Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Xuân
Tác giả:
Đỗ Duy Ngọc
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Nhà
hắn nằm sau lưng nhà tôi. Hắn là thằng lai Tây, hơn tôi đâu ba
tuổi. Hắn sinh năm 1947 thì phải. Hắn có bố đàng hoàng chứ không
phải là thằng con lai hoang. Hắn từng khoe giấy khai sinh làm từ
lúc hắn mới sinh, bố hắn là quan ba Pháp, là Capitaine quân đội
Pháp. Cũng là thứ dữ chứ chẳng phải thường đâu. Sinh ở Hà Nội di
cư vào Nam 1954. Mẹ hắn là một phụ nữ đẹp, da bà trắng, mũi cao
thon như người Nhật với đôi mắt ướt. Bà lại thường mặc yếm và cái
váy đụp như người đàn bà nông dân Bắc bộ nhưng không che hết nhan
sắc của bà. Hắn kế thừa nước da trắng, mũi lõ mắt xanh và thân
hình to lớn của giống Tây, lại hưởng chút nhan sắc của mẹ nên hắn
là thằng đàn ông rất đẹp trai. Cả xóm gọi hắn là thằng Lai. Hắn
đẹp không thua gì tài tử Alain Delon, một diễn viên điện ảnh nổi
như cồn thời ấy nên tôi gọi hắn là Alain Delai. Hắn cũng khoái
được gọi thế với một niềm hãnh diện. Hắn bảo bố hắn bị bắt làm tù
binh của Việt minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ, sau đó được về
cố quốc, bỏ mẹ con hắn lại đi tàu há mồm vào Nam.
Hắn sống cùng mẹ với một ông bố dượng
trong căn nhà khá rộng nhưng lúc nào cũng tối om om. Mẹ hắn làm
nghề đúc đậu khuôn. Những miếng đậu của bà lúc nào cũng chắc, beo
béo. Nhất là những khuôn đậu chiên, vàng dòn ở bên ngoài, mềm mại
ở bên trong. Những miếng đậu nóng hổi vừa mới rời chảo mà chấm
với chén nước tương đầy ớt trái thì ngon rụng rời. Ký ức tuổi nhỏ
của tôi ở xóm bến xe Chợ Cồn đầy những bánh đậu khuôn dòn béo ấy.
Bố dượng hắn đúng phong cách công tử Hà
thành, ông chẳng làm ăn gì, lại nghiện thuốc phiện. Tôi không
quên được cái phong thái vừa lịch lãm vừa phớt đời của ông. Ông
cao lắm, chắc phải mét tám, nhưng gầy, vai so ngang của người
nghiện thuốc lâu năm. Tôi nhớ mãi ông vì ông giống y chang hình
nhà văn Vũ Trọng Phụng trong cuốn sách gì đó mà lâu quá tôi quên
mất. Mà tôi thì khoái đọc mấy cái phóng sự rất đời của nhà văn
này hồi mới vào lớp nhất dù ba tôi cấm triệt, bắt gặp tôi đọc
loại sách ấy là đánh đòn nặng tay với những chiếc roi mây.
Đó là hình ảnh của một người đàn ông
với khuôn mặt gầy xương, má hóp, cổ quấn chiếc khăn kẻ ca rô.
Khuôn mặt ông bố dượng hắn đấy. Ra ngõ ông đội thêm cái mũ phớt
nỉ hoặc chống cây baton lên nước bóng. Hắn có vẻ sợ bố dượng,
nhưng trong ánh mắt xanh xanh của hắn có thoáng chút thù hận
không nói ra.
Hắn là thằng nghịch phá nhất xóm, hình như đứa con lai nào cũng
thế. Hắn lớn con, liều lĩnh, chẳng biết sợ ai nên đám trai trẻ
quanh vùng đều tránh không dám gây sự với hắn. Xóm tôi ở là xóm
bến xe Chợ Cồn, dân du đãng tứ xứ tụ về, dân tài xế, lơ xe toàn
là dân giang hồ, thế mà ai cũng sợ hắn. Hắn liều lĩnh, bất chấp,
trong mọi cuộc đấm đá, hắn là thằng đi đầu, xông vào trước, luôn
hỗ trợ cho mấy thằng yếu thế hơn. Hắn liều, nhưng chơi đẹp, không
bao giờ ăn hiếp kẻ thế cô, không bao giờ đánh tán mạng kẻ thù.
Đánh gục đối thủ, hắn thường xốc nách chúng lên, cho ngồi dựa vào
tường, lấy nước, mang bia cho uống, lấy khăn ướt lau mặt cho.
Bởi thế, những tay hảo hớn bến xe đã
từng đụng độ với hắn một lần thì đâm ra phục hắn, xem hắn như đại
ca. Nhưng hắn không muốn làm đại ca, hắn chỉ ra tay khi thấy
chuyện bất bình. Đám cảnh sát ở ngã tư Chợ Cồn cũng ngán hắn. Có
lần tay cảnh sát ức hiếp bà già bán rau ở lề đường, hắn bay từ xa
đá vào ngực tay cảnh sát làm y bổ ngửa, hắn bảo không được ức
hiếp người nghèo, có giỏi thì chơi tay đôi với hắn. Xong nó kéo
tay tên cảnh sát vào quán bún bò bà Hưng ngay nơi ngã tư, kêu bún
bò xí quách và bia nhậu. Thế là xong.
Khi tôi vào tuổi mới lớn, khoảng mười
ba, mười bốn thì hắn đã là một thanh niên vạm vỡ. Hắn rất thích
chơi với tôi, hắn bảo hắn khoái cái kiểu sống của gia đình tôi.
Tuy là một thằng rất ba trợn, nhưng hắn lại là một thằng rất tình
cảm. Hồi đấy, tôi đang tập đàn mandoline, cũng chỉ biết lõm bõm
thôi, nhưng tối tối không có chuyện đi đâu hắn lại rủ tôi ra đầu
ngõ, dưới tàng cây trứng cá, đàn cho hắn nghe. Hắn chỉ thích độc
một bài của nhạc sĩ Đặng Thế Phong, bài Giọt mưa thu. Thế mới lạ.
“Ngoài
hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Trời
lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi
Nghe
gió thoảng mơ hồ trong mưa thu
Ai khóc
ai than hờ!
Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành
như nhủ trời xanh
Gió ngừng đi
mưa buồn chi
cho cõi lòng lâm ly.
Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
Lòng vắng muôn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời
chân buông mau
dương thế bao la sầu.
Người mong mây tan cho gió hiu hiu lạnh
mây ngỏ trời xanh
chắc gì vui
mưa còn rơi
bao kiếp sầu ta nguôi.
Gió xa xôi vẫn về
Mưa giăng mù lê thê
Đến bao năm nữa
trời...
... Vợ chồng Ngâu thôi khóc vì
thu.”
Tôi đàn, hắn hát theo, tôi không ngờ
hắn có giọng hát hay thế. Một giọng Bắc chuẩn thật chuẩn, luyến
láy đúng điệu, nhịp phách không sai chút nào. Hắn làm tôi khá bất
ngờ, bởi tôi biết hắn có chút kiến thức âm nhạc nào đâu.
Giọng hắn thê thiết, buồn, trầm, có hồn
vía ghê lắm. Hắn chỉ hát có một bài đó. Buồn vui chi cũng Giọt
mưa thu. Đám cưới, đám ma, sinh nhật, nhậu nhẹt mà có hát là hát
Giọt mưa thu. Tò mò, tôi hỏi hắn thì mới biết là ngày xưa ở Hà
Nội, lúc tuổi mới lớn, mẹ hắn là láng giềng và cũng là người yêu
của nhạc sĩ Đặng Thế Phong. Người nhạc sĩ tài hoa yểu mệnh, mẹ
hắn vì thời cuộc cũng long đong. Khi sinh ra hắn, suốt quãng đời
trong nôi, mẹ hắn chỉ ru hắn bằng một bài Giọt mưa thu. Bài hát
thấm trong máu hắn, nằm mãi trong ký ức hắn và đối với hắn, âm
nhạc chỉ có mình bài đó thôi.
Hắn rất thương mẹ, mẹ hắn ít nói, nhiều
khi chỉ một ánh mắt nhìn, hắn đã líu ríu làm theo những gì mẹ hắn
muốn. Ra khỏi nhà, hắn là thằng du côn, nhưng ở nhà, hắn là đứa
con ngoan. Hắn phụ mẹ hắn xay đậu, ép khuôn, gánh hàng ra chợ.
Nhìn hắn quấn quýt bên mẹ, thương lắm. Hắn bảo đời mẹ hắn có lắm
nỗi buồn, hắn không muốn làm cho mẹ hắn thêm buồn nữa.
Hắn nói thế mà mười tám tuổi, hắn bỏ
nhà đi lính sau một trận cãi nhau bốc lửa với ông bố dượng. Mẹ
hắn buồn ghê lắm, nhưng cũng đành, bên chồng, bên con, biết làm
sao?
Hắn đi
lính nhảy dù. Ngày gặp lại hắn với bộ đồ rằn ri, cái mũ bê-rê đội
lệch, tôi thấy hắn đẹp quá. Bộ đồ lính ấy trong thân hình thước
tám hai, với mấy chiếc lựu đạn mini bên hông, đôi bốt-đờ-sô dềnh
dàng trông nó oai hùng quá. Nhìn hắn chẳng khác chi tay lính Mỹ.
Tôi chào hắn như mọi khi: Chào Alain Delai, hắn cũng chào lại như
mọi lần gặp nhau: Chào thằng em bô giai.
Hai thằng ôm nhau. Từ đó, sau những đợt
hành quân, về hậu cứ là hắn dẫn tôi đi ăn chơi. Tôi vừa mới tuổi
mười lăm, cao mét sáu lăm, mới đứng ngang nách hắn. Hắn dẫn tôi
đi mấy cái bar ở ngã năm. Đó là những nơi tôi chưa từng vào và
cũng chưa từng biết. Hắn giúp tôi khám phá thế giới ấy. Thế giới
của rượu, bia, thuốc lá và gái. Hắn đi đến đâu, mấy em cave theo
đến đấy. Hắn đẹp quá mà. Người đàn bà nào lại không thích trai
đẹp, kể cả những người đàn bà làm đĩ. Tôi đi với hắn, ngoan ngoãn
như đứa em hưởng sái của thằng anh. Đi đến đâu hắn cũng được các
em bao, rượu tràn trề, khói thuốc mờ mịt. Cũng có lần vì ganh tức
mấy em, đám lính không quân gây sự, hắn đánh đấm một trận ra trò
phải vào bệnh viện còn tôi thì trốn nhủi trong cầu tiêu. Ba tôi
biết chuyện, cấm triệt, không cho tôi đi chơi với hắn. Nhưng đôi
lúc ngồi đàn cho hắn hát Giọt mưa thu, ba tôi cũng chẳng nói gì,
có lần khen hắn hát hay. Hắn cũng rất kính Ba tôi, mỗi lần gặp
đều khoanh tay thưa ông Đốc rất đàng hoàng.
Năm 1966, lính vùng một của tướng
Nguyễn Chánh Thi liên minh với Phật giáo miền Trung ly khai.
Tướng Kỳ đem quân ra dẹp. Lực lượng nhảy dù làm nòng cốt dẹp
loạn. Khu vực xóm tôi là trung tâm của cuộc giao tranh. Lính ông
Kỳ từ ngã tư Chợ Cồn đánh thẳng đường Ông Ích Khiêm tiến tới chùa
Tỉnh hội, trung tâm đầu não của cuộc đấu tranh. Súng nổ ì xèo.
Lần đầu tiên tôi biết mùi của đạn bom, của chiến tranh. Hai quả
M79 rớt ngay sân nhà tôi, tường lũng tứ tung. Cả nhà sợ quá dắt
díu nhau chạy vô bàu Thạc Gián. Đêm tá túc nhà người quen, không
dám ngủ, nhìn ra trời thấy đạn bay líu ríu, chỉ mong trời mau
sáng. Đến sáng thì êm, khoảng trưa thì nghe tin hắn bị thương,
một viên đạn M79 quét ngang chân hắn, hai chân nát bét phải cưa
đến đầu gối, đang nằm ở Tổng y viện Duy Tân, chỗ làm việc của Ba
tôi. Mẹ hắn qua gặp Ba tôi, nhờ giúp.
Tôi vào gặp hắn, hắn xanh xao vì mất
nhiều máu, hai chân băng trắng xoá. Tôi chào: Chào Alain Delai.
Hắn cầm tay tôi thều thào với nụ cười méo xệch: Chào thằng em bô
giai. Hắn bảo hắn không sao, nhưng chỉ thương mẹ hắn, chắc mẹ
buồn lắm. Mẹ hắn chỉ biết khóc. Đi chiến đấu bao lần không sao,
cuối cùng lại bị thương vì đạn của phe mình. Hắn chửi đụ mẹ mấy
thằng rách việc, bày đặt đấu tranh khiến hắn mất cặp giò. Thà
ngoài chiến trường nó không tức. Đây lại tàn phế vì đồng đội, có
khốn nạn không?
Từ đó, hắn trở thành kẻ cụt chân, di
chuyển bằng đôi nạng, hắn vẫn đẹp, nhưng vẻ đẹp của kẻ thiếu đôi
chân. Hắn vẫn là thằng giang hồ, đấm đá với đôi nạng, tuy không
còn sức mạnh như xưa nhưng hắn vẫn là ông trùm của khu bến xe Chợ
Cồn. Tôi chuẩn bị thi Tú tài, nên cũng ít gặp hắn, thỉnh thoảng
lại đàn cho hắn hát Giọt mưa thu, giọng hắn lại buồn hơn.
***
Năm 1968, Mậu Thân, tôi đậu Tú tài hai,
đi học xa nhà, đi ta bà thế giới, chẳng có dịp về lại cái xóm bến
xe của một thời nên cũng không gặp hắn suốt cả mấy chục năm trời.
Thời thế nhiều đổi thay, đời tôi cũng trải nhiều biến cố. Sau
1975, ba mẹ và các em tôi vào hết Sài Gòn, rồi lần lượt phân tán
khắp nơi. Tôi chẳng còn ai ở Đà Nẵng nên cũng chẳng hẹn về nên
chẳng biết tin tức gì về hắn.
Năm 1985, trong một dịp công tác, tôi
trở về xóm cũ. Thay đổi nhiều, người cũ còn lơ thơ, toàn người
mới đến. Hỏi thăm mới biết hắn đã đi Pháp theo diện con lai từ
năm 1980. Mẹ hắn tự tử chết sau ngày hắn lên phi cơ đến Pháp. Bà
tự tử bằng sái thuốc phiện với giấm thanh lấy ra từ cái bàn đèn
lưu niên của ông bố dượng hắn. Tôi lại nhớ những miếng đậu khuôn
dòn tan của bà, tôi lại nhớ cái nhan sắc rất Bắc của bà, một nhan
sắc lầm lũi. Tôi nhớ đến lần đầu tiên tôi thấy bà mặc chiếc áo
dài nhung đen với chuỗi hạt ngọc xanh nơi cổ và chiếc khăn quàng
hững hờ trong một dịp Tết năm nào đó. Một hình ảnh của người phụ
nữ Việt Nam của một thời đã đi qua. Một hình ảnh rất đẹp đọng mãi
trong đầu tôi. Đã nhiều lần tôi muốn vẽ một bức tranh như thế mà
vẫn chưa vẽ được vì cái hồn cốt của nhân vật cũng chưa tìm lại
được. Bây giờ bà đi xa rồi. Cầu mong bà yên nghỉ. Cũng xong một
đời người.
Tôi
cũng cầu xin bạn tôi, Alain Delai của tôi sẽ có một cuộc sống
bình yên nơi quê nội, chắc là chúng ta sẽ chẳng có dịp để gặp
nhau nữa rồi.
***
Năm 2010, tôi trở lại nước Pháp để hoàn
tất một số giấy tờ cho bản thân và gia đình. Chuyến đi dự trù ba
tuần lễ, vì tôi nghĩ thủ tục hành chánh rất khó khăn, nhưng không
ngờ chỉ trong một tuần lễ, mọi việc hoàn tất suông sẻ. Rảnh thì
giờ, tôi đi lang thang.
Tôi đến lại những chốn xưa của một thời
long đong và cô đơn ở xứ người. Có nhiều nơi chẳng chút đổi thay
dù mấy chục năm đã trôi qua. Tôi đứng trên đồi Montmartre, một
khu phố của Paris, quả đồi lớn thuộc Quận 18. Nơi đó là nơi tập
trung của nhiều họa sĩ nổi tiếng, cộng với nhà thờ Sacré-Cœur,
các con phố nhỏ, quán cà-phê, nhà hàng... để nhớ những ngày lang
thang vẽ chân dung cho du khách kiếm sống dưới những cảnh tuyết
mùa đông ẩm ướt.
Tôi tìm về khu Quartier Latin Quận 5
thành phố Paris. Nằm ở tả ngạn sông Seine, khu có nhiều trường
đại học nổi tiếng thế giới. Ở đây còn có Điện Panthéon, cung điện
Luxembourg trong vườn Luxembourg, Sorbonne, Bảo tàng Trung Cổ...
Nơi đây đầy khách du lịch bốn phương tụ
về. Tôi đi bộ trên phố Huchette nằm cạnh sông Seine, hai bên đầu
đại lộ Saint-Michel với các con phố nhỏ, lát đá... khu này có rất
nhiều nhà hàng, quán cà-phê, cùng các quán bar và nhiều gallery
nghệ thuật. Ngày xưa nghèo, đi ngang mà chẳng dám vô. Bây giờ có
đủ tiền để làm thực khách thì đi một mình, cảm thấy buồn nên cũng
chẳng muốn vào.
Lang thang mãi cũng chán, tôi đi khám
phá các metro ở Paris. Métro Paris là một trong những biểu tượng
của thủ đô nước Pháp, đặc trưng bởi mạng lưới các tuyến dày đặc,
mật độ sử dụng cao và các bến tàu điện ngầm được trang trí theo
phong cách Art nouveau. Tôi làm nghề mỹ thuật nên rất ham tham
khảo và chiêm ngưỡng những công trình độc đáo này.
Các bến Métro Paris trang trí theo
phong cách Art nouveau, được lựa chọn từ năm 1900. Ngay cả trong
những lần tu sửa và mở rộng sau này phong cách đó vẫn được tôn
trọng. Các vách và trần bến thông thường được lát bằng các viên
gạch sành hình vuông hoặc chữ nhật nhỏ màu trắng. Một số bến được
trang trí cầu kỳ hoặc có phong cách rất khác biệt.
Tôi ghé Bến Louvre-Rivoli tuyến 1 mang
tên phố Rivoli và Bảo tàng Louvre vào buổi sáng, trời chưa có
nắng. Bến được trang trí bằng những bản sao các tác phẩm nổi
tiếng của Bảo tàng Louvre, trưng bày trong các hốc tường được
chiếu sáng rất đẹp. Chán, tôi lại về Bến Arts et Métiers tuyến
11, vốn mang tên của Bảo tàng Kỹ nghệ Paris (Musée des arts et
métiers), khu này toàn phủ bằng những rãnh đồng chạy suốt.
Lại định ghé qua Bến Pont Neuf tuyến 7
đặt theo tên cây cầu Pont Neuf. Nằm gần La Monnaie de Paris, chỗ
in tiền, nhưng không đến, ngồi nghỉ nhìn đám bồ câu bay.
Loanh quanh toàn thấy quảng cáo. Các tờ
quảng cáo được dán trong các ô có viền trang trí và ký hiệu hãng
khai thác.
Đang mỏi chân định nghỉ, nhưng rồi lại kêu taxi chạy lăng quăng.
Trôi dạt về Gare du Nord. Rổi qua metro Crimée lúc nào không hay.
Không biết sao mình lại giạt về đây,
bởi khu này lộn xộn lắm, dễ bị móc túi, người đi lại nhiều lại
lắm ăn xin. Nhưng rồi lại tự nhủ, biết muôn mặt của metro Paris
cũng là điều thú vị nên dù chân đã mỏi cũng gắng thêm một vòng.
Người nườm nượp, ồn ào. Con đường dẫn xuống hầm chật chội. Hai
bên có mấy người ăn xin, người đàn, kẻ hát, tiếng trống bập bùng.
Một không khí lạ lùng và cũng độc đáo. Trời về chiều, sương xuống
sớm, không khí hơi lành lạnh. Đã cuối đông rồi.
Tôi dừng chân, đốt điếu thuốc, khói
thuốc tuôn mờ đục. Bỗng trong mớ âm thanh ồn ã ấy, tôi nghe loáng
thoáng một giai điệu của bản nhạc Việt Nam. Thoang thoảng thôi,
xa xa gần gần như sương khói. Nhưng chắc chắn là một bài hát
Việt.
Tôi đi
men theo tiếng hát và bắt gặp nột ông Tây già, râu ria lởm chởm,
tóc phủ gáy ngồi trên chiếc xe lăn đưa hai chân cụt đến mỏm gối.
Ông nhắm mắt hát say sưa bài Giọt mưa thu, hát đi rồi hát lại.
Chiếc mũ trước mặt ông cũng có vài đồng tiền giấy và ít tiền xu.
Nghe bài hát tôi hình dung ra hắn và tôi đoan chắc chắn là hắn
chứ không ai khác. Chỉ có hắn, Alain Dalai mới hát Giọt mưa thu
như thế, với giọng như thế và say sưa như thế. Tôi chạy nhanh đến
bên lão và hét lớn Chào Alain Delai. Hắn hé mắt, ngập ngừng, nhìn
rất lâu vào khuôn mặt tôi, rồi hắn cũng hét lớn Chào thằng em bô
giai. Hai đứa tôi ôm nhau, cả hai đều khóc. Không ngờ còn được
gặp nhau, mà lại gặp nhau giữa Paris khi tuồi đã già, thời gian
chẳng còn bao nhiêu nữa.
Tôi bảo hắn kiếm gì ăn tối, hắn dẫn tôi
vào một quán be bé trong con đường nhỏ lát đá với những hàng cây
leo. Quán vắng, kêu mấy món ăn, hai chai bia lạnh, hắn kể một
đoạn đời mình.
Hắn qua Pháp trong những đợt đầu tiên
của chính phủ Pháp giải quyết con lai còn lại ở Việt Nam. Nhờ hắn
có giấy khai sinh và một số giấy tờ chứng minh, hình ảnh khác nên
nó nhờ các tổ chức xã hội tìm lại bố ruột một cách dễ dàng. Một
năm sau khi đến Pháp, hắn được gặp bố. Bố hắn đã già, nhưng rất
thương yêu hắn, đó là những ngày hạnh phúc nhất của đời hắn ở
nước Pháp. Gia đình bố hắn ở Marseille. Đó là một thành phố
[hải]
cảng của nước Pháp, là thành phố lớn thứ hai của Pháp, sau Paris,
và là vùng đô thị lớn thứ ba của Pháp. Hạnh phúc được hai năm thì
bố hắn qua đời. Bố hắn có để lại di chúc, có phần thừa kế của
hắn. Nhưng hắn lại không đọc được chữ Pháp, nên các anh chị em
cùng cha khác mẹ của hắn bảo sao thì nó nghe vậy. Họ bảo nó không
được hưởng thừa kế, không có quyền gì trong tài sản bố hắn để
lại. Họ giao cho hắn mười ngàn quan, gọi là trợ cấp cho hắn để
hắn ra đi. Thân cô thế cô, chữ nghĩa không biết, thân thể què
cụt, hắn ngậm đắng nuốt cay, gạt nước mắt rời khỏi nhà làm kẻ
lang thang, sống nhờ trợ cấp. Làm kẻ vagabond trôi giạt từ
Marseille về đến Paris. Chờ ngày thành tro bụi giữa thành phố hoa
lệ này. Mỗi ngày ngồi ở metro hay mấy quảng trường, hát Giọt mưa
thu mấy chục năm rồi, để nhớ về mẹ hắn, để nhớ về Việt Nam, một
chốn quê không còn chỗ để về.
Đêm đó, lúc chia tay, dù đã say khướt,
bởi tôi có biết uống đâu, hai đứa tôi ôm nhau ở cửa quán ăn, tôi
lè nhè Chào Alain Delai. Hắn siết vào vai tôi Chào thằng em bô
giai. Tôi thấy vai mình ướt đẫm nước mắt. Tôi đẩy xe lăn của hắn
một đoạn đường trong khi chờ taxi. Hai thằng già vừa đi vừa ngêu
ngao bài Giọt mưa thu, tiếng hát hoà trong nước mắt. Những giọt
mưa thu Việt Nam nhỏ xuống con phố nhỏ giữa khuya của Paris đang
cuối đông. Lúc tôi leo vào taxi, hắn ngoái đầu lại, đưa tay lên
và nói nhỏ Au revoir mon ami.
Hôm sau tôi trở lại Gare du Nord, không
thấy bóng dáng hắn đâu. Tôi qua Gare de l’Est, một khu cũng lộn
xộn không kém, cũng không thấy hắn. Hắn biến mất tăm. Những ngày
còn lại ở Paris, tôi đi khắp nơi để tìm hắn, nhưng hắn đã biến
mất như cây kim rơi vào đống sắt vụn. Biết đâu tìm.
Alain Delai! Với cái chân cụt đấy, bạn
sẽ đi về đâu mà tìm không thấy?
Thôi thì cũng bắt chước hắn, tôi đến
bên con đường lát đá có hàng dây leo tường vi, ngước nhìn lên
trời và nói nhỏ Au revoir mon ami!
14/7/2010
Bastille Day
Lễ Quốc khánh Pháp
Đỗ Duy Ngọc
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Xuân Kỷ Hợi. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
February 4, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang