Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
Phiếm
Chủ đề:
MA VÀNG
Tác giả:
Ông Năm
Người chép lại:
Tràm Cà Mau
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mãi đến bây giờ, khi ngồi kể lại
chuyện này, tôi vẫn không tin đã gặp ma. Con
“Ma–Tìm–Vàng” ở
thành phố Yreka tại miền Bắc tiểu bang California. Thành phố cổ
lỗ này được mọc lên vào năm 1851, khi cơn sốt tìm vàng cháy bỏng
miền đất cơ hội của Mỹ, và dân tìm vàng ùn ùn đổ về đây. Cho đến
ngày nay, dân số cũng chỉ có khoảng bảy ngàn người.
Khi tôi tỉnh dậy trong bệnh viện của
thành phố Yreka, và kể cho cô y tá nghe chuyện gì đã xảy ra đêm
qua, thì cô tái mặt và tỏ vẻ e dè sợ sệt. Cô nói rằng, tôi đã gặp
con “Ma–Tìm–Vàng”. Cứ đúng ba năm, con ma xuất hiện môt lần, và
ám hại du khách. Cảnh sát phải khiêng xác vào bệnh viện, may mắn
thì không can gì, xui thì liệt nửa người, méo miệng, xui hơn thì
về nghĩa địa nằm.
Trước khi về hưu chừng sáu tháng, tôi
lùng tìm một chiếc xe thùng, đặt mua từ Âu Châu, loại “Eurovan
Camper”. Xe nhỏ, gọn, bốn bánh thôi, nhưng bên trong trang bị đầy
đủ cho vài ba người có thể ăn ở được khi đi du lịch xa nhà. Có
giường ngủ, bếp nấu, bàn ăn, ghế ngồi, tủ lạnh, máy điều hoà
nhiệt độ mát và ấm, có cả phòng tắm và bồn cầu vệ sinh. Thứ xe mà
hãng sản xuất quảng cáo là “Một ông, một bà, một chó, một xe, và
chẳng có việc làm.”
Tôi lái xe ra đi, thời gian giang hồ
vặt này là vô hạn định. Đi cho đến khi hết vui, hoặc hết đi tiếp
nổi, thì quay về nhà. Khởi đi từ vịnh San Francisco lên hướng
bắc, định qua tiểu bang Oregon, Washington, rồi băng dọc miền Tây
Canada, và đi thẳng đến Alaska. Nơi nào phong cảnh đẹp, vui thì
đến, ở lại một vài hôm. Nơi nào có bạn bè thì ghé thăm, hàn
huyên, nói chuyện, ngâm thơ, uống trà, nhấp rượu. Không có thời
khoá biểu, không có mục tiêu định sẵn. Cứ nhởn nhơ, thong thả, đi
không cần đến, và đến không cần gấp.
Một người bạn nói rằng, đi chơi như thế
này thì cũng đã thú vị, nhưng nếu rủ thêm được một bà nào đó cùng
đi theo, thì cuộc hành trình sẽ vui hơn gấp nhiều lần, và đỡ cô
đơn. Tôi trả lời rằng, anh nói đúng. Mấy ngày đầu thì có lẽ vui
vẻ và lãng mạn lắm. Nhưng chừng một tuần sau, thì sẽ cảm thấy vô
cùng khó chịu, vì bị chỉ huy, rằng “phải đi nơi này, không đi nơi
kia, phải ăn tiệm này, không ăn tiệm kia, và bị nạt nộ, bị gắt
gỏng, đủ điều, đủ thứ”. Ngoại trừ gặp được một người bạn gái hết
sức dịu dàng, biết điều và nhường nhịn. Anh bạn tôi cười và nói
đùa rằng, nếu mình không đụng vào sợi dây lưng quần của họ, thì
họ lấy quyền gì mà gắt gỏng la mắng, chỉ huy mình?
Thành phố cổ tích Yreka nằm trên lộ
trình. Không thể bỏ qua được. Tôi rẽ vào phố khi nắng đã nghiêng
chênh chếch về hướng tây. Thả xe chạy chầm chậm, tôi đi quanh từ
đường này qua đường khác. Nhà cửa thấp, xưa cũ cả hơn trăm năm,
sơn màu loè loẹt. Ở ngõ vào thành phố, có bức tượng đồng to lớn,
hình một ông râu ria xồm xoàm, đội nón rộng vành, mặc quần treo,
đi giày ống, tay áo xắn cao. Ngồi chồm hổm trên phiến đá lớn,
kiểu “ngồi nước lụt” của các anh chị cán bộ cộng sản, hai tay ông
cầm cái sàng to, đang đãi vàng. Bên cạnh ông là một con lừa đồng,
lưng và hông nó chất đầy và treo tòn ten đủ các thứ lỉnh kỉnh.
Đây là biểu tượng của những kẻ đầu tiên đến khai phá và lập nên
thành phố này.
Tôi vào khu phố cổ, cũng là phố chính.
Đậu xe lại trên đường Miner. Có cảm giác như đi về quá khứ hơn
trăm năm cũ. Hình ảnh giống như trong những phim xưa, phim đen
trắng mập mờ cà giật, xem nhức mắt. Tôi lội bộ loanh quanh khắp
khu phố, chỉ có bảy phút là đã hết nơi đi.
Tôi ghé vào bảo tàng viện “quặng vàng”
để xem. Cái “viện” này, không rộng hơn cái phòng ngủ của tôi bao
nhiêu. Nhưng tôi thích thú khi thấy và biết được các thứ vàng
nguyên thủy, như vàng bụi, vàng cốm, vàng hạt đậu, vàng cục, vàng
miếng, đủ các loại hình thể nhỏ to, có xù xì, có trơn láng...
Miếng vàng nguyên thuỷ to nhất, với hình thể giống như cục phân
chó bị đạp dẹp. Tôi thầm nghĩ, sau năm 1975, vớ được một mớ vàng
này, thì dư sức đóng tiền cho toàn gia đình cả hơn chục người đi
vượt biên.
Vào
một quán cà phê, bên trong trang hoàng bằng các dụng cụ tìm và
đãi vàng ngày xưa. Tôi ngồi gác chân lên ghế nhâm nhi từng ngụm
đắng, và cứ tưởng tượng như mình là một kẻ phóng đãng giang hồ đi
tìm vàng ngày xưa. Cứ tưởng tượng cho vui, không tốn thêm một xu.
Dù trong xe có đủ thức ăn sẵn, nhưng
tôi cũng đi quanh tìm một quán đặc biệt, để thưởng thức cái cảm
giác và hương vị đi về quá khứ gần trăm năm rưỡi xa xưa. Món bánh
mì với thịt bò nướng than theo kiểu cũ, ăn ngon, đậm đà. Tôi kêu
thêm mấy ly rượu, ngồi nhâm nhi, nhìn tranh cao bồi treo trên
tường, nghe nhạc rè rè từ chiếc máy hát quay tay. Tôi thầm nghĩ,
mình may mắn, đến Mỹ vào thời sau này, đã văn minh, đầy đủ tiện
nghi, lại có an toàn. Nếu đến đây vào trăm năm trước, thì không
chừng đã bị mấy tay cao bồi bắn nát thây từ lâu rồi.
Tôi để trí não mơ mộng, ngồi lì uống
bia tì–tì cho đến khi chủ quán lịch sự nhỏ nhẹ cho biết đã đến
giờ đóng cửa. Tôi loạng quạng đi ra, quên mất phương hướng, không
nhớ mình đã đậu xe nơi đâu, đường nào. Nhưng cứ yên tâm, vì cái
phố nhỏ như thế này, thì đâu cần chi nhớ chỗ, đi quanh thế nào
cũng tìm ra xe. Tôi quành hai vòng, khi đi qua viện bảo tàng về
quặng vàng, dưới bóng đèn vàng vọt lờ mờ, tôi thấy một ông gìa
ngồi trên băng đá, tay ôm đàn, hát nhạc đồng quê với giọng khàn
khàn.
Ông già
này râu ria tua tủa như chổi chà, tưởng như chưa bao giờ cắt tỉa,
đội nón rộng vành, mang quần vải dày có dây treo, đi giày ống, cổ
quàng cái khăn có thắt xéo. Giữa đêm muộn, đường xá vắng hoe, sao
ông cụ ngồi đàn hát một mình, có tâm sự chi buồn chăng? Hay là
cũng đã say xỉn rồi? Tôi tò mò đứng lại nghe tiếng đàn đánh nhịp
cho câu hát. Tiếng hát buồn rười rượi với giọng khàn giữa đêm
khuya:
– “Nhớ
thương em làm tan nát tim anh. Đau đớn lòng anh. Nhớ thương con,
con còn thơ dại. Thôi em nín đi, nín đi, đừng khóc nữa. Anh hôn
em đây. Anh lên đường. Anh ra đi, chỉ một thời gian ngắn thôi.
Rán sức đào, xới, tìm. Nhẫn nại, chăm làm. Rồi sẽ trở về. Ôi vàng
California, vàng California. Anh sẽ về. Anh sẽ về. Rồi em sung
sướng như công nương. Anh mua cho em váy xoè màu huyết dụ, mua
cho em nón rộng có gắn lông công, đôi giày cao gót số tám...”
Tứng từng tưng, tứng từng tưng. Tiếng
đàn đệm nhịp dập dồn. Ông cụ hát gào tiếp:
– “Ta lội sông đãi vàng, ta xẻ núi moi
vàng. Ta đội nắng lửa trên lưng. Chôn chân trong tuyết cóng. Vàng
ơi là vàng ơi. Vàng ở khắp nơi, mà sao tìm mãi không ra, đãi mãi
không thấy. Vàng ơi, vàng ơi. Vợ con thương nhớ ơi, ở nơi xa xôi
nước mắt có ướt đẫm khăn buồn mỗi đêm, mỗi đêm...”
Tưng tưng tứng từng tưng.
Ông cụ khoát tay về hướng tôi, nói:
– “này, bằng hữu từ đâu đến? Có phải đi
đào vàng không? Hà hà, giấc mơ đẹp tuyệt vời, nhưng e rồi cũng
tan thành mây khói mà thôi. Hãy ngồi xuống đây, uống cùng ta một
vài chén rượu giao hữu, cho ấm tình tương ngộ hôm nay.”
Trăng lưỡi liềm lờ mờ chênh chếch trên
trời cao. Tôi thấy hứng chí, bèn ngồi xuống bên cạnh ông cụ, đưa
tay đón chén rượu, nốc một hơi uống cạn. Cả hai cùng cười, tình
thân đến rất mau qua chén rượu. Sao mới gặp mà tôi thấy như đã
thân tình từ tiền kiếp.
Ông cụ nói tiếp:
– “Hát với tôi, chúng ta cùng hát cho
tàn đêm nay mới thôi. Hát cho khản cổ, hát cho hết hơi, hát cho
nguôi buồn nhớ, cho xoá bớt dĩ vãng đau đớn, nhọc nhằn, gian
khổ.”
Tôi cười
nói:
– “Thưa
ông anh, hát thì hát, nhưng buồn đau thì không. Tội chi mà buồn.
Cứ vui hoài. Được cũng vui, mà mất cũng vui, có thì vui nhiều, mà
không cũng cứ vui. Ray rứt khổ đau không giải quyết được gì cả.”
Tôi gân cổ lên hát theo ông già, ông
hát câu nào, tôi hát theo câu đó. Tay ông vẫn liên tục đệm đàn
rào rào và vỗ mặt đàn rầm rầm làm nhịp. Ông liên tục hát những
khúc nhạc đồng quê ngày xưa, thời của những kẻ đi tìm vàng. Vang
vang âm điệu xót xa của vợ chồng khi phân ly, của ngày tháng lao
lực nhọc nhằn, của nỗi tuyệt vọng cùng cực. Cứ hát hết một bài,
thì uống mấy hớp rượu trong bình bằng da.
Ông cụ hỏi tôi từ đâu đến đây. Tôi cho
biết từ San Francisco tới. Ông cụ cười khà khà, nói:
– “Trước khi có cơn sốt tìm vàng vào
năm 1849, thì San Francisco chỉ là một làng nhỏ hẻo lánh, chừng
vài trăm dân cư. Thế mà hai năm sau. Dân tìm vàng ùn ùn đổ đến,
nhà cửa xây cất thêm không kịp. Trung bình mỗi ngày, có ba chục
căn nhà mới. Một thửa đất xây nhà, trước đó giá chỉ 16 đô–la
thôi, mà chưa được hai năm sau, tăng lên đến 46 ngàn đô–la. Không
tin nổi. Lúc đó, mỗi ngày, cũng trung bình có hai vụ giết người.
Hừ, San Francisco của anh! Ở làm chi nơi ấy? Không biết bây giờ
giá cả nhà cửa ra sao. Coi bộ anh không phải là dân Tàu? Di cư
đến Mỹ từ bao giờ? Đến đây tìm vàng?”
– “Đúng, tôi không phải Tàu, gốc Việt
Nam. Đến Mỹ đã ba mươi năm. Tôi không tìm vàng, mà lại đi tìm tự
do.”
– “Trốn
tù vượt ngục đi tìm tự do? Tôi không biết Việt Nam là xứ nào, ở
đâu trên thế giới. Ông bạn phạm tội gì mà bị kêu án tù?”
– “Không có tội gì cả. Cũng đã được tha
ra khỏi nhà tù. Nhưng chế độ quá sức cay nghiệt, tàn ác. Đời sống
bất ổn, đầy lo âu. Không thấy ánh tương lai, và sống mà không
bằng chết, nên chúng tôi liều mạng ra đi. Gian nan và nguy hiểm,
cực khổ vô cùng, không kể xiết. Tôi đi ra biển, gần hai tuần lênh
đênh với sóng gió, bão tố, đói khát. Có hàng trăm ngàn đồng bào
tôi đã chết giữa biển khơi.”
Ông cụ nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống
đất, nói với giọng mai mỉa:
– “Hai tuần trên biển, có đáng là bao
mà kêu ca! Không bằng chút xíu xiu của bạn bè tôi, khi đi thuyền
từ miền Đông qua miền Tây nước Mỹ để tìm vàng. Mua vé tàu thủy từ
New York, đi xuống hướng Nam Cực, vòng qua Argentina, rồi đi
ngược lên hướng Bắc, để đến San Francisco. Anh biết phải đi bao
lâu không? Trung bình là sáu tháng, mà có khi đi cả một năm trời
mới tới nơi. Anh biết thời tiết trên biển vùng đó rồi chứ? Bão tố
triền miên, sóng gió dữ dằn. Rất nhiều thuyền bè bị giông tố nhận
chìm, có đi mà không có đến. Sáu tháng đến một năm lênh đênh trên
biển cho sóng gió vùi dập, ngất ngư, ói ra mật.
Khiếp nhất là tình trạng ở không, tháng
này qua tháng kia chẳng có việc chi làm cho quên thời gian, quên
buồn chán, sầu khổ. Chỉ có nằm mà mơ mộng đến vàng là an ủi mà
thôi. Ăn uống thiếu thốn. Ăn toàn thức ăn đã hư thối, bột đã mốc,
đầy giòi bọ. Không có chất tươi. Nước uống tồn trữ quá lâu, đã có
mùi hôi, tanh nhớt. Từ đó mà sinh dịch tả, hành khách chết vô số,
xác vất xuống biển. Đi thì đông, mà đến thì còn chẳng bao nhiêu.
Ôi, mãnh lực của vàng. Nó giết chết vô số người mơ mộng giàu có.”
Tôi băn khoăn hỏi:
– “Thế thì sao không đi qua kinh đào
Panama, có mau hơn không?”
Ông cụ đáp:
– “Ông bạn không biết chi cả. Hỏi câu
ngớ ngẩn. Thời đó làm chi có con kinh đào này? Nhưng cũng có rất
đông đảo kẻ tìm vàng, muốn rút ngắn thời gian hải hành gian khổ,
đi thuyền xuống Panama, rồi dùng đường bộ, băng từ Đại Tây Dương
để đến bờ Thái Bình Dương đón thuyền lên San Francisco. Những
người này tưởng là khôn ngoan, mà không qua được mệnh trời. Đoạn
đường bộ băng qua Panama tuy ngắn, nhưng họ không chịu đựng được
khí thiêng nước độc của rừng nhiệt đới, muỗi mòng, sâu, vắt. Họ
bị sốt rét, dịch tả mà chết rất nhiều trước khi đến được bờ Thái
Bình Dương.
Những kẻ may mắn còn sống sót, thì gặp vấn nạn khan hiếm thuyền
bè chịu chở họ từ đó đi lên San Francisco. Họ phải nằm lại mà
chờ. Đông đảo người cắm trại chờ, sinh ra ô uế, thiếu vệ sinh,
lại chết vì bệnh. Nhiều khi chờ đến hàng ba hoặc bốn tháng, mới
có thuyền ghé lại, chịu chở cho họ đi với giá cả vô cùng cắt cổ.
Từ Panama đến San Francisco phải trả đến 500 hoặc 1,000 đô–la cho
một người vào thời đó. Số tiền khổng lồ. Phải cắn răng mà đi. Ai
không có tiền thì nằm chờ mãi. Những khi thuyền đã quá chật, trả
bao nhiêu họ cũng không cho đi. Và vô số người khác, nóng lòng,
không chờ được, dùng thuyền không đủ tiêu chuẩn ra khơi, chết
chìm giữa biển. Bọn anh vượt biển, đâu có gian nan đến thế nhỉ?”
Tôi nghe mà cảm thương, nhưng cũng bực
mình. Đáp rằng:
– “Gian khổ như thế thì quả khủng
khiếp. Nhưng người ta đi tìm vàng, tìm giàu có. Ra đi hiên ngang,
chính thức, không ai cấm cản bắt bớ. Còn chúng tôi, đi tìm tự do,
ý nghĩa cao cả và thiêng liêng hơn nhiều. Không có thuyền nào của
chúng tôi đủ tiêu chuẩn ra khơi cả. Và nỗi nguy nan nhất là bị
lùng bắt trên bờ, nên ra đi lén lút. Bị bắn giết bởi công an xứ
tôi. Không đủ xăng dầu, không đủ nước uống và thực phẩm, máy móc
đơn sơ. Lại bị bọn Thái Lan cướp bóc, ủi chìm thuyền, hãm hiếp,
bắt cóc đàn bà con gái về bán cho các nhà thổ. Thời gian vượt
biển khó khăn không lâu, nhưng đầy gian nguy lo lắng.”
Ông cụ hỏi:
– “Tại sao nhà nước các anh đối xử hà
khắc với dân chúng vậy? Họ có cùng một màu da, tổ tiên, dòng máu
hay không? Tại sao?”
Tôi lúng túng, không biết phải trả lời
ra sao. Chỉ lắc đầu, và lòng buồn khủng khiếp khi nghĩ rằng, có
lẽ trong lịch sử, chưa có giai đoạn nào nhân dân bị ức chế, áp
bức, kềm kẹp bằng giai đoạn vừa qua. Đời sống bị xáo trộn, bất ổn
cùng cực. Tàn tệ hơn cả chục lần khi Tàu đô hộ, Tây cai trị.
Tôi thở dài nói tiếp:
– “Nhiều người trong chúng tôi, đi
đường bộ, băng qua đất Kampuchia, để vào Thái Lan, chịu không
biết bao nhiêu gian nguy, hiểm trở, và chết chóc cận kề gang
tấc.”
Ông cụ
cười gằn:
–
“này nhé, tôi kể cho anh nghe kinh nghiệm bản thân về cuộc hành
trình đường bộ băng qua hai ngàn dặm, tức hơn ba ngàn cây số
đường mòn, từ miền Đông qua miền Tây nước Mỹ. Qua đồi, qua núi,
vượt sông vượt suối, đi bộ giữa núi rừng khô khan, giữa sa mạc
cháy bỏng, giữa giông tố mưa gió, đi cả sáu tháng ròng rã may ra
mới tới nơi. Chết chóc không biết bao nhiêu mà kể.”
Tôi ngắt lời:
– “Tại sao người ta rủ nhau đi tìm vàng
đông đảo thế? Tin tức từ đâu? Sao không đi bằng tàu thủy, mà đi
bộ cho khổ?”
Ông cụ thở dài, nhìn lên trời cao, lắc đầu nói:
– “Ban đầu, có người tên là James
Marshall, tìm ra một hạt vàng dưới suối, nhỏ bằng nửa hạt đậu tại
miền Bắc Sacramento của California. Tin đó loan truyền ra, người
ta xuống suối đãi được khá nhiều vàng vụn. Rồi nhiều người bắt
chước, bỏ cả công ăn việc làm, đi đãi vàng. Dân chúng các vùng
lân cận kéo về nơi này tìm vàng. Đến nỗi đồn điền của nhà cự phú
nông nghiệp Sutter có hơn bốn trăm nhân công cũng không còn một
ngoe. Nông trại phải bỏ hoang. Bị dân tìm vàng giẵm nát hoa màu,
phá tan chiến luỹ lấy gỗ dựng chòi, đốt làm củi. Nghe đâu sau này
ông Sutter sạt nghiệp, đi ăn xin.
Người ta đồn rằng, vàng nằm lềnh khênh
trên mặt đất như cát sạn, tha hồ mà xúc, hốt, không đóng một xu
thuế, không giới hạn. Cứ tự do mà khai thác. Ban đầu dân miền
Đông nước Mỹ hoang mang, không biết thật hay giả, nhưng khi Tổng
Thống Mỹ thời đó là James Polk xác nhận là có vàng ở California,
thì báo chí thổi phồng thêm. Như một cơn sốt, như một bệnh dịch.
Thiên hạ bàn tán ồn ào. Bàn trong khi làm việc ở sở, trên cánh
đồng, trong tiệm ăn, quán cà phê, giữa đường, trên phố, cả trong
khi đi lễ nhà thờ, và cả trong mâm cơm gia đình. Cha mẹ, vợ
chồng, con cái, bạn bè, láng giềng, đều cũng náo nức luận bàn về
vàng California. Ai ai cũng mơ mộng ra đi, chỉ chịu khó một hai
năm thôi, là có vốn lớn làm ăn, thoát khỏi nghèo khó. Công chức
bỏ việc, lính tráng trả lại súng ống quân trang, thợ thuyền bỏ
nhà máy, thương gia bỏ tiệm, nông dân bỏ ruộng đồng. Thiên hạ gom
góp tiền bạc để mua xe, mua ngựa, bò, trang bị đi về miền Tây hốt
vàng. Cơn sốt tìm vàng này lan ra cả thế giới, dân cư từ các xứ
Anh, Đức, Pháp, Mễ, Chi–lê, Tàu, v.v. cũng tìm đủ mọi cách để đến
California hốt vàng.”
Tôi thắc mắc:
– “Có thật người ta tìm được nhiều vàng
không?”
– “Có.
Những người đầu tiên tìm ra được khá nhiều vàng. Mỗi ngày có thể
kiếm được khoảng 25 đô–la, tương đương với tiền công một tháng
khi ở quê nhà. Nhưng, xui thay, chừng đó tiền cũng chỉ vừa đủ mua
một bữa ăn thôi. Vì thức ăn hiếm hoi, đắt đỏ, tại vì mọi người
đều bỏ việc đi tìm vàng.”
Tôi cắt ngang lời ông:
– “Nếu thế, thì mình mở tiệm ăn bán cho
người tìm vàng, cũng mau giàu mà đỡ nhọc nhằn hơn không?”
– “Đúng, đúng. Giá như anh ở thời đó,
với ý tưởng này thôi, cũng đủ thành giàu có triệu phú rồi đó.”
– “Có ai phất lên thành giàu có nhờ
cung ứng dịnh vụ cho người tìm vàng không?”
Ông cụ dài giọng:
– “Nhiều. Nhiều vô số. Kẻ đầu tiên là
ông Sam Brannan, một lái buôn, thổi phồng chuyện có vàng ở
Sacramento. Ông thu mua tất cả cuốc xẻng, búa rìu, dĩa kim loại
có thể dùng để đãi vàng. Rồi ông chạy khắp rong thành phố San
Francisco, dong cao một bình vàng vụn, hô hoán ầm lên rằng, vàng
đã tìm ra, tha hồ mà hốt. Thiên hạ ùn ùn đi mua cuốc xẻng, dĩa
kim loại để đi đãi vàng. Giá một cái dĩa kim loại trước đây vài
xu thôi, mà chỉ trong hai ngày, tăng lên đến 15 đô–la. Hơn tiền
công lao động nửa tháng. Ông này đánh hơi được nhiều món hàng hoá
cần thiết khác, mua đi bán lại cho dân tìm vàng, trở thành giàu
nứt vách. Một quả trứng thôi, giá cũng 50 xu, bằng nửa ngày
lương.
Một
người tài công có thuyền phà chở khách sang sông trên đường mòn
từ Đông sang Tây, chém với giá cắt cổ, 16 đô–la để đưa một con bò
qua sông. Phà chở đầy, lím mạn, sợ lắm. Qua sông mà hồn viá lên
mây, mọi người liên tục cầu nguyện. Sách vở ghi lại rằng, một mùa
hè, một chiếc phà này có thể kiếm được đến 65 ngàn đô–la. Không
phải bịa, hoặc phóng đại đâu.
Ông Levi Strauss, vào năm 1853, biết
dân đào vàng ngâm mình dưới nước, lê lết trên đất đá, cọ xát
nhiều. Ông này lấy vải bố dày, may thành quần bán cho dân đào
vàng, rất được ưa chuộng vì bền, chắc, tốt, và sau này thành nổi
tiếng khắp thế giới với danh hiệu quần Jean Levis.
Ông John Stubaker chuyên đóng xe cút
kít, đã mở xưởng sản xuất xe thùng bốn bánh, bán cho người tìm
vàng, để băng đại lục, cũng trở nên giàu có, và sau này trở thành
cơ xưởng sản xuất xe hơi nổi tiếng.
Hai ông Williams Fargo và Henry Wells
thấy dân tìm vàng gặp nhiều khó khăn bất trắc trong việc tàng trữ
và vận chuyển vàng và tiền bạc. Bị bọn bất lương cướp bóc, trộm
cắp, và hại đến tính mạng nữa. Hai ông này nghĩ ra lối làm ăn
lương thiện, chuyên chở an toàn, gởi tiền bạc bảo đảm, được uy
tín cao. Họ chuyển luôn cả thư từ. Nhờ đó mà giàu có, trở thành
ngân hàng nổi tiếng Wells Fargo có khắp nước Mỹ ngày nay.”
Ngưng một chốc, ông cụ ho khan, rồi tợp
ngụm rượu. Nói tiếp:
– “Không phải chỉ bọn con buôn thực tế
kiếm ra tiền làm giàu, mà cả những văn nhân, thi sĩ cũng hốt được
vô số tiền. Như ông Brett Harte chuyên viết về chuyện của những
kẻ đi tìm vàng, về bọn cướp bóc vô lại, chuyện của các giới đĩ
điếm. Sách bán chạy như tôm tươi, thu tiền vào như nước.
Có cả ngàn chuyện khác, như tiếu lâm mà
có thực, những người này đã nhìn ra các khía cạnh khác trong thế
giới tìm vàng mà trở thành giàu có. Họ không hề đụng đến cái
cuốc, cái xuổng, hoặc cong lưng, nhúng chân xuống nước đãi vàng.”
Tôi cầm bầu rượu, tu thêm mấy hớp. Đêm
lạnh, chất rượu mạnh như đốt ấm thân thể. Ông cụ lại dạo đàn, tôi
tiếp tục hát theo ông. Một lúc sau, bỗng ông cụ đặt đàn xuống, ôm
mặt khóc hu hu, rồi nói:
– “Nghĩ đến đoạn đường bộ gian khổ đã
đi qua, mà cầm lòng không được, phải phát khóc. Tuổi già, trái
tim thành mềm yếu như đàn bà, nên mau nước mắt.”
Cụ gạt nước mắt, và kể tiếp rằng, chính
cụ đã khởi hành từ Philadelphia năm 1850, đi trên con đường mòn
từ miền Đông qua miền Tây dể tìm vàng. Tôi nghĩ rằng, có lẽ cụ
say nên lẫn lộn. Nhưng chuyện của cụ mạch lạc và chính xác như
những điều tôi đã biết qua sách vở. Cụ nói:
– “Ngày đó, từ miền Đông qua miền Tây
chưa có đường sá, cầu cống, đò phà, quán xá, làng mạc. Tôi đã đi
bộ hai ngàn dặm, trên con đường mòn băng núi đá, đồi đất, bụi bờ,
rừng cao, đèo sâu, sông suối. Nhiều sa mạc mênh mông, cháy bỏng,
không nước, không cây cỏ.
Vào đầu tháng tư năm đó, tôi theo đoàn
người tìm vàng ùn ùn từ Bắc xuống, gặp những đoàn khác từ hướng
Nam đi lên từ nam lên. Chúng tôi đổ về thành phố Saint Louis của
tiểu bang Missouri. Tôi chất lên tàu hơi nước đi trên sông
Missouri nào là xe–gòn, dụng cụ, hành lý, đủ thứ. Tàu đi về hường
tây. Nhưng đi được hai trăm dặm, thì phải xuống bộ, vì không còn
đường sông đi về hướng tây nữa. Các thành phố, các làng ven bờ
sông, bùng lên ồn ào, đông đúc chật chội. Đường sá đầy người, la,
lừa, bò, ngựa. Và tiếng thợ rèn đập búa đinh tai nhức óc từ sáng
đến khuya, họ đang sửa bánh xe gòn, bịt móng chân thú vật. Hàng
ngàn trại vải được mọc lên trên các cánh đồng hoang ven làng.
Hàng trăm tiệm bán hàng thành lập, để cung cấp các nhu cầu thiết
yếu cho dân tìm vàng.
Phải đi trong mùa hè và Thu, vì phải
chờ cho cỏ mọc đủ lớn dọc đường, để làm thức ăn cho thú kéo xe.
Đi sớm, thì không đủ cỏ, và chết dọc đường là chắc. Đi muộn,
tuyết xuống, mùa đông không có cỏ, cũng chết. Để dự trù cho cuộc
hành trình dài trên sáu tháng đó, mỗi người phải đem theo tối
thiểu là 200 cân Anh bột mì, 150 cân thịt heo ba rọi, 10 cân cà
phê, 20 cân đường và 10 cân muối. Như thế, cứ một gia đình khoảng
bốn người ra đi, thì phải dem theo cả ngàn cân thực phẩm cho cuộc
hành trình 2000 dặm đi bộ chậm chạp gian khổ đó.”
Cụ già ho một tràng dài. Tôi ngồi im
lặng một lúc. Sau đó tôi khơi lại câu chuyện:
– “Thế thì người ta đi xe loại gì, và
dùng thứ gia súc nào để kéo xe để có thể đi xa như vậy?”
Cụ nói:
– “Chúng tôi đi xe 'gòn' loại nhỏ, có
mui trùm bằng vải quét sơn. Do bò kéo. Hai bánh sau to, hai bánh
trước nhỏ, để dễ di chuyển, xoay xở. Chỉ có bò mới thích hợp với
cuộc hành trình ngàn dặm gian khổ như thế này mà thôi. Bởi vì bò
không cần cỏ tươi, tạp ăn, ngoan, dễ sai khiến, mạnh, có sức kéo
lớn, có thể băng qua sình lầy, qua bờ bụi, vượt sông, chịu được
điền kiện khí hậu khắt khe. Hơn nữa giá bò không cao. Còn ngựa,
lừa, la, thì không đủ sức để làm cuộc hành trình gian khổ lâu dài
như vậy.”
Tôi
ngắt lời:
–
“Thú vật còn không chịu được gian khổ, thì con người làm sao chịu
nỗi?”
Cụ thở
dài tiếp:
–
“Bởi thế nên con người mới chết chóc dọc đường không biết cơ man
nào mà kể. Khi ngày khởi hành thuận tiện, thì từng đoàn xe nối
đuôi nhau san sát. Có lẽ xa lộ kẹt xe ngày nay, còn khá hơn thời
đó. Người ta tưởng như một thành phố xe bò di động từ đầu chân
trời cho đến cuối chân trời, không dứt, từ ngày này qua ngày
khác.
Khi ra
đi, mang theo nhiều hành trang quá, xe nào cũng chất chật cứng,
cao nghệu. Lại đèo thêm nhiều thùng nước trước và sau xe. Cho nên
chỉ mới khởi hành được vài ba dặm, thì người ta đã phải quăng bớt
đồ đạc, thức ăn, cho nhẹ mà đi. Do đó, trên nhiều dặm đường, có
la liệt ngổn ngang đồ đạc quăng bớt. Người trong các thành phố kế
cận, nhặt được cả nhiều xe đầy nhóc bột mì, thịt nguội, và nhiều
vật dụng linh tinh khác.
Tệ nhất là nhiều người cả đời chưa hề
biết đánh xe bò, xe ngựa bao giờ, nên điều khiển súc vật loạng
quạng, thúc ngựa, bò đâm đầu vào cây, vào bờ bụi và lao xuống hố
nữa. Phí của. Vỡ mộng làm giàu.
Xe nào cũng muốn tiến tới phía trước để
bớt hít bụi mù do xe cuồn lên. Phải bịt mũi, miệng, đeo kính che
mắt mà đi. Chiều xuống, khi cắm trại, tình trạng còn bết bát tệ
hại hơn. Ai cũng giành chỗ tốt nghỉ ngơi. Chen chúc nhau cắm
trại. Vì quá đông người, quá chật chội, nên tình trạng vệ sinh
rất tồi tệ. Nhiều xe đào hố xí để giải quyết tiêu tiểu bên cạnh
trại của đám khác. Gây bệnh tật, và chết chóc.
Nếu đi một hai ngày, có lẽ thấy vui,
lãng mạn, chứ sáu bảy tháng như thế, thì là một nỗi chán ngán ghê
gớm. Phải có nghị lực, kiên nhẫn để chịu đựng. Nhưng viễn tượng
hốt vàng trước mắt, lôi kéo, cuốn hút, làm quên bớt nỗi gian nan.
Những xe đi trước, xài phí cỏ hoang cho
súc vật ăn, làm các đoàn đi sau thiếu cỏ, phải đánh bò ra xa cả
nhiều dặm đề tìm cỏ. Một thời gian sau, dọc đường mòn không còn
củi để đốt nấu ăn. Khó khăn lắm mới tìm ra củi. Mỗi chiều khi bắt
đầu cắm trại, thì phải đi gom cây lá vụn để nhóm lửa. Vất vả lắm,
vì ai cũng tìm củi như mình. Rồi phải dùng phân bò khô mà nấu.
Làm bánh mì cũng không phải dễ. Khó mà
không nhồi luôn côn trùng, bụi bặm vào bánh. Nướng bánh cho chín,
là một việc đại khó khăn, bánh bên ngoài thì cháy đen mà bên
trong thì còn sống nhão nhẹt. Ăn bánh mì với thịt heo ba chỉ ngày
này qua ngày khác, ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, cũng chỉ món đó, ăn
mấy tháng dài liên tiếp, ngấy tận óc, mà phải nuốt, để có sức.
Nhiều lúc không đủ củi đun, phải ăn thịt heo ba chỉ chưa nướng
chín. Khi nào kiếm ra được con chim cút, hoặc thịt bò rừng là
sung sướng hạnh phúc lắm.
Chỉ nghĩ lại thôi, cũng đủ khiếp đảm.
Trầm mình trong sa mạc nắng như đốt, nhiệt độ gần một trăm độ F,
từ ngày này qua ngày kia, mồ hôi nhễ nhại, bụi bám đầy da thịt,
ngứa ngáy, không được tắm rửa trong mấy tháng ròng rã, không thay
áo quần cả nhiều tháng. Hôi hám như súc vật chết. Đến nỗi người
da đỏ không dám đến gần vì mùi quá thúi. Họ cho rằng, người da
trắng là một chủng loại dã man, ăn ở thiếu vệ sinh, hôi hám. Khi
bọn họ mắng nhau rằng “Mầy là đồ da trắng” thì kẻ bị mắng, cảm
thấy bị xúc phạm tột độ, nặng nề.
Khi đi, không ai nghĩ được nước là cần
thiết nhất, vì tưởng có thể lấy thêm dọc đường. Nhưng không phải
vậy, vì có những sa mạc mênh mông nóng như lửa, khô cằn, cho nên
phải uống cả những thứ nước hư thối, đã biến vị, bởi vậy cho nên
đau bụng, kiết lỵ, thổ tả, thành bệnh mãn tính. Đã lao lực quá
độ, yếu sức sẵn, và cứ bị một trận tiêu chảy, là có thể đi luôn.
Nhiều người đang khoẻ mạnh, chỉ vài giờ sau là chết. Bệnh tiêu
chảy giết chết bọn chúng tôi nhiều nhất. Những năm thời tiết xấu,
có đoàn chết mất hai phần ba nhân số.
Tất cả đều phải đi bộ, rất hiếm người
được ngồi trên xe. Đi ròng rã nhiều tháng dài, dưới nắng, mưa,
gió bụi. Đi cho rã chân ra. Xe bò cứ từ từ mà đi. Nếu có ai mệt
quá, ngã qụy bất thần vào bánh xe, thì cũng không thắng kịp. Xe
cán càn lên, và chết là chắc. Có kẻ bị cán nát đầu kêu rôm rốp,
thật khiếp.
Nhiều người bị sấm sét đánh chết, cháy xém, nhiều người bị thương
la liệt vì những cơn mưa đá hạt to bằng trái cam từ trời cao ném
xuống. Mưa gió quật ướt loi ngoi, lạnh lẽo, vì không nơi trú ẩn
khi qua đồng trống. Trong xe cũng bị dột, thấm, làm hư hỏng thức
ăn, đồ đạc.
Dọc con đường mòn, rải rác phơi xương, sọ người và cả phần tay
chân lổn ngổn, có khi thấy đầu lâu tóc còn cài cây lược. Đó là
phần còn lại của những người chết, được vùi nông, vùi qua loa để
kẻ còn sống tiếp tục lên đường. Vì huyệt cạn, nên thú rừng đào
bới, ăn xác chết. Có kẻ đau yếu, chưa chết, cũng đem chôn luôn,
và có khi bỏ lại bên vệ đường, vì thế nào họ cũng chết. Không thể
ngồi lại mà khóc than. Không còn sức để chờ, để đào cái hố đủ
sâu, vì kẻ chết, thế nào cũng chết, kẻ sống, phải lo giữ mạng
sống, không có thì giờ để khóc lóc, để uỷ mị, để chần chờ. Có
lần, tôi được cắt cử ở lại để chờ người bạn bị bệnh chết, trong
khi chờ đợi, tôi đào huyệt sẵn để tiết kiệm thời giờ, chôn xong
thì vội vã chạy theo đoàn.
Mỗi ngày, phải thức dậy khi trời còn
tối om, để ăn sáng, quàng ách súc vật, chuẩn bị lên đường khi tờ
mờ. Đi, đi mãi, buổi trưa tạm dừng lại chừng một giờ để ăn trưa,
nghỉ ngơi, rồi tiếp tục cho đến khoảng sáu giờ chiều, thì dừng
lại cắm trại. Đậu xe vòng quanh để dồn gia súc vào giữa. Không
phải vì sợ dân Da Đỏ tấn công.
Ròng rã trong sáu tháng, năm giờ sáng
là phải thức dậy lên đường, đi mười giờ liên tiếp, cực nhọc lắm
mà mỗi ngày đi chỉ được chừng 15 dặm thôi. Nhiều đoạn đường rất
dài, hoàn toàn khô khan, không có nước, người ta đã khát cháy
họng, lưỡi xám xì, khô dòn áo quần, thân thể, có kẻ đã lăn đùng
ra chết khô.
Nhiều kẻ bán–buôn đánh hơi được, cho xe chở nước đi ngược đường
mòn, đón đoàn người đi tìm vàng đang khát cháy cổ, và lên cơn sốt
vì thiếu nước. Họ bán một ly nước 1 đô, hoặc 10 đô, có khi lên
đến 100 đô nữa. Cũng phải mua mà uống để sống còn, để hy vọng đến
California tìm vàng. Những kẻ hết tiền, đành chịu chết khát dọc
đường.
Không
phải chỉ nước mới đắt. Bột mì khi ra đi, mua một thùng tô–nô
(khoảng 200 lít) giá chỉ 4 đồng, mà trên đường đi, giá tăng lên 1
đồng một lon sữa bò nhỏ. Thứ gì cũng đắt khủng khiếp. Một lon
đường 1.50 đô, lon cà phê 1 đô.”
Nghe ông cụ kể đoạn đường gian khổ băng
qua nước Mỹ mà tôi ớn lạnh, nghẹt thở. Tôi van ông:
– “Thôi, thôi ông anh ơi, đừng kể nữa,
nghe mà ớn quá. Thì ra, California này được xây dựng bằng mồ hôi,
xương, máu, thịt, của tiền nhân đi tìm vàng. Chúng tôi từ xa xôi
đến đây, hưởng dụng các phương tiện có sẵn, do công khó nhọc nhằn
của những người đi trước. Không là bà con, dòng họ, tổ tiên, mà
nước Mỹ đã mở rộng vòng tay bao dung đón chúng tôi. Trong khi
người anh em cùng tổ tiên miền Bắc thì truy sát, đày đọa, ruồng
rẫy, áp bức, khắc nghiệt. Biết thế, thì tôi khoan về hưu đã, đem
hết sức tàn của mình ra làm việc, phụng sự, để đền đáp phần nào
ân nghĩa bao la này.”
Ông cụ đưa bình rượu cho tôi bảo uống
thêm đi. Ông nói:
– “Đừng suy nghĩ gì cả. Ở xứ này mà anh
không gian lận thuế, thì cũng đã là trả lại phần nào ân nghĩa cho
xứ sở rồi.”
Sau vài hớp rượu, tôi lại tò mò hỏi thêm:
– “Đi băng qua nước Mỹ, các ông không
sợ bị dân Da Đỏ tấn công sao? Hồi nhỏ xem chiếu bóng, thấy dân Da
Đỏ hay giết hại người vô tội. Mỗi khi thấy Da Đỏ bị đánh bật lui,
thì bọn con nít chúng tôi vỗ tay reo mừng hớn hở. Phim cao bồi
cho chúng tôi có cảm tưởng người Da Đỏ tàn ác, dã man, khát máu.”
Ông cụ nổi giận, to tiếng:
– “Bậy bạ. Các anh không hiểu gì cả.
Đúng là khi ra đi, chúng tôi rất ngại bị người Da Đỏ tấn công.
Nhưng trái lại, dân Da Đỏ rất tốt, giúp đỡ tận tình khi người tìm
vàng có tai họa. Họ giúp kéo xe sa lầy ra khỏi vũng bùn, cứu
người chết đuối, lùa súc vật chạy lạc. Giao thiệp giữa Da Trắng
và Da Đỏ rất thuận thảo. Họ trao đổi thuốc lá, súng đạn, áo quần,
để lấy thức ăn hoặc ngựa.
Và chính người Da Trắng tấn công và
giết chóc người Da Đỏ trước. Vào năm 1854, một con bò của đoàn
người đi lạc vào một bộ lạc Siuox, họ không biết, bắt giết và ăn
thịt. Bọn tìm vàng đến báo cáo với Trung úy Grattan đóng ở đồn
Laramie gần đó. Ông này đem theo 28 binh sĩ đến để trừng phạt Da
Đỏ. Người Da Đỏ biết lỗi, vì tưởng lầm bò hoang, xin lỗi, và đề
nghị đền lại bằng một con ngựa, giá cũng đã có lời cho bọn Da
Trắng. Nhưng Trung úy Grattan không chịu, ra lệnh bắn giết dân Da
Đỏ. Vị Trưởng Tộc Da Đỏ ra lệnh đừng đánh lại, và nói rằng khi đã
trả thù xong, thì bọn lính sẽ bỏ đi. Nhưng Trung úy Grattan tiếp
tục bắn, giết chết vị Trưởng Tộc. Dân Da Đỏ phải chống cự lại,
bắn nhau, kết quả có 21 trong 29 người lính đến trừng phạt bị
giết chết.
Chiến tranh bùng nổ từ đó. Kéo dài trong mấy chục năm sau. Chỉ vì
một con bò lạc, sự lầm lẫn của thổ dân, và sự tàn ác của Trung úy
Grattan, mà biết bao nhiên người vô tội mất mạng. Có nhiều cuộc
tàn sát người Da Đỏ xảy ra trong những năm sau đó. Cuối cùng,
người Da Đỏ hết chịu nỗi, phải vùng dậy chiến đấu quyết liệt hơn
để sống còn.
Cũng chỉ trong vài năm đầu, những đoàn viễn hành đã tàn phá cả
đồng cỏ, đốt hết cây củi trên đường đi, và tận diệt lũ bò rừng.
Đến nỗi, trên vùng thảo nguyên dài hai trăm dặm, dọc đường mòn,
ngổn ngang xương bò rừng, thịt bò rừng hư thối. Nhìn vào thật bất
mãn. Làm cho nhiều bộ lạc Da Đỏ lâm vào cảnh thiếu thức ăn, đói
khó.
“Đó, lỗi
ở bọn Da Trắng chúng tôi.”
Mệt, say, và trong lòng buồn quá, tôi
đứng dậy, cáo từ, xin ra về. Ông cụ nắm áo tôi kéo lại, nói:
– “Khoan đã. Bầu rượu chưa cạn. Dễ chi
trong đời anh có được mấy đêm vui như hôm nay. Ngồi xuống đây đã
nào.”
Nghe ông
cụ nói thế, tôi lại hừng chí lên, và ngồi xuống, cầm cây đàn của
ông mà đánh tưng tưng, lắc lư gào to, hát lời vu vơ. Ông cụ cũng
vỗ tay làm nhịp, và hát theo đuôi. Đêm vắng phố nhỏ tịch mịch,
lời hát của chúng tôi vang vang rất rõ ràng. Hát khan cả cổ, tôi
cầm bầu rượu mà tu liên tiếp mấy hơi. Tôi hỏi:
– “Ông anh có còn sức để kể tiếp câu
chuyện tìm vàng không?”
Ông cụ tằng hắng, và nói:
– “Tôi đến California vào năm 1850 thì
vàng khơi khơi trên mặt đất đã cạn kiệt. Cách đãi vàng bằng tay
không còn hiệu quả nữa vì vàng hiếm hoi, người ta phải dùng kỹ
thuật tân tiến hơn mới khai thác được. Phải có nhiều người, cùng
lập thành tổ hợp. Đắp đập, ngăn sông, chuyển dòng nước để tìm
vàng dưới đáy sông. Đào sạt núi, sập đồi. Rồi cũng hết vàng. Họ
không đủ tiền để đầu tư lớn.
Những công ty lớn có đủ kỹ thuật và
dụng cụ khai thác vàng vô cùng hữu hiệu, họ dùng kỹ thuật vòi xịt
nước vào sườn đồi, sườn núi. Vòi xịt mạnh đến có thể giết chết
người đứng cách xa chừng 30 thước tây. Kỹ thuật dùng vòi xịt nước
tàn phá thiên nhiên rất khủng khiếp. Sông ngòi, núi đồi
California biến hình, thay dạng, không còn chút gì hình thể của
thời xưa. Phải mất ba mươi năm sau mới có đạo luật cấm sử dụng kỹ
thuật xịt vòi nước xói đất tìm vàng. Bí lối, chúng tôi chỉ còn
con đường duy nhất là đi làm cu–li cho các công ty lớn đó.
Cái không khí thân thiện nồng nàn tình
bằng hữu và rộng rãi ban đầu mất dần, thay vào là cáu kỉnh, dữ
dằn với nhau. Vỡ mộng làm giàu và thất vọng, người ta đâm ra cờ
bạc, phóng túng. Đánh bài may ra có thể gặp vận hên, vớ được một
mẻ lớn mà không phải cực nhọc, ngâm mình lặn lội bờ sông. Nhưng
kinh nghiệm xưa nay, chẳng có ai vì hoàn cảnh tuyệt vọng, dùng
con đường bài bạc để giải quyết khó khăn, mà không lún sâu vào
vũng lầy của nợ nần, lừa gạt, cướp bóc, và có khi đưa đến tự tử
nữa. Cướp bóc bị tù tội, bị treo cổ. Một tử tội viết lời nhắn lại
cho kẻ tìm vàng rằng:
– “Nhân dịp này, tôi muốn viết đôi hàng
cho những người hy vọng tìm ra vàng để trở thàng giàu có rằng:
Tôi và bạn Charley của tôi, bị kết án treo cổ vào 5 giờ chiều nay
vì tội cướp...”
Hai tay ông cụ bưng mặt, im lặng một
lúc, cụ tiếp lời:
– “Tôi cũng là một trong những người vỡ
mộng, ra đi thì hứa hẹn với vợ con đủ điều. Đến đây, cố gắng hết
sức, làm việc không ngơi nghỉ, không kể ngày đêm, không ngại cực
nhọc. Mỗi ngày hơn mười tiếng đồng hồ, gập cong người trên dòng
nước, nắng như lửa đốt trên lưng, lạnh cóng tay, cóng chân, dầm
mình trong sông buốt giá. Cực nhọc mấy năm dài mà không nên cơm
cháo gì, càng ngày nợ nần càng thêm chồng chất. Nhưng rồi tự bảo,
cứ nấn ná thêm một thời gian nữa, không chừng sẽ gặp vận may. Và
cứ nấn ná mãi, kéo dài thêm thời gian, cho đến khi quá lâu, không
thể quay trở về quê quán với hai bàn tay không và thêm một số nợ
nần chưa trả nổi. Tôi không dám liên lạc với gia đình nữa, và ở
lại luôn nơi đây. Làm việc vất vả, cũng chỉ là vắt mũi bỏ miệng.
Rồi chết trong nghèo khó và bệnh hoạn vào năm 1875, khi vừa đúng
50 tuổi.”
Nói
đến đây, ông cụ ôm mặt khóc hu hu. Tôi nghĩ ông cụ say, nên nói
sảng. Tôi dỗ dành, bảo đừng khóc nữa, vì ông còn sống, và tôi
cũng còn sống, còn biết uống rượu, ca hát. Tôi rút khăn giấy chậm
nước mắt cho cụ, và dúi cây đàn vào tay ông, bảo ông hát cho quên
buồn. Ông lại gảy đàn, tiếng đàn vang vọng rầu rĩ giữa đêm khuya.
Rồi chúng tôi hát lớn như hai gã điên trong tiếng đàn đệm, tiếng
vỗ thùng đàn rầm rầm. Mùi rượu nồng nàn toả ra từ hai cái miệng
đang gào hát.
Sau một hồi ca hát vu vơ, ông cụ và tôi uống cạn không còn một
giọt cái bầu rượu bằng da mà ông đeo bên hông. Ông cụ móc trong
bao da ra một viên sạn nhỏ màu vàng lờ mờ, và bảo tôi:
– “Giữ hạt vàng này làm kỷ niệm buổi sơ
giao. Hẹn gặp nhau bên kia thế giới”
Tôi lúng túng vì không có món quà nào
trao đổi, bèn kéo chiếc nhẫn khoen vàng từ ngón tay ra, dúi cho
ông cụ và nói nhỏ:
– “Cũng để làm kỷ niệm”
Trăng tàn, trời lạnh buốt, xa xa vẳng
tiếng gà gáy. Ông cụ đứng dậy, phủi mông, vác đàn lên vai, và
không biết từ đâu, một con ngựa lững thững đi đến. Ông không bắt
tay từ giã, nhảy lên ngựa rồi thong thả đi về hướng xa lộ. Tiếng
vó ngựa lóc cóc gõ trên đường nghe mồn một. Bóng ông mờ dần,
khuất trong đêm. Tôi thấy hoa mắt, chóng mặt, đau thắt trong
bụng, tay chân tê cóng, và gục xuống bất tỉnh nằm dài trên đường.
Sau này tôi được cho biết rằng, buổi
sáng cảnh sát tìm thấy tôi nằm gục bên hè đường trước viện bảo
tàng vàng. Tim đã ngừng đập, được đưa vào bệnh viện cấp cứu, và
sống lại.
Nằm
bệnh viện hai hôm, tôi thấy sức khỏe gần như đã hoàn toàn hồi
phục, được xuất viện vào khoảng gần trưa. Tôi đi tìm xe và phân
vân không biết có nên đi tiếp hay tạm quay về. Khi tôi đến nơi
đậu xe, thì thấy người ta đang định câu xe của tôi đi, vì đậu quá
lâu ngoài đường, nơi phố chính. Trên kiếng xe, có nhiều giấy phạt
chồng chất lên nhau. Tôi vội vã ngăn cản người câu xe. Cho ông
biết, tôi bị tai nạn vừa ra khỏi bệnh viện. Tôi kể sơ cho ông
nghe câu chuyện đêm trước, ông trợn tròn mắt và nói:
– “Anh đã gặp con “Ma–Tìm–Vàng” đấy.
May mắn lắm mới không đi đong cái mạng cùi”.
Tôi cười mỉa mai, và leo lên xe mở máy
chạy ra hướng xa lộ. Khi đến công viên có bức tượng của người
đang đãi vàng bằng đồng, bên con ngựa, tôi giật mình thắng xe
dừng lại, thấy hình tượng này có nét hao hao giống với cụ già mà
tôi đã cùng hát và uống rượu đêm hôm trước. Tấp xe vào lề đường,
tôi đi thẳng đến gần sát bên tượng. Trán đổ mồ hôi khi tay tôi
đụng vào đáy túi quần. Có cái gì cồm cộm. Tôi lôi ra một viên
vàng cốm bằng nửa hạt đậu, lóng lánh phản chiếu ánh nắng.
Tôi sực nhớ viên vàng mà cụ già trao
cho làm kỷ niệm. Thế mà tôi cứ tưởng nhậu say, làm tôi thấy ảo
giác. Tôi giật mình, ớn lạnh nhìn vào cái dĩa đãi vàng của bức
tượng, thấy có chiếc khâu nhẫn vàng. Tôi cầm lên, nhìn vào mặt
trong của cái khâu, có chữ khắc tên tôi rất rõ ràng. Tôi nhìn kỹ
hơn vào bức tượng, đúng là khuôn mặt, dáng điệu của ông cụ đã
cùng tôi ca hát. Hốt hoảng, tôi ném trả lại viên vàng vụn vào cái
dĩa đãi vàng của bức tượng, một tiếng ‘keng’ vang vọng. Tôi chạy
mau ra xe, mở máy vọt đi thật mau. Cố quên đi những gì đã xảy ra
hai hôm vừa qua. Nhưng trong tai tôi, như còn nghe mồn một các
bài hát của cụ già. Tôi nghĩ rằng, chắc tôi chớm bệnh thần kinh,
thấy ảo giác, chứ bây giờ là thế kỷ 21 rồi, làm chi mà có ma
quỷ./.
Tháng 6/2010
Tràm Cà Mau kể chuyện
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Batkhuat Nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, April 22,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang