hốt, hỗn loạn, tinh thần suy sụp thì
không ai có thể chỉ huy, lãnh đạo, hay duy trì trật tự được đám
quân dân tháo chạy dưới đạn pháo của địch quân.
Danh tướng, không phải chỉ giỏi lúc
tiến mà cũng phải tài lúc thối. Lui binh nguy hiểm hơn là tiến
quân.
Người
lãnh đạo phải luôn luôn – cư an tư nguy – kế sách, thảo luận với
những mưu sĩ và danh tướng để phối hợp và chuẩn bị chương trình
thích ứng cho những đại biến cố này.
Lo cho dân là trách nhiệm của bậc lãnh
đạo, mưu sĩ, và nội các. Bảo toàn quân lực là nhiệm vụ của tướng
quân. Đại trượng phu phải biết cân nhắc lợi hại. Tướng giỏi phải
biết ưu tiên.
Những điều trên phải được nâng lên hàng quốc sách, cẩm nang tối
mật, phải được trung ương thảo kế hoạch vài năm về trước. Tương
tự như kế hoạch trường kỳ của chính phủ Tưởng Giới Thạch trong
lúc chuẩn bị rút về Đài Loan cố thủ. Chứ không như mới đây, chính
phủ A Phú Hãn (Afghanistan) sụp đổ tức khắc sau khi Mỹ bỏ của, bỏ
đồng minh, cúp viện trợ, bất thần rút quân về.
Tóm Lại
Trong Thiên Kế sách Của Tôn Tử Binh
Pháp, Tôn Tử nói:
“Chiến tranh là đại sự của quốc gia,
quan hệ tới việc sống chết của nhân dân, sự mất còn của nhà nước,
không thể không khảo sát nghiên cứu cho thật kỹ.”
Cho nên, kẻ
lãnh đạo, và kẻ mưu sĩ phải dựa vào những điều tổng quát và căn
bản sau đây mà phân tích, nghiên cứu, so sánh các điều kiện lợi
hại giữa hai bên đối địch, để tìm hiểu tình thế thắng bại trong
chiến tranh cũng như trong ngoại giao, hay chính trị quốc tế/quốc
nội.
1. Đạo
nghĩa chỉ việc chính trị, ngoại giao, và lòng dân (nhân hòa).
2. Thiên thời, chính nghĩa tất thắng.
Thời bây giờ, ý dân là ý trời.
3. Địa lợi của đất nước, kể cả kinh tế,
tài chánh tài nguyên, và nhân lực.
4. Tướng sĩ chỉ về tài trí, uy tín,
lòng nhân ái, lòng can đảm, tiên kiến của người lãnh đạo.
5. Pháp chỉ về pháp luật, lãnh đạo, chỉ
huy, trật tự xã hội, tổ chức hành chánh để cai trị dân quân.
6. Chiêu hiền đãi sĩ, huấn luyện nhân
tài, đào tạo chuyên viên, công dân giáo dục.
Cộng thêm
những điều chi tiết phụ thuộc sau đây để mà chỉ huy, tiên liệu,
kế hoạch, sửa soạn, tính toán, so sánh, thực hành những điều kiện
đôi bên giữa địch, bạn, và ta để tìm hiểu tình thế thắng bại
trong chiến tranh cũng như tranh đua trong thời bình.
Tức là phải xem xét:
1. Lãnh đạo bên nào có nền chính trị
được lòng dân hơn?
2. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa bên
nào tốt lợi hơn?
3. Đạo nghĩa, trật tự xã hội, phong tục
tập quán, công dân giáo dục, kỷ luật, và dân trí bên nào được
quán triệt, và văn minh hơn?
4. Thực lực kinh tế, tài chánh, tài
nguyên, nhân lực, kỹ nghệ, quân đội bên nào mạnh hơn?
5. Tướng sĩ bên nào có tài năng, và
kinh nghiệm chiến trường hơn?
6. Binh sĩ bên nào được huấn luyện
thành thục, và thiện chiến hơn?
7. Pháp lệnh, luật lệ, thưởng phạt bên
nào nghiêm minh hơn?
Người lãnh đạo tài năng, đại hùng đại
lược, có tiên kiến muốn phục vụ quốc gia, dân tộc phải biết căn
cứ vào những điều trên, để có thể tính toán mà biết trước lợi
hại, thắng bại trên chiến trường quân sự, kinh tế, thương mãi,
chính trị... Rồi thì biết ngoại giao, liên kết với các nước bạn
cũng như thuyết phục được nước/kẻ đối nghịch trên chính trường
quốc nội/quốc tế. Biết dựa theo thế lực của liệt cường trên thế
giới để cùng thỏa mãn quyền lợi chung. Biết dùng người tài trí,
học thức, biết tiên liệu, có mưu kế, để cai trị, ngoại giao, và
chỉ huy tác chiến thì khi chiến tranh có thể thắng lợi, và đất
nước mới hùng cường, an ninh, và thịnh vượng. Nếu không chịu
chiêu hiền đãi sĩ, chỉ dùng phường xu nịnh, giá áo túi cơm, hèn
nhát, ngu dốt, gian ác, tham nhũng để cai trị dân, hay chỉ huy
tác chiến, khi hữu sự tất nhiên sẽ bị thất bại nặng nề. Thậm chí
phá sản, nước mất, nhà tan, dân tộc yếu hèn, luân lý, giáo dục
suy đồi, dân trí thấp kém qua nhiều thế hệ, khó mà ngóc đầu lên
được.
Người
lãnh đạo, ngoài việc biết áp dụng kế sách có lợi, còn phải tìm
cách tạo ra tình thế có lợi để làm điều kiện phụ trợ bên ngoài
cho việc tiến hành của tập thể.
Kẻ lãnh đạo giỏi phải biết dùng Thế,
tức là căn cứ vào tình huống phải chăng có lợi để mà có hành động
tương ứng. Trên chính trường, thương trường, cũng như trong chiến
tranh dùng binh đánh giặc, hay cạnh tranh, “đôi khi” [không phải
luôn luôn] phải hành động bất ngờ, dối trá, và lừa bịp đó là
“Binh giả, quỷ đạo giã” của các vị trí mưu, danh tướng. Chộp lấy
cơ hội, tấn công kẻ thù lúc chúng không phòng bị, hành động khi
chúng không ngờ tới (nguyên tác “Công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý”).
Tất cả những điều nói trên đều là sự khôn khéo để thủ thắng của
nhà quân sự anh hùng cũng như của kẻ mưu sĩ thao lược. Tuy nhiên,
kẻ biết quyền biến không quy định trước một cách máy móc, mà phải
biến thế, uyển chuyển, và linh động trong lúc thi hành, và dụng
nhân (như dụng mộc). Phàm trước khi khai chiến, biết tiên đoán,
kế hoạch tiến thủ, tính toán đầy đủ, và chính xác thì chắc sẽ
thắng lợi, hay cũng không thua. Chiêu thức “Vô Chiêu Thắng Hữu
Chiêu” có thể là cái Thế cao siêu, thâm diệu nhất. Tuy nhiên
không có mấy người biết dùng hữu hiệu để thành công. Cho nên
chiêu “Độc Cô Cửu Kiếm” ở trên có phần hữu lý, dễ thực hành hơn.
Tóm lại, nói thì dễ, nhưng muốn làm
được những điều trên bậc lãnh đạo, người mưu sĩ, kẻ chỉ huy cùng
quốc dân phải có một tinh thần kỷ luật cao độ, chấp nhận hy sinh,
lòng dũng cãm vô biên, đoàn kết tin tưởng, cùng đồng tâm ý, ủng
hộ của dân tộc, tạo thành cái khí thế quyết chiến của quân dân.
Lê Huy Trứ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by lê huy trứ chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy October 12,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang