Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn Mưa
Chủ đề:
Mưa Ngâu
Tác giả:
La Thụy
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Hôm nọ, anh em khi
trà dư tửu hậu có người thắc mắc vì sao gọi là “mưa ngâu”, vì sao
gọi là gọi là “ông ngâu bà ngâu”. Tất nhiên, truyền thuyết Ngưu
Lang–Chức Nữ được đưa ra để giải thích. Người thắc mắc lại hỏi
vậy sao không gọi là “mưa ngưu”, “ông ngưu bà ngưu”. Một ông bạn
cho rằng “ngâu” là cách đọc chệch chữ Ngưu. Thế là một ông bạn
khác cười chế nhạo: “mưa ngưu” là “mưa trâu” “ông ngưu bà ngưu”
là “ông trâu bà trâu” à!?! Vì sao có sự đọc chệch như thế? Mà vì
sao không đọc chệch theo cách khác đi?
Ông bạn khác lại
cho rằng: Gọi là “mưa ngâu”, “ông Ngâu bà Ngâu” vì loài hoa ngâu
gắn liền với câu chuyện tình Ngưu Lang–Chức Nữ từ xa xưa. Hoa
ngâu mang ý nghĩa về một tình yêu thủy chung, với khát vọng tự do
trong tình yêu. Nhưng ông bạn lại không nêu được sự liên quan
giữa Ngưu Lang–Chức Nữ và hoa ngâu như thế nào trong truyền
thuyết.
* Tôi nghĩ ông bà của ta xưa gọi là “mưa ngâu”,
“ông ngâu bà ngâu” chắc có lý do, mình thử tra tìm tiếng “NGÂU”
trong chữ Nôm (chữ viết của ông bà ta hồi xưa) xem sao! Chữ Nôm
vốn mượn âm và chữ của Hán Tự mà, nên chắc chắn có liên quan về
cách viết, cách đọc thôi.
Vì thế, tôi mới mầy mò tra từ
điển Hán Nôm mới biết chữ Nôm có tới 6 cách viết chữ Ngâu. Đó là
âm đọc chữ Hán “ngưu” (trâu); kế tiếp là các chữ “ngưu” bộ mộc,
bộ thảo; chữ “ngô” bộ mộc, bộ thảo; chữ “ngao” bộ mộc.
Ảnh chụp một phần trang của quyển từ điển Hán Nôm của Vũ Văn
Kính
Xét 6 cách viết tiếng NGÂU theo tự dạng chữ Nôm, ta
có:
1. NGÂU là âm Nôm đọc chữ Hán “ngưu” 牛: NGƯU 牛 chữ
Hán, còn có nghĩa là con bò, là sao Ngưu hay là họ Ngưu.
Trong truyện kiếm hiệp ‘Lục Tiểu Phụng’ của Cổ Long có nhân vật
Ngưu Nhục Thang nghĩa nôm na là ‘canh thịt bò’. Người ta gọi con
trâu là thủy ngưu để phân biệt với con bò là hoàng ngưu.
2. NGÂU là âm Nôm đọc chữ Hán “ngưu” có bộ thảo 䒜: hoa ngâu.
3. NGÂU là âm Nôm đọc chữ Hán “ngô” có bộ thảo 䓊: hoa ngâu.
4. NGÂU là âm Nôm đọc chữ Hán “ngô” có bộ mộc 𫉎: hoa ngâu.
5. NGÂU là âm Nôm đọc chữ Hán “ngưu” có bộ mộc: hoa ngâu. Hoa
ngâu còn có tên là “mộc ngưu” (木 牛)).
6. NGÂU là âm Nôm
đọc chữ Hán “ngao” có bộ mộc: Hoa ngâu.
Mời xem ảnh chụp một
phần trang của quyển từ điển Hán Nôm của
Vũ Văn Kính. Hai chữ
NGÂU này không copy bằng phần word được
* Ta
thấy “vợ chồng Ngâu”, “mưa ngâu” đều viết bằng tự dạng chữ Nôm là
牛 (âm Nôm đọc chữ Hán “ngưu”).
– Riêng “hoa ngâu” đều được
viết với âm Nôm có 5 tự dạng chữ Hán khác nhau: “ngưu” bộ mộc,
chữ “ngưu” bộ thảo; chữ “ngô” bộ mộc, chữ “ngô” bộ thảo; chữ
“ngao” bộ mộc. (Bộ thảo, bộ mộc dùng để chỉ về cây cỏ, nên viết
về hoa ngâu là đúng quá).
* Thế thì tại sao NGÂU trong tự
dạng chữ Nôm không có cách viết với chữ “ngưu” với bộ thủy (để có
thể chỉ cơn mưa ngâu)?
Theo tôi nghĩ, đơn giản “mưa ngâu” có
nghĩa là “mưa của vợ chồng ngâu”. Mưa rơi bắt nguồn truyền thuyết
những giọt nước mắt của “ông Ngâu bà Ngâu” rơi. Loại mưa này phụ
thuộc về nhân vật trong truyền thuyết nên chữ viết phải theo tên
nhân vật thôi. Và, Hán tự đã sẵn có chữ 水牛 (thủy ngưu) có nghĩa
là con trâu (trâu nước), để phân biệt với hoàng ngưu là con bò.
Đã có chữ thủy ngưu là con trâu rồi thì mưa ngâu (‘chữ ngưu
có bộ thủy’ làm chi có chỗ chen chân vào đây được!) khác với hoa
ngâu viết với chữ “ngưu” bộ mộc, hơn nữa hoa ngâu có tên Hán Việt
là mộc ngưu.
* Như thế, xét theo chữ Nôm thì “NGÂU” trong
các từ ngữ “mưa ngâu” và “ông Ngâu bà Ngâu” là do nói theo âm Nôm
của từ Hán “ngưu” về nhân vật “Ngưu Lang”, 1 trong 2 nhân vật
chính trong truyền thuyết Ngưu Lang–Chức Nữ. Hầu như ai cũng biết
về truyền thuyết này – một chuyện tình cổ tích, trong đó, ngày
mùng 7 tháng 7 âm lịch hàng năm là ngày họ gặp nhau (qua chiếc
cầu Ô thước – do đàn quạ nối đuôi nhau tạo thành chiếc cầu cho 2
người đến với nhau). Thật ra, Ngưu Lang (牛郎) và Chức Nữ (織女)
không phải là họ tên (họ Ngưu, họ Chức; tên Lang, tên Nữ; cho dù
trong xã hội có 2 họ này) mà là cách gọi căn cứ vào nghề nghiệp
của họ. Ngưu Lang là chàng trai chăn trâu; Chức Nữ là cô gái dệt
vải.
Nên, không phải như sự chế nhạo của ông bạn kia, “mưa
ngưu” là “mưa trâu”, “ông ngưu bà ngưu” là “ông trâu bà trâu”. Vì
Ngưu Lang là chàng chăn trâu (chứ không phải là “chàng trâu”) nên
“ông ngâu bà ngâu” là ông bà nhà chăn trâu (chứ không phải là
“ông trâu bà trâu”), “vợ chồng Ngâu” là “vợ chồng nhà Ngưu Lang”.
MƯA NGÂU là một loại mưa xuất hiện vào đầu
tháng 7 Âm lịch ở Việt Nam hàng năm. Trong dân gian Việt Nam có
câu tục ngữ: “vào mùng 3, ra mùng 7”, nghĩa là mưa sẽ có vào các
ngày mùng 3 đến mùng 7; 13 đến 17 và 23 đến 27 âm lịch. Các cơn
mưa thường không liên tục, rả rích, do vậy mới có cụm từ “trời
mưa sụt sùi” để chỉ mưa ngâu.
Theo truyền thuyết thì Ngưu
Lang và Chức Nữ chỉ gặp nhau một năm một lần vào ngày 7 tháng 7
Âm lịch. Vào ngày ấy, bao giờ cũng mưa dầm dề, đó là nước mắt của
cả Ngưu Lang lẫn Chức Nữ, sau khi hàn huyên tâm sự, họ lại khóc
cho nên các cơn mưa mới không liên tục, lúc mưa, lúc tạnh. Nước
mắt của họ rơi xuống trần gian hoá thành cơn mưa, đó chính là
“mưa Ngâu”. Do vậy, người ta còn gọi Ngưu Lang–Chức Nữ là “ông
Ngâu bà Ngâu”.
Với lời giải thích: Gọi là “mưa ngâu”, “ông
Ngâu bà Ngâu” vì loài hoa ngâu gắn liền với câu chuyện tình Ngưu
Lang–Chức Nữ từ xa xưa. Hoa ngâu mang ý nghĩa về một tình yêu
thủy chung, với khát vọng tự do trong tình yêu.
Tôi đã ra
sức tìm trên mạng internet, tra cứu sách vở, thấy có lời giải
thích giống như thế. Nội dung như sau:
“Hoa
ngâu mang ý nghĩa về một tình yêu thủy chung, với khát vọng tự do
trong tình yêu. Loài hoa ngâu gắn liền với câu chuyện tình Ngưu
Lang–Chức Nữ từ xa xưa. Là biểu tượng của một tình yêu chân
thành, vĩnh hằng hoa ngâu khiến người ta khó có thể quên.”
Tuy nhiên, tôi hoàn toàn chưa thấy tình tiết cụ thể nào cho
biết loài hoa ngâu gắn liền với câu chuyện tình yêu chung thủy
của Ngưu Lang–Chức Nữ cả. Ví dụ như giọt nước mắt của ông bà Ngâu
thấm vào đất làm mọc lên loài hoa ngâu chẳng hạn...
Tra
cứu tự dạng chữ Nôm về hoa ngâu, thì có 2 cách viết chữ NGÂU có
gốc Hán tự là “ngưu”. Đó là NGÂU có chữ “ngưu” bộ mộc và NGÂU có
chữ “ngưu” bộ thảo. Không rõ với tự dạng hai chữ Nôm này thì hoa
ngâu có liên quan với Ngưu Lang–Chức Nữ thế nào?
TÓM LẠI: Những giọt nước mắt của Ngưu Lang–Chức Nữ rơi
xuống trần thế trong đêm Thất Tịch ấy, dân gian chúng ta gọi là
mưa Ngâu.
NGÂU trong cụm từ “ông Ngâu bà Ngâu”, “mưa ngâu”
được viết theo tự dạng chữ nôm là 牛 như NGƯU của Hán tự, Tiếng
NGÂU này chính là nói theo âm Nôm đọc chữ Hán “ngưu” 牛 của nhân
vật Ngưu Lang (牛郎) mà ra.
Vì “mưa ngâu” có nghĩa là “mưa
của vợ chồng ngâu”. Mưa rơi bắt nguồn truyền thuyết những giọt
nước mắt của “ông Ngâu bà Ngâu” rơi. Loại mưa này phụ thuộc về
nhân vật trong truyền thuyết nên chữ viết phải theo tên nhân vật
thôi.
Các cơn mưa ngâu thường là loại mưa nhỏ nhưng rả
rích suốt trong vài ngày. Mưa Ngâu đã đi vào thơ ca, âm nhạc Việt
Nam với hình ảnh đẹp và buồn. Mưa Ngâu có trong ca dao Việt Nam
như:
Tục truyền tháng bảy
mưa ngâu,
Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền
... Tháng
sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa Ngâu
Tháng bảy là tháng mưa Ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng
thu...
Tháng năm tháng sáu mưa dài
Bước sang tháng bảy tiết
trời mưa Ngâu
Nhớ ai như vợ chồng Ngâu
Một năm mới gặp mặt
nhau một lần.
(Ca dao)
Nhà thơ Trần Tế Xương có bài “Mưa tháng bảy”
được làm theo thể thất ngôn bát cú:
Sang tuần tháng bảy tiết mưa ngâu
Nắng mãi thì mưa cũng phải lâu.
Vạc nọ cầm canh thay trống mõ,
Rồng kia phun nước tưới hoa màu.
Ỳ ào tiếng học nghe không rõ
Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu.
Ông lão nhà quê tang tảng dậy
Bảo con mang đó chớ mang gầu.
Hay bài thơ song
thất lục bát “Vợ chồng ngâu”:
Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu,
Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền.
Một là duyên, hai thời
là nợ,
Sợi xích thằng ai gỡ cho ra?
Vụng về cũng thể cung
nga,
Trăm khôn nghìn khéo chẳng qua mục đồng.
Hay là sợ
muộn chồng chăng tá?
Hơi đâu mà kén cá chọn canh!
Lấy ai,
ai lấy cũng đành,
Rể trời đâu cả đến anh áo buồm.
Trần Tế Xương
Nhà thơ Lưu Trọng Lư từng viết:
“Đây
là dải ngân hà
Anh là chim Ô Thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Mỗi đêm một lần qua.”
Trong tân nhạc, nhạc sĩ
Lam Phương cũng mượn câu chuyện này để viết ca khúc “Thu
Sầu”, ông viết:
“Người
từ nghìn dặm về mang nỗi sầu,
nhịp cầu Ô Thước tìm đến mai
sau...”
Nhạc sĩ Đặng Thế Phong cũng nhắc tới
“mưa ngâu” trong nhạc phẩm nổi tiếng “Giọt mưa thu”:
“Đến bao năm nữa trời,
vợ
chồng Ngâu thôi khóc vì thu...”
Mưa Ngâu cũng
đã được lấy làm tên cho một bài hát của nhạc sĩ Thanh Tùng, bài
Mưa Ngâu:
“...
giọt mưa Ngâu hay là nước mắt ai
nhớ nhau...”
Cũng giống như ngày lễ Valentine
của Phương Tây, ngày thất tịch (mồng 7 tháng 7) cũng là ngày dành
cho những người yêu nhau ở một số nước Á Đông.
Tuy nhiên,
đi kèm theo đó là nhiều lễ hội mang ý nghĩa tâm linh nhiều hơn.
Ngày này tại Việt Nam được gọi là ngày “ông Ngâu bà Ngâu”.
Đêm Thất tịch, chòm sao Chức Nữ sẽ sáng vô cùng và người ta
tin rằng hai người yêu nhau nếu cùng ngắm sao Ngưu Lang–Chức Nữ
trong đêm 7/7 âm lịch thì sẽ mãi ở bên nhau.
Thông tin
trên báo Thanh Niên cho biết, ngày 7/7 âm lịch hàng năm tại các
nước Châu Á được chọn làm ngày Tình Yêu.
Tại nước Tầu,
ngày này được gọi là Lễ hội Qixi, Nhật Bản có Tanabata, Lễ hội
Chilseok ở Đại Hàn thì khi du nhập vào Việt Nam nó thành Ngày
Thất tịch.
Mùa dịch Covid, suốt ngày chỉ ngồi bó gối ở nhà
vì hạn chế ra đường, đi lại. “Rảnh rỗi sinh nông nỗi”, nên tôi
viết lếu láo đôi dòng lạm bàn, nếu có gì sai sót xin quý bác bỏ
qua.
La Thụy
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)/a>
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Suong Nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, January 7,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang