Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
Ghi
Chủ đề:
chiến trận an lộc
Tác giả:
Phạm Phong Dinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
(Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Bão Lửa – Tri Ân những Người Lính QLVNCH)
Ngày
07/7/1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đáp xuống An Lộc tuyên
dương công trạng và đặc cách thăng cấp tất cả chiến sĩ tử thủ An
Lộc sau gần ba tháng ác chiến với bốn sư đoàn cộng quân 5, 7, 9,
và Bình Long. Trong lúc tình hình mặt trận vẫn còn rất ngột ngạt,
tuy rằng các sư đoàn địch đã lùi ra xa, nhưng không có gì bảo đảm
rằng sự hiện diện của vị Tổng Tư Lệnh là không nguy hiểm cho
chính bản thân ông. Tổng thống Thiệu được đích thân Chuẩn tướng
Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh lái xe Jeep chở đi một
vòng thành phố để quan sát những đổ vỡ của chiến tranh. Tổng
thống Thiệu đã cảm khái đứng lặng thinh bên những nấm mộ chôn vội
của Tử sĩ và người dân An Lộc. Chiếc xe Jeep phải chạy ngang khu
bến xe An Lộc để ông có thể ngậm ngùi trông thấy được một cái
nghĩa trang nhỏ, đơn sơ nhưng rất tươm tất, nơi an táng hình hài
của 68 anh hùng 81 Biệt Cách Dù, mà đã được đồng đội còn sống lập
nên thành.
Chiến thắng An Lộc mang một kích thước quá lớn, không còn của
riêng dân tộc Việt Nam đánh bại đạo quân tiền phong của khối cộng
sản quốc tế là binh đội Bắc Việt, mà nó còn là một biểu tượng của
thế giới tự do đánh thắng chủ nghĩa cộng sản, là khúc dạo đầu báo
hiệu sự hủy diệt cái chủ nghĩa quái thai đó 17 năm sau: Cuộc sụp
đổ năm 1989 của Liên Sô và khối cộng sản Đông Âu. Tổng thống
Thiệu đã trân trọng trao tặng quân dân tử thủ ở cái thành phố nhỏ
bé mà cang cường này một mỹ danh mà sẽ vĩnh viễn đi vào những
trang sử dân tộc và cả quân sử thế giới:
“BÌNH LONG ANH DŨNG – AN LỘC ANH DŨNG.”
Vị Tổng thống đã vui vẻ gọi về cho phu
nhân của mình, giọng hân hoan của ông có thể được nghe rộng khắp
đất nước từ hàng triệu chiếc máy thu thanh:
– Bà đừng chờ cơm tôi. Tôi ở đây ăn cơm
với anh em chiến sĩ An Lộc.
Người cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã
tươi cười đứng giữa những chiến hữu của ông chụp nhiều bức hình,
mà ngày hôm sau đã nằm ở trang đầu của những tờ báo Thủ Đô Sài
Gòn và cả trên các báo khắp thế giới. Đó há chẳng phải là một
vinh dự cực lớn mà quân dân Bình Long Anh Dũng đã xứng đáng nhận
được từ chính máu xương của mình. Há chẳng phải đó là một thách
thức ngạo nghễ đối với lũ âm binh què quặt của bốn sư đoàn cộng
quân đang lẩn trốn đâu đó trong những cánh rừng già Miền Đông và
bên kia biên giới. Há chẳng phải là một cú đấm ngàn cân của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa vào giữa mặt cái khối gọi là “các nước xã
hội chủ nghĩa anh em”. Há chẳng phải đó mà một xác nhận cuộc
chiến bại nhục nhã mà tướng tá Hà Nội dù có lật lọng đến đâu cũng
phải cúi đầu câm nín hay sao.
Chiếc trực thăng phành phạch đập cánh
quạt đưa Tổng thống Thiệu và phái đoàn hùng hậu quan khách Sài
Gòn ra thăm viếng đã xa dần. Nhưng đối với quân dân An Lộc, cuộc
chiến đấu vẫn còn rất gian nan ở phía trước. Cộng quân đâu đã cam
chịu chiến bại, các đơn vị của chúng vẫn còn lẩn quẩn bên ngoài
An Lộc dội pháo quấy phá ngày đêm. Ngày 22/6/1972, các đơn vị
tiền phong của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã nhảy xuống thay thế nhiệm vụ
trấn thủ An Lộc cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Các đơn vị Sư Đoàn 5 Bộ
Binh lục tục được không vận về Căn Cứ Lai Khê, trong khi các đơn
vị của Sư Đoàn 18 tiếp tục đổ vào thành phố. Vẫn còn một khối
lượng công tác chiến đấu ngổn ngang đang chờ đón đoàn tinh binh
tràn đầy nhuệ khí này. Đồi Gió, Đồi 169, phi trường Quản Lợi vẫn
còn đang nằm trong tay quân giặc. Chuẩn tướng Lê Minh Đảo và
chiến sĩ Nỏ Thần Miền Đông của ông sẽ rất bận rộn trong những
ngày hành quân trước mặt. Nhưng dù thế nào mặc lòng, buổi chào cờ
sáng và thượng Quốc Kỳ mỗi thứ Hai luôn được Chuẩn tướng Đảo cho
cử hành trang trọng, bất chấp địch đang pháo hay không pháo.
Trong những ngày ngột ngạt đó, phóng
viên chiến trường Lưu Văn Giỏi nhận lệnh của Bộ Tư Lệnh Không
Quân Việt Nam Cộng Hòa nhảy xuống An Lộc để ghi nhận những đổ nát
của chiến tranh, những hoạt động âm thầm của những người lính bay
Không Quân và người lính Bộ Binh, cùng quân dân An Lộc đã chiến
đấu anh dũng như thế nào, đang, và sẽ chiến đấu ra sao, cùng
những mất mát não lòng. Anh Lưu Văn Giỏi từng là Chủ Tịch Hội Cựu
Quân Nhân QLVNCH Toronto, Canada nhiều nhiệm kỳ. Anh đã về hưu từ
lâu và vui thú điền viên. Nhưng những thiên bút ký chiến trường
ngày xưa của anh và những đóng góp của anh trong công cuộc đấu
tranh chống cộng, và tôn vinh Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa cùng Những
Người Lính QLVNCH vẫn luôn ghi khắc sâu trong lòng mỗi chúng ta.
Bài viết Trên Vùng Trời Đất Nước của anh đã nhận được Giải Ba
Cuộc Thi Phóng Sự Chiến Trường Năm 1973 của Cục Chính Huấn:
Tại Sư Đoàn 2 Không Quân, tôi nhận một
công điện từ Bộ Tư Lệnh Không Quân gọi về trình diện gấp, vì nhu
cầu công vụ, thời gian công tác và ngày về sẽ cho đơn vị biết
sau. Một chiếc phản lực A37 đi công tác đưa tôi từ Nha Trang vào
Sài Gòn. Tại Parking vãng lai, tôi thót lên “Honda ôm” trực chỉ
Bộ Tư Lệnh Không Quân. Và nửa giờ sau tại đây tội nhận một sự vụ
lệnh khác, thời gian và nơi đến là 8 ngày tại An Lộc. Tờ mờ sáng
hôm sau, tôi có mặt trên bãi đậu trực thăng của Sư Đoàn 3 Không
Quân để đi Lai Khê. Lần đi này ngoài hợp đoàn 18 chiếc trực thăng
võ trang UH, còn có 6 chiếc CH–47 (loại trực thăng khổng lồ tải
hàng).
30 phút
ở Lai Khê
Phi
trường Lai Khê là một phi trường nhỏ được dùng làm Bộ Chỉ Huy
Tiền Phương, tất cả trực thăng yểm trợ cho An Lộc đều đặt ở đây
để tiện đường cho quân bạn tải quân, tải hàng đến, và nhất là để
thu ngắn đường chim bay đến An Lộc. Tại đây, dưới những gốc cao
su già có những hàng cơm, hàng nước kiểu dã chiến, vài hoa tiêu
mắc võng nằm nhai bánh mì chờ... thời tiết.
Tôi gặp Đại úy Đào Vũ Anh Hùng, nhà
văn kiêm hoa tiêu trực thăng. Thấy tôi, Hùng hỏi:
– Đi làm hay đi chơi?
Câu hỏi ngắn và tôi cũng trả lời gọn:
– Đi làm.
Hùng moi trong túi áo bay ra một gói
xôi bắp đã bẹp:
– Ăn không?
Tôi lắc đầu vỗ nhẹ tay lên bụng, trong
khi anh nhìn tôi từ đầu đến chân:
– Vào Điện Biên Phủ thứ hai mà cứ y như
là đi du lịch vậy? Không có áo giáp, nón sắt thì phòng không và
pháo kích nó không chê bạn đâu.
Hùng chỉ chiếc máy ảnh tôi đang mang
trước ngực:
–
Phải có thêm một nón sắt nhỏ cho ống kính mới an toàn, nếu không
thì bạn có nhiều triển vọng thất nghiệp đấy!
– Kỳ trước có một ông bạn Báo Chí lên
An Lộc, khi ông ta vừa đưa máy lên ngắm thì một viên AK đã ưu ái
chui vào nằm gọn trong ống kính. Cũng may là tầm đạn đã yếu nên
không bị chột.
Có nhìn thấy cái cảnh phi công Việt Nam
treo võng nằm tòn teng dưới những gốc cao su gặm bánh mì, cạp
xôi bắp chờ phi vụ ta mới thấy thương họ. Nghỉ ngơi và ăn uống
như thế mà bay như điên, bay bất kể giờ giấc và thời tiết. Có khi
vừa đáp, chưa kịp nghỉ ngơi mà thấy có tên trong Phi Vụ Lệnh là
lại xách nón đi bay. Cứ sáng vác tàu đi, tối vác về... Có người
đi rồi không bao giờ trở lại. Cũng có người về mà trên thân tàu
lỗ chỗ đầy dấu đạn phòng không. Cũng có người khi đã đáp an toàn
trên bãi đậu rồi mới biết người xạ thủ phi hành của mình đã gục
đầu trên cây đại liên mà chết tự lúc nào. Cũng có khi người hoa
tiêu chánh bị phòng không ngồi chết ngay ngắn trong ghế lái trong
“tư thế còn sống”, cái chết thật đẹp như cái chết của một Từ Hải
mà người hoa tiêu phụ vẫn cố cắn răng để nước mắt mình lăn dài
xuống má, tiếp tục bay thi hành cho xong sứ mạng đã, rồi mới về.
Cũng có người phải bỏ tàu giữa rừng để về bằng một tàu khác, hoặc
băng rừng lội suối, rồi năm bảy ngày sau mới về với một thể xác
đói khát và đầy thương tích. Ta có thể so sánh những tiện nghi
cùng số giờ bay, và thành tích chiến đấu một trời một vực giữa
phi công Hoa Kỳ và phi công Giao Chỉ như sau:
Pilot Hoa Kỳ không biết mắc võng ở gốc
cây nằm gặm bánh mì chờ phi vụ như pilot An Nam ta. Hồi tháng
4/1972, ở mặt trận Tây Nguyên, tại Bộ Chỉ Huy của tiền đồn Tân
Cảnh, tôi đã thấy một đại úy phi công Hoa Kỳ trong bữa cơm. Ông
ta đã ăn gần nửa ký thịt với bơ, sữa, hột gà, táo, nho, rồi mới
bước lên chiếc trực thăng võ trang Cobra mà cất cánh, trong khi
hoa tiêu Giao Chỉ cũng trước một phi vụ nhưng chỉ... “thổi hết
một cái kèn bằng bột”, rồi ngửa cổ ừng ực nước lã trong bi đông,
xong... cuốn võng leo lên ghế lái, bay vù vù, bay như điên. Về số
giờ bay và thành tích, ta có thể so sánh thật thà như sau:
“Chiến trận Hạ Lào chính thức khai diễn
ngày 08/02/1971, trong 29 ngày đầu tại đây, người Mỹ có số giờ
bay cao nhất là một thiếu tá, 80 giờ. Trong khi đó, phi công có
số giờ bay cao nhất là Trung úy Dương Đức Ngọc, thuộc Không Đoàn
62 Chiến thuật, Sư Đoàn 2 Không Quân, 168 giờ. Người Mỹ đánh
nhiều chiến xa nhất, một trung úy phi công phản lực, 3 chiếc.
Trong khi đó Trung úy Dương Đức Ngọc đánh 17 chiếc T54. Số giờ
bay và thành tích đó đã làm vẻ vang về tinh thần chiến đấu của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bên cạnh quân đội đồng minh tại Hạ
Lào. Trong trận này, Ngọc cũng là người lãnh đạn phòng không
nhiều nhất. Một lần phi cơ anh đứng một chong chóng, phải đáp ở
Đà Nẵng lúc 23:30g, 3 lần khác bị gãy cánh trái và cánh đuôi,
nhưng lúc bấy giờ thời tiết ở Việt Nam không cho phép, nên anh
phải dẫn tàu qua Thái Lan đáp trên phi trường Nakhom – Phakhom.
Sự so sánh thật thà trên đã là một chứng minh cụ thể cho ta thấy
tinh thần chiến đấu cao độ của người lính Việt Nam trên đất nước
nghèo nàn này.”
Đồng hồ tay chỉ 7:45g, trời vẫn còn
xấu. Các hoa tiêu có vẻ sốt ruột, họ tụm năm tụm ba ngồi đấu láo
với nhau, nói chuyện thời tiết, nói chuyện phi vụ hôm qua, chuyện
hào hoa, lả lướt đêm rồi, và bàn với nhau cho phi vụ sắp tới. Một
nhân viên của toán Điều Không đến nói với Hùng:
– Cứ cất cánh, vì An Lộc đang chờ.
Tôi đứng dậy nhưng không đi với Hùng,
vì anh bay tàu C and C (Hướng dẫn C and C = Command and Control
và chỉ huy, không đáp). Tôi theo chân một hoa tiêu ra chiếc võ
trang đậu ngoài bãi. Tại đây, lương thực, vũ khí, đạn dược, và
chiến sĩ đổ bộ đã chờ sẵn. Tôi đi chiếc tàu tải đạn. Mười phút
sau tất cả những chiếc trực thăng tại đây đã bốc khỏi mặt đất
và... trực chỉ An Lộc. Trên đường từ Lai Khê đến An Lộc trần mây
thật thấp, sương mù còn thật mù, họ phải để đèn báo hiệu cho khỏi
đụng nhau trên trời. Ngồi trên trực thăng nhìn chung quanh những
chiếc võ trang đang lù lù bay theo, tôi có cảm tưởng như đây là
một đàn ong khổng lồ bị vỡ tổ và đang di dân. Sau vài phút bay,
đến một nơi quang đãng hơn, dưới mắt tôi ruộng đồng xơ xác, những
hàng tre cháy sém, những hố đạn, hố bom cày nát trên ruộng đất bỏ
hoang...
Nhảy
xuống An Lộc
Người xạ thủ phi hành ghé vào tai tôi:
– Anh có xuống không?
Tôi gật đầu. Anh ta lại nhìn tôi với vẻ
ái ngại như thầm hỏi tôi sao không có áo giáp và nón sắt,
nhưng... tôi lờ đi. Bỗng anh khom lưng chỉa mũi minigun xuống đất
bấm cò. Những hồi đạn rú dài như... bò rống. Tôi thấy... nhức tim
khi những vệt lửa từ dưới xẹt lên quanh phi cơ. Xung quanh tôi,
năm chiến sĩ bộ binh thuộc Sư Đoàn 18 cũng... lên đạn. Tôi cũng
nhét vội băng đạn vào khẩu Colt của mình cho vững bụng. Đang bay,
tàu bỗng xà xuống đột ngột rồi bất ngờ đáp vội trên Quốc Lộ 13,
“càng” chưa chạm đất, mấy quả đạn pháo kích đã ào ào bay tới rớt
quanh đó làm gãy mấy cây cao su. Tôi nhảy vội theo năm chiến sĩ
rời thân tàu và lăn tròn qua mặt lộ nằm gọn dưới một hố bom.
Chúng tôi chưa kịp xô hàng xuống, thì tàu đã bốc vội lên cao bay
mất hút, một trái đạn khác rớt ngay chỗ phi cơ vừa đáp làm banh
xác cái ba lô vô tội của một chiến sĩ vừa quăng xuống. Mấy bịch
gạo xấy tung tóe trắng mặt đường. Tôi nằm dưới hố bom mà thầm
nghĩ: “Người Mỹ đã dạy cho người Việt biết đánh giặc bằng trực
thăng, nhưng còn lâu sự khôn lanh của họ mới bằng sự nhanh nhẹn
của người Việt Nam và... có lẽ chừng nào người Mỹ biết ăn trầu,
thì họ mới có đủ được kinh nghiệm của chiến trường Việt Nam. Vì
nếu lơ mơ không bốc lên kịp, thì chiếc trực thăng kia với một núi
đạn 81ly trong đó sẽ lãnh đủ trái đạn pháo vừa rồi.”
Tôi nhìn theo chiếc trực thăng đã mất
hút ở cuối bìa rừng cao su, như hiểu ý, một người nằm gần nói với
tôi:
– Cứ nằm
đây chờ, chút nữa hết pháo họ sẽ đến.
Tôi hỏi lại:
– Nhỡ đến mà nó pháo nữa thì sao?
Anh ta thản nhiên:
– Trúng thì rớt, không trúng thì bay
đi.
Sau câu
nói này, tôi nhớ lại cái chết của Thiếu tá Nguyễn Hữu Nhàn thuộc
Phi Đoàn CH–47 của Sư Đoàn 3 Không Quân trước đây một tuần tại
mặt trận An Lộc. Trong một phi vụ tiếp tế, tàu của Nhàn bị trúng
phòng không, bạn bè bay theo bảo anh rời vòng chiến ngay và đáp
ép buộc chờ trực thăng võ trang cứu. Nhưng anh đã trả lời:
– Biết rồi, để thả hết hàng cho họ đã.
Họ bị thiếu tiếp tế từ mấy ngày nay, không lẽ mình vượt bao nhiêu
màn lưới phòng không mới vào được đây, mà bây giờ lại ra sao?
Anh chỉ trả lời như thế rồi tiếp tục
vào vòng yểm trợ. Khi số hàng còn lại trên tàu vừa thả được xong,
thì cũng là lúc chiếc CH–47 anh đã nằm gọn trong màn lưới phòng
không. Thiếu tá Mai là bạn của anh bay gần đó đã nghe được những
lời cuối cùng của anh qua hệ thống vô tuyến: “Hàng thả hết rồi,
nhưng tất cả hệ thống điều khiển trong phòng lái đã ngưng hoạt
động. Bây giờ tao đáp ép buộc đây, tụi mày hãy theo tao cover
thật kỹ và pick–up thật nhanh...”. Nhưng không còn kịp nữa, anh
vừa nói xong thì chiếc trực thăng đã như một bó đuốc khổng lồ từ
trời cao rơi xuống nổ tung trên mặt đất, và anh đã chết theo
tàu... Tôi và các chiến sĩ vẫn nằm trốn đạn và chờ trực thăng
đến. Quanh đó, vài chiến xa T54 nằm chỏng trơ, vài chiếc khác nằm
chúi đầu xuống những hố bom, phía sau tôi là rừng cao su trùng
điệp. Trong phút chốc tàu bốc vội lên mây, mất hút ở cuối một
khúc quanh của con lộ 13. Vài tràng đạn AK đuổi theo, mấy quả đạn
pháo kích khác rớt quanh đó như xé gió phá rừng, những thân cây
lại thi nhau gãy rôm rốp. Mấy thùng đạn vừa được đem xuống vẫn
còn nằm trên quốc lộ. Một anh kéo tôi đi nơi khác:
– Hãy tránh xa đống đạn này, đạn pháo
kích mà nó rớt vào đây thì... bỏ bu.
Từ hướng Xa Cam, một đoàn người gồng
gánh, bồng bế nhau chạy loạn về hướng chúng tôi. Tức thì mấy quả
đạn pháo kích được câu đến từ Đồi Gió rớt vào giữa đám dân chạy
loạn này, gây vô số người chết, vô số người bị thương. Có những
người bị thương cách đây vài giờ lại bị thương nữa. Có những
người sắp chết, muốn được chết cho rảnh tay người thân chạy nạn,
thì bây giờ được chết. Trong số những người chết này, một cảnh
tượng thật thương tâm đã xảy ra ngay trên bìa rừng cao su An Lộc.
Một người mẹ bồng đứa con khoảng sáu tháng bị mảnh pháo phá vỡ
khuôn ngực và bà ngã ra chết liền tại chỗ. Đứa nhỏ không chết,
cũng không bị thương, nó bò trên bụng mẹ khóc thét lên trong sự
hãi hùng. Khóc mệt, nó lại gục đầu vào ngực mẹ nó mà bú. Một
người khác cũng dân chạy loạn đến bế nó ra, thì mặt mũi của đứa
bé bê bết máu của mẹ nó và trong mồm nó cũng có máu, mà có lẽ nó
tưởng đó là chất sữa nên đã hút vào. Một lúc sau đứa bé cũng chết
luôn trên tay người bế nó.
Một cảnh tượng khác mà tôi cũng không
làm sao quên được. Một đứa bé gái khoảng 13 tuổi mù hai mắt, gầy
yếu xanh xao, cõng thằng anh nó khoảng 15 tuổi trên lưng, bị cụt
một chân. Đứa nhỏ mù mắt cõng đứa lớn cụt chân. Đứa cụt chân ngồi
trên lưng đứa mù mắt để chỉ đường mà chạy trốn Việt cộng. Trong
xách tay tôi còn hai ổ bánh mì mua hồi sáng ở Lai Khê, tôi lấy
đưa cả cho anh em nó. Trước đây tôi đã được đọc những câu in trên
bích chương dán ở thành phố:
“... Pháo kích bừa bãi, giết hại dân
lành, nhà cháy người chết, thù hận này biết đến bao giờ mới nguôi
ngoai trong lòng người dân Việt...”.
Dạo đó tôi đã nghĩ rằng những câu này
chỉ là về phương diện chính trị thôi. Nghĩa là Việt cộng xuyên
tạc mình thì mình xuyên tạc lại. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu đó
là sự thật, một sự thật mà không thể đội trời chung với bọn người
dã man đó được, và tự nhiên trong lòng tôi thấy dâng lên những
thù hận ngút ngàn. Thật tình mà nói, trước khi bước vào An Lộc,
tôi đã thầm nghĩ:
“Mình chỉ chết khi bị trúng đạn, chứ
nếu đối diện gần thì trên ngực áo tôi có hai chữ Báo Chí ‘nó’
không giết đâu mà sợ, cao lắm thì chỉ bắt sống là cùng. Nhưng bây
giờ thì tôi không còn nghĩ như thế nữa. Trước mặt tôi, chung
quanh tôi, những người dân vô tội đang thương vong la liệt. Tôi
sờ tay vào hông, khẩu Colt vẫn cồm cộm. Tôi quyết định: ‘Nếu đêm
nay còn phải ở đây mà rủi gặp bọn chúng, thì dù thế nào tôi cũng
đẩy về hướng chúng 6 viên và còn lại là cho tôi, chứ nhất định
không để bị bắt sống.’ Nghĩ đến đây, hình ảnh vợ con tôi tại trại
gia binh lại hiện ra, tôi thấy nhói trong lòng.”
Từ xa có tiếng đập phần phật của trực
thăng, rồi trong phút chốc 8 chiếc lượn sát những ngọn cao su và
cũng bất thần đáp dài trên quốc lộ, trong khi đạn pháo kích của
Việt cộng tiếp tục rải dài theo hai bên bìa đường. Các chiến sĩ
đổ bộ thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh lẽ ra khi nhảy xuống thì họ di
tản, nhưng họ đã đến phụ khiêng xác chết và người bị thương lên
phi cơ xong mới đi. Tôi ngồi tựa lưng vào xích của một chiếc T54
bỏ hoang nhìn theo mấy chiếc trực thăng đang bốc vút về hướng Lai
Khê mà trong đó có gần 100 người dân vô tội vừa chết, vừa bị
thương, vừa kinh hoàng... Cộng sản Bắc Việt vừa sát hại xong dân
lành vô tội bằng công cụ giết người của chúng, thì Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa đến mang những người dân đó về nơi an toàn... Từ
hướng Chi Khu An Lộc, một chiếc Jeep mui trần chở gần 20 đồng bào
tiến về hướng bãi đáp trực thăng. Tôi quá giang chiếc Jeep này
vào Chi Khu và tại đây tôi được gặp Đại úy Lê Văn Vẫn, Chi Khu
Phó Chi Khu An Lộc. Đại úy Vẫn cho biết ông là người ở đây lâu
nhất (bốn đời Quận Trưởng đã thay phiên nhau) từ năm 1964. Và bây
giờ ông nhất định ở đây chiến đấu đến hơi thở cuối cùng chứ không
đi đâu hết. Ông kể tiếp:
– Ngày mặt trận An Lộc mở màn có 6
chiếc trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân đến đáp vào Chi Khu để
đưa gia đình của quân nhân tại đây rời An Lộc. Tôi chạy vào hầm
trú ẩn nói với vợ tôi: “Có trực thăng đến, em mau đưa các con về
Sài Gòn, ở đây nguy hiểm lắm. Khi nào êm, anh sẽ về đưa mẹ con em
lên. Nhưng vợ tôi nhứt định không chịu và trả lời: ‘Mẹ con em về
nơi an toàn, ở đây rủi anh chết thì mẹ con em sống với ai? Em xin
được ở lại đây cùng sống chết với anh’. Trong lúc đó vợ con của
anh em quân nhân tại đây đều đã nhất loạt trả lời như thế, nên
cuối cùng sáu chiếc trực thăng phải rời Chi Khu mà không có đàn
bà trẻ con nào theo...”
Sau câu nói của Đại úy Vẫn, tôi chợt
nhớ lại gương liệt nữ Phạm Thị Thàng cách đây đã lâu. Chị Thàng
là vợ của một chiến sĩ Nghĩa Quân. Chị và các con đều sống chung
trong công sự chiến đấu của chồng trong làng. Một đêm nọ Việt
cộng công đồn, chồng chị bị trúng đạn, chị thay chồng tung mấy
chục trái lựu đạn vào đám Việt cộng khi chúng tấn công bằng biển
người. Nhưng đến quả cuối cùng, bọn chúng quá gần nên chị đã chết
chung với thêm mấy tên Việt cộng nữa bằng quả lựu đạn đó. Bây giờ
vợ lính ở An Lộc cũng đã noi gương chị Thàng không chịu đi Sài
Gòn, ở lại tử thủ: sống chết với chồng con tại An Lộc. Đại úy
Vẫn tiếp:
–
Sáu chiếc trực thăng vừa bốc lên thì một chiếc bị trúng đạn và
rớt ngay bên ngoài vòng đai Chi Khu rồi bốc cháy. Chúng tôi nhìn
theo mà đã khóc lúc nào không hay. Anh em Không Quân đã vì sinh
mạng gia đình chúng tôi mà phải chết, tôi kính trọng và nhớ ơn
nghĩa cử của quý anh em đó lắm. Cuối cùng tôi quyết định cho một
trung đội mở đường máu ra cứu phi hành đoàn, nhưng cũng không
kịp. Khi trung đội trở vào thì... chỉ còn phân nửa quân số, bởi
lúc bấy giờ chiến xa Việt cộng quá nhiều. Rồi hai hôm sau, trại
gia binh của chúng tôi tại đây cũng bị pháo kích nặng, hơn tám
chục phần trăm gia đình của quân nhân chết và bị thương...
Gà trống nuôi con
Trong khi ngồi tiếp chuyện với tôi tại
một căn hầm dã chiến được đào sâu dưới mặt đất, trước mặt tôi là
Đại úy Vẫn, quanh đó khoảng năm, bảy chiến sĩ mà mỗi người đang
có vài em bé quấn quít bên cạnh. Đại úy Vẫn xoa đầu một bé gái
khoảng 4 tuổi:
– Tôi có năm đứa, bây giờ chỉ còn mình
nó, anh chị nó chết hết rồi, má nó cũng chết, ông nội bà nội, ông
ngoại bà ngoại nó cũng chết trong trận pháo kích đó...
Ông chỉ những đứa bé đang đứng cạnh mấy
chiến sĩ quanh ông:
– Đấy anh xem, bây giờ ở đây cái cảnh
gà trống nuôi con rất nhiều. Cha mẹ và vợ con chúng tôi đã vì
chúng tôi mà chết tại đây, nên chúng tôi đã thề tử thủ tại đây
đến hơi thở cuối cùng, dù có được đổi về Sài Gòn cũng không đi.
Nếu một ngày nào đó mà anh gặp lại một trong những khuôn mặt của
chúng tôi tại đây trên một địa danh an toàn nào đó không phải là
An Lộc mà lúc đó chúng tôi còn tại ngũ thì... anh có quyền giết
chúng tôi, nếu không phải là Lệnh hay Chỉ Thị cho chúng tôi rời
An Lộc. Hôm nay anh là người Báo Chí của Không Quân đầu tiên đến
đây, tôi xin được đại diện các chiến sĩ tử thủ An Lộc gửi đến anh
em Không Quân, nhất là những phi hành đoàn đã lái tàu bay vào Chi
Khu với ý định đưa vợ con chúng tôi đến nơi an toàn, những lời
thành thật muôn đời nhớ ơn của chúng tôi, mặc dù vợ con chúng tôi
không đi và... đã chết.
Những chiếc vòng tử thủ
Nói đến đây Đại úy Vẫn gỡ trong tay
của ông ta ra 3 chiếc vòng trao cho tôi:
– Tất cả những chiến sĩ tử thủ tại đây
mỗi người đều có mang ba chiếc vòng này và chúng tôi đã đặt tên
là... vòng AN LỘC TỬ THỦ. Nay tôi xin tặng anh để làm kỷ niệm...
Anh là người thứ hai, sau Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa mà chúng
tôi tặng ba vòng này.
Một thiếu úy ngồi gần đó nhìn Đại úy
Vẫn rồi nói với tôi:
– Anh có viết bài thì nhớ nói là thiếu
tá, vì ổng lên lon gần hai tháng nay, nhưng từ đó đến nay ở đây
không ai bán “lon” mà mua nên... ông Vẫn “vẫn” mang “lon cũ”.
Tôi nhìn Đại úy Vẫn như thầm hỏi lại:
“Có đúng thế không?”. Thiếu tá Vẫn gật đầu:
– Đúng vậy.
68 Ngày tử thủ An Lộc không lãnh lương.
Cũng tại đây, tôi gặp một chiến sĩ còn
rất trẻ, anh ta tâm sự với tôi như sau:
– Em là Binh Nhất Lê Nhâm Thình, quân
nhân Không Quân, thuộc Sư Đoàn 2 Không Quân tại Phù Cát, kỹ thuật
phi cơ loại C–7A. Về phép thăm nhà hôm 28/3/1972 rồi bị kẹt lại
đây đến bây giờ. Trọn gia đình em bị pháo kích chết hết rồi, chỉ
còn lại một người anh đang tại ngũ tại An Lộc này thôi. Đã nhiều
lần em muốn ra đón tàu để về lại với Không Quân, nhưng còn ngại
sẽ bị rắc rối về an ninh nên chưa dám. Tính đến nay là 68 ngày,
trong suốt thời gian này tại đây em đã chiến đấu như một chiến sĩ
Bộ Binh thật sự, nhưng chỉ ăn nhờ cơm gạo sấy của anh em ở đây
thôi chứ không có lãnh lương. Em có lấy được một AK của tên Việt
cộng mà em đã bắn chết nó. Hôm nào về Sài Gòn, nhờ anh trình lên
Bộ Tư Lệnh Không Quân, nếu không bị rắc rối, anh viết thư về đây,
KBC 6995, lúc đó em sẽ bằng đủ mọi cách về trình diện đơn vị...
Buổi chiều, tôi có dịp vào thị trấn An
Lộc. Phố xá thật tiêu điều, những căn nhà không người trơ vách,
những tuyến kẽm gai quanh Chi Khu cháy cong queo. Đó đây một vài
xác trực thăng cháy sụm, những chiến xa đứt xích nằm chỏng chơ
như quái vật không đầu, vài chiếc khác chúi mũi xuống những hố
bom, một chiếc dù màu trắng đỏ phất phơ theo chiều gió trên ngọn
cao su. Những chiếc dù tải hàng còn vương vãi theo hai bên quốc
lộ, trên mặt con lộ 13 những hố đạn, hố bom sâu hoắm. Những vỏ
đạn đủ cỡ, đủ loại nằm ngổn ngang, những thân cây cao su cháy
đen ngã gục. Trong vòng đai Chi Khu, một bức tường dầy và cao lỗ
chỗ đầy vết đạn lớn nhỏ mà phía trên còn đọc được ba chữ “QUẬN
AN LỘC”. Gần đó, một vách tường khác có dấu hồng thập tự với ba
chữ “TRẠM CỨU THƯƠNG”, phía sau là một trường tiểu học bị tróc
nóc. Xa hơn một chút là trại gia binh An Lộc cũng đã điêu tàn.
Bước ra phía ngoài, một xe Honda bốn bánh nằm lật ngang, bên hông
có cẩn thận ghi hai chữ thật lớn “XE NHÀ” bằng sơn màu trắng
và... một chữ “BINH” viết bằng đất đỏ An Lộc. Tôi thầm cười, trạm
cứu thương, trại gia binh, nhà thờ, chùa chiền, và đàn bà trẻ thơ
vô tội còn phải lãnh đạn pháo kích của “quân giải phóng”, thì...
“Xe Nhà Binh” sức mấy mà thoát khỏi, sao không đề là... “XE CỦA
QUÂN GIẢI PHÓNG”. Tôi đâm ra phục lối chơi chữ hay hay của người
nào đó đã viết thêm chữ “BINH” sau hai chữ “XE NHÀ” này.
Châu chấu đá voi
Cách cổng vào Chi Khu An Lộc khoảng hai
cây số, một chiếc xe cần cẩu của tư nhân màu vàng nằm chắn ngang
một nửa mặt con lộ 13, một chiếc khác nằm trơ bánh lên trời dưới
mé lộ. Được biết, trong những ngày đầu sôi động của An Lộc, khổ
chủ hai chiếc xe trên đã tình nguyện đem ra cho “đâu đít lại với
nhau” nằm chắn ngang lộ, với ý định không cho chiến xa của Việt
cộng vào thị trấn An Lộc thân yêu của họ. Vì họ đã nghĩ rằng, một
khi mà chiến xa của Việt cộng vào được trong thị trấn thì dù cho
xe cần cẩu của họ có để trong nhà cũng không còn. Nhưng... kết
quả T54 của Việt cộng là voi, mà xe cần cẩu của họ là châu chấu!
Thoát chết nhờ lối tuyên truyền láo của
Việt cộng
Gần
vòng đai Chi Khu vài chục thước, mấy chiếc T54 nằm quay đầu ra
bất động. Hỏi, thì một chiến sĩ cho biết như sau:
– Dạo đó, khi An Lộc bị thất thủ, hàng
chục chiến xa Việt Cộng đã phây phây đi vào và các tay xạ thủ
cũng đã phây phây ngồi hẳn phía trên xe. Chúng tôi lúc đó chỉ còn
hơn đại đội, nấp dưới những hầm hố, không dám bắn trước. Nhưng
chúng tôi lấy làm lạ, không hiểu tại sao những chiến xa này không
khai hỏa mà chỉ vào đậu đó, xong chạy vòng vòng, thật chậm như có
ý tìm kiếm rồi quay ra và... khi chúng quay đầu xe ra, bọn tôi
xách M72 chạy theo hạ hết. Thứ này mà bắn vào đứt xích là nằm
liền. Các trưởng xa và xạ thủ thoát khỏi xe cũng bị chúng tôi hạ
luôn, có vài tên bị chúng tôi bắt làm tù binh và chúng cho biết:
Sở dĩ khi chúng đưa xe vào tận đây mà không khai hỏa, vì trước
khi vào đây, cấp chỉ huy đã cho chúng biết, hiện An Lộc hoàn toàn
do quân giải phóng kiểm soát và... làm chủ tình hình, nên chúng
vào và cứ tự nhiên ngồi trên nóc xe như “người quân nhân trở về
đơn vị” và chạy vòng vòng là có ý đi tìm “đồng chí”. Đến khi tìm
mà không gặp được đồng chí nào hết nên mới lững lững quay ra, và
khi quay ra thì mỗi chiếc bị lãnh vài viên M72 từ mặt hậu rồi đứt
xích luôn không thể quay đầu lại. Bởi thế mà anh thấy những chiến
xa quanh vòng đai này phần đông đều quay đầu ra. Còn những chiếc
khác xa xa thì lại quay đầu vào, những chiếc này hầu hết là lãnh
bom và rocket từ phi cơ.
Nghe xong câu chuyện, tôi thầm nghĩ:
“Bọn cộng sản Bắc Việt ngoài lối thí quân, nướng quân bằng những
cuộc tấn công biển người ồ ạt của chúng, mặc cho hỏa lực khủng
khiếp từ phi cơ ta ‘làm cỏ’, nay chúng có thêm một lối ‘nướng
quân’ bằng cách tuyên truyền láo với quân sĩ thuộc quyền. Bởi nếu
chúng không nói láo với quân sĩ của chúng thì anh lính này đâu
còn sống đến ngày nay để kể lại giai thoại ‘chiến xa Việt cộng
phây phây’ vào sào huyệt ta đi tìm ‘đồng chí’, để rồi khi quay
đầu ra vừa khỏi vòng đai, thì... nằm đây luôn đến bây giờ. Trong
lúc vui miệng anh lại kể cho tôi nghe thêm một vài chuyện khó
tin, nhưng tại đây lại... có thật.”
Trong thời gian tử thủ bệnh táo bón rất
quý
Có những
lúc bên ngoài nó pháo rát quá, hầm trú ẩn thì nhỏ, mà anh em lại
quá đông, đôi khi muốn đi cầu lại ngại lãnh đạn, nên chúng tôi
cứ... “cố nín, cố nín”. Đến khi không thể nín được mà bên ngoài
vẫn còn pháo, thì dùng... lớp trong của nón sắt làm cái “bô”.
Xong, đứng ở miệng hầm liệng ra ngoài. Có người chỉ mới hai ngày
đã liệng luôn cả hai lớp của nón sắt, nên ở đây mà trong thời
gian đó ai có được cái bệnh táo bón là quý như vàng, thảnh thơi
lắm. Mà tóm lại trong thời gian đó, người nào có táo bón mấy đi
nữa thì cũng phải có một lần “liệng nón sắt”.
Một giai thoại khác: “TẮM BẰNG MỒ HÔI”,
vì tại đây nước rất quý, quý hơn vàng, có khi phải dùng đến nước
tiểu để làm “nở cơm sấy” khi ăn. Có nhiều người chịu không nổi
phải bịt cả hai lỗ mũi, nhai sơ rồi nuốt vội như cố “tống cơm
vào bao tử” cho xong để có sức mà... tử thủ nhưng không dám ăn
nhiều, vì nếu ăn nhiều thì trời sẽ không cho được cái bệnh táo
bón. Bởi nước quý như vàng, nên trong thời gian đó lúc nào thấy
êm, ai muốn tắm thì cứ cử tạ bằng cách bưng một thùng đạn nặng
trịch đưa lên, đưa xuống cho đổ mồ hôi. Xong cởi ngay quần áo
ra... ung dung ngồi kỳ đất trên da nở ra và rất dễ... “TẮM BẰNG
MỒ HÔI”.
Phạm Phong Dinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, December 12,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang