Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Văn Hóa Việt
Chủ đề:
Tết
Tác giả:
BS Nguyễn Hy Vọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tết
là tên riêng (nom propre) gọi ngày lễ mừng đầu năm mới của rất
nhiều dân tộc và sắc dân ở khắp miền Đông Nam Á, còn tiết chỉ là
tên thường (nom commun) của Tàu gọi những thời tiết thay đổi
trong một năm.
Chỉ có người Việt gọi là Tết, trong khi
cả ngàn triệu người Tàu gọi ngày đó là duỳn tản (nguyên đán) hay
là xin nển (tân niên). Tại sao họ không gọi là Tết? Vì Tết không
phải là tiếng của họ.
Giờ ta hãy trở lại với cái tên gọi là
Tết. Có một cách hợp lý để tìm cho ra nguồn gốc của ngày Tết và ý
nghĩa ấy. Hãy đi tìm trong tất cả các ngôn ngữ khác nhau ở miền
Nam Á Châu xem thử có ngôn ngữ nào cũng có cái tên là Tết và cũng
có cái cách phát âm, cách đọc, cách nói và cũng có cái nghĩa là
ngày lễ ăn mừng đầu năm không, dù cho tiếng ấy không phải là
tiếng Việt hay là tiếng Tàu? Nếu không có thì đành vậy chứ sao!
Vậy mà có, mà lại có rất nhiều và giống gần y hệt, các bạn ơi!
Thật ra, cái miền rộng lớn Đông Nam Á
cứ đều đều mỗi năm thì mùa gió đổi chiều và đem lại mùa mưa
khoảng tháng tư tháng năm, tùy theo từng vùng gió mùa, trước hết
là từ bờ biển phía Tây của lục địa Ấn Độ, chuyển dần qua ngang
vùng đất Ấn Độ, tiếp tục lan qua phía Đông lần lượt đến các xứ
Bangladesh, Assam, Miến Điện, Myanmar bây giờ, rồi thổi qua Thái
Lan, Lào mà đến Việt Nam, rồi tiếp tục cùng lúc lên phía Đông Bắc
là vùng Hoa Nam bên Tàu và xuống phía Đông Nam là 15,000 hòn đảo
của Indonesia. Và cách đây cả chục ngàn năm, con người ở cái vùng
gió mùa mênh mông ấy đã gọi là Tết cho cái hiện tượng trời đất
gặp nhau qua mùa gió này và họ gọi cái lúc “giao mùa” đó bằng cái
tên là Tết vì ai mà chẳng biết là không có mùa mưa đến thì kể như
không trồng trọt gì được, huống chi là trồng lúa.
Đông Nam Á là vùng của gió mùa mưa mùa,
của mấy chục triệu con trâu, của mấy trăm triệu con người sống
với cây lúa, nơi mà những hạt lúa giống oriza sativa đã được tìm
ra từ 6,000 năm trước (tài liệu của ông William Solzheim, đại học
Hawaii). Gió mùa và mưa mùa là quyết định dứt khoát của đất trời
cho con người ở Đông Nam Á. Khi mưa gió không thuận hoà thì hạn
hán và đói kém sẽ bao trùm, cuồng phong và lụt lội sẽ tàn phá
hàng trăm ngàn mẫu ruộng lúa và giết hại hàng ngàn người.
Nông nghiệp và sự sống còn của hàng
chục triệu người hoàn toàn tùy thuộc vào cái ân huệ vừa phải của
mùa mưa đến hàng năm trên cái phần đất mênh mông này!
Gió mưa đầu mùa là hứa hẹn của năm mới,
của một đời sống mới, được chờ đợi khoắc khoải và đón mừng hân
hoan, và triền miên có mặt trong mọi lãnh vực tin tưởng, huyền
thoại hay tâm linh, và cái thực tế của đời sống hàng ngày của
người đi cày đi cấy cũng gắn liền với bao nhiêu cái tin tưởng đó.
Trên những trống đồng từ ba ngàn năm
trước, mấy con ếch, cóc, nhái, ễnh ương, ệnh oạng nằm chồng lên
nhau, mỗi góc trống ba con, như một ám ảnh không ngừng về mùa
mưa, về ruộng đồng, ao hồ, sông nước, về bất cứ mảnh đất nào mà
cây lúa có thể mọc lên. Biết bao nhiêu ca dao, tục ngữ, bài vè
nói về mùa mưa, về lúa gạo, về ếch nhái và về ngày Tết trong
tiếng Việt.
Ở
xứ Nepal bên Đông Bắc Ấn Độ, ngày lễ đầu mùa mưa cũng gọi là
Teetj. Trong mấy ngày đó, người dân bản xứ ăn mừng, ca hát, nhảy
múa, đánh đu, uống rượu, tạt nước vào nhau để chúc mừng, chúc
lành cho nhau, chúc Teetj. Chung quanh xứ Nepal như ở Sikkhim và
Bhutan, dân ở đó cũng gọi ngày đầu mùa mưa là Tiitj.
Bên Miến Điện và Thái Lan thì tha hồ
xịt nước, tạt nước nhau ướt mèm vào ngày đó. Năm 1986, tôi qua
học tiếng Mon bên Thái Lan, gặp ngày lễ Song khràn (ngày tết âm
lịch cổ truyền của dân Thái xưa, có nghĩa là giao mùa), trùng với
mùa lễ Têj, vào ngày 13 đến 15 tháng tư của năm dương lịch, bị
một cô người Thái ở đền Nakhon Pathom lén bỏ một cục nước đá vào
cổ áo sơ mi của tôi lọt xuống lưng lạnh ngắt, cô ấy cười xin lỗi
và nói là muốn chúc tết bất ngờ cho tôi theo kiểu tạt nước vào
nhau của họ!
Người Lào Thái còn gọi ngày ấy là wan pi may/ngày năm mới. Người
dân Kampuchia thì gọi ngày đó là thngày chul thnăm chmây/ngày vào
năm mới (trong lịch cũ của họ thì họ gọi tháng giêng là khae
Chêt/tháng tết). Người Chàm thì gọi là bulan Chit/tháng tết.
Các dân tộc mạn ngược ngoài Bắc Việt,
cũng như nhiều dân tộc miền núi ở Trung Việt, vẫn có ăn mừng hội
mùa mưa, hội ngày mùa còn lớn hơn cả hội mùa xuân (theo tài liệu
của ông Nguyễn Văn Huyên "Les Chants Alternés Des Garcons et Des
Filles en Annam/1934").
Kể từ khi Tàu qua đô hộ Giao Chỉ cách
đây 2,000 năm thì người Giao Chỉ không còn ăn tết vào tháng tư
tháng năm của lịch Mường xưa “lịch ngày lui tháng tới” đó nữa mà
ăn Tết theo lịch Tàu, mà lịch Tàu hồi xưa thì cũng "bất thùng chi
thình", khi thì ngày đầu năm của Tàu rớt vào tháng chạp, khi thì
nhằm vào tháng giêng của họ, và sau nhiều thay đổi mới gọi là
ngày duỳn tán xin nển, chứ Tàu không gọi ngày đầu năm của họ là
tiết nhật (sic) bao giờ cả.
Chỉ có vài ông Hán Việt “chợ chiều” cứ
khư khư tìm cho được một cái âm hưởng Tàu cho tiếng Tết, nên cố
tình gượng gạo mà ép cho nó là tiết, cũng như họ đã giải thích
kiểu tầm phào là Giao Chỉ là ngón chân giao nhau (nói tàm bậy!).
Lạc là chim lạc, ghe chài là ghe tải @ Lê Ngọc Trụ. Trời đất!
Sau đây là những từ đồng nguyên
(cognates) khắp Đông Nam Á, dính líu với Tết.
Alexandre de Rhodes: Tết Tết năm (sic),
Tết ai, ăn Tết
Từ Điển Khai Trí Tiến Đức
không hề cho rằng Tết là khoảng tiết của Tàu
Nùng: Tét Tết
Niên: Tét năm Tết
Chàm: Băng Tít ăn Tết (băng là ăn)
Tít
Tết (lễ tháng 5 của lịch Chàm)
bùlăn
Chết tháng Tết
Khmer: Chêtr lễ tháng 5
(lịch xưa của Khmer)
Tháng gió mùa bắt đầu thổi ngược lại
tháng của mùa gió Nồm ở Đông Nam Á tháng của mùa mưa đến trên lục
địa Ấn và miền Đông Nam Á (Tùy theo vị trí từng nước, mưa đến với
gió mùa từ cuối tháng tư đến cuối tháng năm). Tên tháng 4 và
tháng 5 của lịch Ấn xưa.
Khae: Chêt tháng Tết (tháng 4 dương
lịch)
khae là tháng tháng Tết Khmer
khoảng 13 tháng 4 dương lịch, khoảng 23 tháng ba âm lịch
Chêt khal thời gian có lễ Tết ấy (khal
là thời gian, lúc, khi)
Thái: Thết, Thết
khal~mùa Tết, những ngày Tết (annual Thết celebration/New Year
propicious ritual)
Thết Thày Tết Thái (Thái New Year
ritual celebration)
Trếts Tết (trong từ
điển Francais-Thái của Pallegoix)
Trêts
chền Chinese New Year [chền, tiếng Thái gọi người Tàu]
Chêtr Fifth lunar month # mid-April
Trôts Lễ hội đầu mùa mưa của lịch Thái xưa, cuối tháng 4 và 5
Trôts farăng dịch là Tết Hoa Lang (Western New Year)
Chú ý: farăng # Hoa Lang # occidental,
western (do đó mà có cái tên xưa đạo Hoa Lang # đạo Thiên Chúa).
Zhuang: SIT Tết của người Zhuang bên
Quảng Tây, một bộ tộc thuộc dòng Tai, đông đến 25 triệu người,
nói tiếng Thái xưa
đuon Sit tháng Tết (yearly Monsoon
festival, a ritual celebration)
Mon:
k-Têh first days of Mon New Year
Nepal: Teej (Teetj Brata) lễ đầu năm
của người Nepal theo báo Người Việt, ngày 9
tháng 10 năm 1992, số 305)
Mustang: Tij, Tiji ngày lễ mùa mưa đến
(xứ Mustang ở sát với Nepal)
Đông Bắc Ấn Độ: Teej~Monsoon festival
(theo National Geographic thì swinging in celebration, village
girls sing the ancient melodies of Teej, the festival marking the
return of the monsoon and the promise of prosperity)
Sau cùng, cái cú dứt điểm (knock-out
punch) chấm dứt cái quan niệm sai lầm 2100 năm hơn của chúng ta
là cú (coup) này: chính Khổng Tử cũng không hề nói Tết là do tiết
mà ra! Ông nói rằng:
“Ta không biết Tết là gì! Nghe đâu đó
là một ngày lễ hội lớn của bọn người Man (sic). Họ nhảy múa như
điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó mà không phải là
những ngày đầu năm của chúng ta. Nghe đâu họ gọi là Tế-sạ.” (sic)
(theo kinh Lễ Ký) @ Edward Shafer/Ancient China.
Khổng Tử không nghĩ rằng tiết là cái âm
sinh ra Tết, nên ổng mới phiên âm khác đi là Tế-Sạ. Hơn nữa, có
cả chục ngôn ngữ và nền văn hóa khác với Tàu ăn mừng ngày đầu năm
của họ và vẫn mang những cái tên mà ý nghĩa và phát âm, cách nói
và đọc đều giống với cái âm, cái tên, cái tiếng Tết của dân Giao
Chỉ và của dân Mường, nên ta phải suy nghĩ lại về cái hiểu lầm
Tết khoảng Tiết của hơn 2000 năm qua.
Như vậy, tết là tên gọi ngày ăn mừng
đầu mùa mưa và sau này trở thành ngày ăn mừng đầu năm âm lịch
luôn của các dân Mường, Nùng, Thái, Zhuang, Chàm, Mon, Khmer,
vùng Đông Bắc Ấn Độ, Nepal, Mustang, Munda. Hỏi nhỏ bạn, bạn có
còn cho rằng Tết là tiết của Tàu mà ra không?
Tài
liệu tham khảo:
A Dictionary of the Mon Inscriptions,
HL Shorto, London 1971
A Grammar of the
Khasi Language (Rev. H. Roberts/London)
Ancient China, Howard Edward H. Shafer/Time Life, New York
Ancient China, Maurizio Scarpari/Barnes Noble, Italy
Dictionary Lingua Thai, Pellegoix PL 4186 PS 1854 a 1972
English-Hmong Dictionary, Lang Siong & Joua Siong, Nao Leng Siong
PL 4072 4X/1984
Excerpts from
Brittanica, 1999
Introduction to Sino
Tibetan (Shafer 1966 – Wiesbaden
Germany
PL 3521, S, Kegan Paul Trench Hubner and Co., Ltd.,)
Pater Noster
House, Charing Cross Road,
1891
Lao-English Dictionary, Russell
Marcus, Japan 1975
Studies in Munda
Linguistics, Sudhibushan Batacharya/Simla,
Calcutta, 1975
Thai Dictionary, Mary Haaj, Stanford, California 1964
The Languages of China Before the Chinese, Terrien de Lacouperie,
London 1887, Taipei 1966
Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Xuân Kỷ Hợi. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by ddpsxh chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
February 5, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang