Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sưu tầm
Chủ đề:
Triết
Tác giả:
BS Trần Văn Tích
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trong bài viết “Từ
ngữ Việt quốc và từ ngữ Việt cộng”, tôi chỉ có một mục
đích duy nhất là chứng minh rằng hai chữ “chất lượng” vốn không
phải là từ ngữ của Việt cộng như những từ “ngụy quân ngụy quyền,
học tập cải tạo”, v.v. Tôi cố tình bỏ qua một khía cạnh hết sức
quan trọng: vai trò của khái niệm “chất lượng” trong triết học
mác-xít. Dẫu rằng tôi không lạ là nhiều người Việt quốc gia dị
ứng với hai chữ “chất lượng” chung qui cũng chỉ tại vì nó nằm
trong phạm trù triết học duy vật “lượng biến thành chất”.
Lượng biến thành chất: nội
dung
Phép biện chứng mác-xít coi sự phát
triển của vạn vật trong thế giới như là bước chuyển từ những
thay đổi có tính chất dần dần, nhỏ nhặt và tiềm tàng, tức là
những thay đổi về lượng sang những thay đổi có tính chất căn
bản, rõ rệt, quyết định tức là những thay đổi về chất. Những
thay đổi về chất thường không phải là những thay đổi dần dần mà
là những thay đổi nhanh chóng đột ngột và tiến hành bằng những
bước nhảy vọt từ một trạng thái này sang một trạng thái khác;
các thay đổi đó không phải là ngẫu nhiên mà là tất yếu; nó là
kết quả của sự tích lũy những thay đổi không rõ rệt và dần dần
về lượng. Nói cách khác, phép biện chứng mác-xít hiểu sự phát
triển của mọi vật mọi giới như là sự biến đổi về chất của sự vật
và của hiện tượng, những biến đổi về chất đó nối tiếp theo những
biến đổi về lượng. Engel đưa ra nhiều ví dụ để chứng minh luận
điểm này: phải có một cường độ tối thiểu của một dòng điện nhất
định (lượng) mới làm cháy đỏ được những dây dẫn điện trong một
bóng điện (chất); mỗi thứ kim loại đều có một nhiệt độ nóng chảy
nào đó (để lượng biến thành chất); mỗi chất lỏng, mỗi chất nước
dưới một áp suất nhất định nào đó, đều có điểm sôi hoặc điểm
đông nhất định (để lượng biến thành chất). Chẳng hạn nước đun
thì nóng lên dần dần nhưng đến một nhiệt độ nào đó (lượng) thì
chuyển biến rất nhanh, bằng bước nhảy vọt, thành hơi nước
(chất). Trong xã hội và về lĩnh vực chính trị, những thời kỳ
cách mạng ngắn hơn nhiều so với những thời kỳ phát triển có tính
chất tiến hóa. Cách mạng xã hội xóa bỏ ngay lập tức trật tự cũ
và tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các hình
thức mới trong đời sống xã hội. Như vậy, thực tế chứng minh rằng
sự biến đổi, sự tiến hoá, sự chuyển hoá có hai hình thức: hình
thức lượng và hình thức chất. Các thay đổi về lượng chuẩn bị cho
những thay đổi về chất. Quá trình tiến hoá thoạt nhìn có vẻ muôn
màu muôn vẻ nhưng thực chất chỉ là quá trình tích lũy dần dần,
tiệm tiến của các yếu tố thuộc chất lượng mới đi đôi cùng sự
tiêu vong huỷ diệt của các yếu tố thuộc chất lượng cũ; tỷ như
nước bốc hơi dần dần trong những điều kiện tự nhiên, các loài
động vật tiến hoá dần dần qua thời gian, v.v. Phong trào quần
chúng có tính chất tiến hoá khi nào các phần tử tiến bộ (theo
Mác là giai cấp công nhân) tiến hành một cách tự phát công tác
hàng ngày của họ và làm cho chế độ cũ có những biến đổi nhỏ về
số lượng. Phong trào quần chúng có tính chất cách mạng khi nào
cũng những phần tử nhất định trong xã hội (lực lượng công nhân
tiến bộ) đoàn kết lại, cùng thấm nhuần một tư tưởng chung để rồi
lao mình vào hàng ngũ kẻ thù nhằm tiêu diệt tận gốc chế độ cũ,
để đem lại trong đời sống những biến đổi về chất lượng, hầu
thiết lập một chế độ mới. Nói gọn lại, tiến hóa là một quá trình
tăng lên từ từ, tuần tự của những biến đổi về số lượng; cách
mạng là một sự thay đổi đột ngột, căn bản về chất lượng. Phong
trào xô-viết Nghệ Tĩnh, thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, các
hội nghị bí mật của Trung ương Đảng, những cuộc khởi nghĩa ở Bắc
sơn, Nam kỳ, Đô lương, v.v. hợp thành các biến đổi về số lượng.
Cách mạng tháng tám là thay đổi về chất lượng. Người cộng sản lý
luận như thế đó.
Lượng biến thành chất: sai lầm
Người có đầu óc bình thường, không bị
mê hoặc, không bị nhồi sọ thấy ngay rằng lập luận “lượng biến
thành chất” là một lập luận rất khiên cưỡng, gượng gạo. Nước đun
sôi đến 100°C dưới áp suất không khí thì bốc thành hơi, chúng ta
có hai hình thức thể chất: thể lỏng và thể hơi. Không có lượng
mà cũng chẳng có chất gì hết. Huống chi khoa vật lý chỉ rằng
chẳng phải chỉ có mỗi một hiện tượng bốc hơi khi đun nóng nước.
Bốc hơi xảy ra trên mặt nước nhưng trong khối nước thì có hiện
tượng sôi lên của nước và khi nước từ trạng thái rắn trực tiếp
chuyển qua trạng thái khí thì xảy ra hiện tượng thăng hoa.
(Tiếng Pháp: bốc hơi = évaporation, sôi lên = ébullition, thăng
hoa = sublimation). Khi dòng điện đủ mạnh thì ngọn đèn sáng, khi
pin đủ sức thì con chuột cạnh bàn phím chạy, đó chỉ là hiện
tượng lý năng hay hóa năng biến đổi thành điện năng, chẳng có
lượng và chẳng có chất gì ráo. (Hoặc giả xem đèn sáng khi đủ
điện là một chất mới, chất ánh sáng?) Trong sinh học, các học
thuyết darwinisme (thuyết Darwin), évolutionnisme (thuyết tiến
hóa), lamarkisme (thuyết Lamarck), mutation (hiện tượng đột
biến) đã giải thích và liệt kê những qui luật khách quan khoa
học liên quan đến sự phát triển của sự sống trên trái đất, đã
nêu ra và nhấn mạnh tư tưởng về sự biến chủng của các loài sinh
vật dưới ảnh hưởng của các điều kiện sinh hoạt, của hoàn cảnh
bên ngoài. Các loài thực vật trực tiếp bị ảnh hưởng hoàn cảnh
bên ngoài nên phải thay đổi bản chất và tính chất cho thích hợp.
Đối với các loài động vật có một hệ thần kinh và một kiến trúc
cơ thể học phức tạp hơn thì ảnh hưởng ngoại giới tác động một
cách gián tiếp thông qua những thay đổi về tập quán, do hậu quả
của sự xuất hiện những nhu cầu mới. Những nhu cầu mới này bắt
buộc các chủng loại phải rèn luyện thêm một số cơ quan bộ phận
nào đó và trái lại phải từ bỏ sử dụng một số cơ quan bộ phận
khác. Việc rèn luyện và việc thôi sử dụng những cơ quan bộ phận
nào đó dẫn tới những thay đổi trong toàn bộ cơ thể và trong
nhiều chức năng thuộc cơ thể chủ hữu. Con chuột chũi sống mãi
trong lòng đất sâu không cần tới ánh sáng nên dần dà thành mù,
đôi thần kinh số II của nó mất hẳn chức năng sinh lý. Đôi cánh
loài chim rất phát triển nếu so với đôi chi trên của loài người.
Phôi thai học hiện đại chứng minh rằng bào tử và phôi thai từng
trải qua những giai đoạn tiến hoá từ thấp đến cao. Cháu bé nằm
trong bụng mẹ thoạt tiên có những cấu trúc cơ thể học của loài
cá rồi loài bò sát và cuối cùng của loài có vú; sinh học thi vị
hóa tiến trình phát triển đó khi bảo rằng cháu bé sống lại lịch
sử tiến hoá của muôn loài trong triệu triệu năm tại tử cung của
mẹ. Chẳng làm gì có số lượng, có chất lượng nào hết.
Lượng biến thành chất: tội ác
Ý thức hệ cộng sản cưu mang một khoa
triết học tư biện, chỉ suy luận đơn thuần, lý thuyết mà không
dựa vào thực tế, thực nghiệm; từ đó đạt đến những hệ quả tai hại
hết sức nghiêm trọng như phủ nhận sự hiện hữu của gen.
Từ điển Triết học, M. Rô-Den-Tan và P.
I-U-Đin chủ biên, in lần thứ ba, Nhà Xuất bản Sự Thật, Hà nội,
1978, trang 201 viết nguyên văn: “Nhân tiện, chúng ta hãy
nói đến cuộc đấu tranh giữa lý luận siêu hình về sinh vật học
của phái Vét-man-Moóc-gan và học thuyết Mít-su-rin, học thuyết
này, cuối cùng đã đi đến thắng lợi hoàn toàn. Theo phái Moóc-gan
thì sự phát triển của thực vật và động vật là một sự phối trí
mới và một sự kết hợp mới thuần túy về số lượng của những cơ
nhân (gène) bất biến. Dựa vào phép biện chứng, học thuyết
Mít-su-rin đã đập tan những quan niệm phản khoa học ấy. Điểm
xuất phát của học thuyết Mít-su-rin là: sự phát triển của giới
sinh vật là một quá trình gồm những thay đổi nối tiếp nhau về
chất do những thay đổi về lượng gây ra. Học thuyết ấy chứng minh
rằng không bao giờ có một chất di truyền nào bất biến, rằng cơ
thể càng thích ứng với điều kiện sống còn của nó thì cách biến
hóa giữa cơ thể và ngoại giới cũng thay đổi theo và trên cơ sở
đó tính di truyền cũng thay đổi nốt. Toàn bộ lịch sử xã hội cũng
xác nhận quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất.”
Kế thừa và phát triển học thuyết
Mít-su-rin (Ivan Vladimirovitch Mitchourine) một cách tuyệt vời
là Lư-xen-cô (Trofim Denissovitch Lyssenko). Nói thực ngắn gọn,
học thuyết Mitchourine-Lyssenko bác bỏ thuyết nhiễm sắc thể của
phái Weismann-Morgan cùng những cái gen thần bí của thuyết này,
bởi đó là một thứ học thuyết vô căn cứ. Tổng kết các thành tựu
nghiên cứu dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê-nin bách chiến
bách thắng trong tác phẩm kinh điển Nông nghiệp sinh (vật) học,
phát hành năm 1952, Lyssenko đã dẫn ra nhiều tài liệu thực
nghiệm nhằm hoàn toàn bác bỏ chủ nghĩa Mendel-Morgan-Weismann và
những định luật giả dối của Mendel trong di truyền học. Lyssenko
được xem là đã sáng tạo nên nền “khoa học giai cấp”, đã khai
sinh ra khoa “sinh học vô sản” chống đối lại “khoa học tư
sản/sinh học tư sản”. Học thuyết Mitchourine-Lyssenko phù hợp
với nhu cầu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vì nó liên quan với
thực tiễn mới của việc kiến tạo các nông trang tập thể, nó đáp
ứng các nhu cầu của nền đại nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Khoa học vô sản tiến bộ phủ nhận hay
chống đối nhiều lý thuyết khoa học tư sản lạc hậu. Chẳng hạn nó
loại bỏ thuyết tương đối của Einstein ra khỏi vật lý học, nó kết
án nặng nề thống kê học; tất cả chỉ vì đó là những lý thuyết
khoa học tạch tạch xè. (Chính vì thế nên khoảng năm 1978, khi
Giáo sư Bác sĩ Tôn Thất Tùng du thuyết Hoa Kỳ và bị sinh viên Mỹ
chất vấn về thống kê học trong các báo cáo liên quan đến hậu quả
di truyền của chất độc da cam thì ông ú ớ gần như cứng họng
không trả lời nổi). Được Staline, Mao Trạch Đông triệt để ủng
hộ, Lyssenko quay qua tiêu diệt những khoa học gia không chịu a
dua theo mình. Viện sĩ Vavilov chẳng hạn, bị đưa vào trại tập
trung vì ông cho rằng học thuyết Mendel-Weismann-Morgan đề cao
vai trò của các nhiễm sắc thể và của các gen là đúng đắn trong
khi giới khoa học sinh học nông học tiến bộ Nga xô chủ trương
trường phái Mendel là “kẻ thù của nhân dân xô viết”. Độc tài độc
đoán trong khoa học, người cộng sản gọi những kẻ không theo mình
là phản động, là duy tâm, là xét lại, là không tưởng; những kẻ
này chỉ biết lý luận siêu hình, chúng chỉ suy tư hình thức, bọn
họ theo đuổi những học thuyết giả dối, v.v.
Di truyền học ngày nay phủ nhận hoàn
toàn tính di truyền của các đặc tính thủ đắc. Nếu anh không may
bị gãy tay vì tai nạn hoặc nếu cánh tay anh bị khuyết tật nhẹ do
bẩm sinh thì con cái anh chắc chắn sẽ có cánh tay lành mạnh. Nếu
một lực sĩ điền kinh Thế vận hội có những bắp chân rất nảy nở
thì không nhất thiết con cái ông ta cũng sẽ có những bắp thịt
cẳng chân phát triển như cha.
Ứng dụng học thuyết gen vào sinh học,
vào y học, giới nghiên cứu đã đạt được những thành công rất
ngoạn mục trong các lĩnh vực phòng ngừa điều trị một số bệnh di
truyền và sản xuất hoóc-môn hay prô-tê-in, v.v.
Nhiều nhà khoa học cổ vũ học thuyết
Mendel-Weismann-Morgan đã lãnh giải Nobel Y học và Sinh lý học
qua những công trình ngoạn mục liên hệ đến nhiễm sắc thể, đến
gen, đến hệ gen:
1933: Thomas Hunt Morgan;
1958: George Beadle, Joshua Lederberg, Edward Tatum;
1962: Francis Harry Compton Crick,
James Dewey Watson, Maurice Hugh Frederich Wilkins;
1965: André Lwoff, Jacques Monod,
Francois Jacob;
1969: Alfred Day
Hershey, Max Delbrück, Salvador Luria;
1978: Wener Arber, Daniel Nathans, Hamilton Smith;
1980: Jean Dausset, George David Snell, Baruj Benacerraf;
1983: Barbara Mc Clintock;
1985: Josef
Goldstein, Michael Brown;
1993: Richard
Roberts, Phillip Sharp;
2002: Brenner
Sydney, John Sulston, Robert Horvitz.
Jacques Monod (Nobel 1965) đã từng
tranh luận kịch liệt với những chuyên gia sinh học, di truyền
học người Pháp thân cộng hay cộng sản để chống lại lyssenkisme
vào mùa hè 1948. Cái vòng kim cô ý thức hệ cộng sản, qua
Lyssenko, đã không tròng được lên đầu những người có đầu óc sáng
suốt, có lương tri lành mạnh. Tại Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức
cũ), dưới sự lãnh đạo dũng cảm của nhà khoa học Hans Stubbe,
người ta chỉ giảng dạy sơ sài học thuyết Lyssenko tại các trường
học, coi như một biện pháp đãi bôi trong khi trên nông trường,
trong phòng thí nghiệm, học thuyết Lyssenko không hề được đá
động đến. Kết quả, năng suất ngũ cốc của Đông Đức vượt trội hẳn
Nga Xô và Cộng hoà Dân chủ Đức vẫn giữ ngôi vị quán quân toàn
châu Âu về sản xuất hạt giống. Còn ở Việt Nam? Tất nhiên
Lyssenko là thần tượng; đến nỗi Giáo sư Bác sĩ Tôn Thất Tùng
cũng từng trồng ngô theo học thuyết Lyssenko. Trong cuốn tự
truyện Đường vào khoa học của tôi, Nhà Xuất bản Thanh niên, Hà
nội, 1978, trang 60, ông Tôn Thất Tùng cho biết: “Tôi cũng
thử trồng ngô theo lý luận Lit-xanh-cô: tôi gieo rất dầy, nhưng
ngô lớn lên có bắp rất nhỏ, và hạt rất thưa.” Ít nhất ông
Tôn Thất Tùng không lừa bịp khi cho biết như vậy.
Tín lý “lượng biến thành chất” do bản
tính bất khả tư nghị của tín lý đó trong hệ ý thức mác-xít, cung
cách định nghĩa “chất lượng” về khía cạnh là một phạm trù triết
học duy vật biện chứng, đã nhuốm máu khoa học gia Liên xô cũ
dưới thời đại hung thần Staline. Trong toàn bộ khối cộng sản –
kể cả nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – thì “lượng biến thành
chất” đã góp phần xây dựng nên một nền khoa học ngu dân, bịp
bợm, xảo trá nhưng lại ngông cuồng, ngạo mạn, kiêu căng với
những thần tượng được tôn sùng chiêm ngưỡng. Bên cạnh
Lư-xanh-cô/Lit-xanh-cô của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Xô viết, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên có Kim Phượng Hán
còn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì có Nguyễn Thiện Thành.
04/01/2019
BS
Trần Văn Tích
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Xuân Kỷ Hợi. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tvt chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu,
January 4, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang