Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
MHĐL–72
Tác giả:
Mường Giang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tờ mờ sáng
Chuá nhật 26/6/1950, bảy Sư Đoàn bộ binh Bắc Hàn, với quân số
tổng cộng hơn 90,000 người, được yểm trợ bởi một Lữ Đoàn Thiết
giáp, gồm 150 chiến xa T–34 của Nga Sô và lực lượng không quân
hùng mạnh với 135 chiếc oanh tạc cơ cùng chiến đấu cơ. Tất cả
ngang ngược vượt đường ranh ngăn đôi tạm thời hai nước Triều
Tiên, tại vĩ tuyến 38 để tấn công Nam Hàn.
Hai mươi hai năm sau đó, vào giữa trưa
ngày 30/3/1972, nhằm mùa lễ Phục sinh của người Thiên Chúa Giáo,
cũng là ngày thứ năm Tuần thánh (Holly Thursday). Lợi dụng mọi
người đang xem lễ, cầu nguyện trong những giờ phút thiêng liêng,
như dịp Tết Mậu Thân 1968. Cộng sản Ðệ tam quốc tế Hà Nội, mở một
cuộc tấn công ác liệt nhất trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2
(1955/1975) vào khắp lãnh thổ VNCH. Chỉ riêng mặt trận giới
tuyến, Hà Nội đã sử dụng một lực lượng quân sự vô cùng hùng hậu
trên 40,000 người, gồm các Sư Đoàn chủ lực 304, 308, năm trung
đoàn biệt lập của B–5 là 126, 31, 246, 270, đặc công, hai trung
đoàn chiến xa mang số 203, 204 gần 400 chiếc và năm trung đoàn
pháo binh nặng. Tất cả đồng loạt vượt sông Bến Hải tràn qua khu
phi quân sự, pháo tập và tấn công biển người vào lãnh thổ VNCH
tại tỉnh Quảng Trị.
Hai trận chiến trên rất giống nhau và
cũng khác nhau, giống vì cả hai hiệp định ngưng chiến Cao–ly và
Việt Nam, đều do Liên Hiệp Quốc chủ xướng, được ký tại Postdam
(7/1945) và Genève (20/7/1954), trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Nga,
Trung cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt ký vào văn bản. Còn hai nạn nhân là
Nam Hàn và Nam Việt, chỉ đứng chầu rìa lơ láo bên lề hội nghị, để
nuốt máu lệ và nỗi nhục nhược tiểu mà thôi. Riêng Bắc Hàn và Bắc
Việt đều là chư hầu của Nga–Tàu, trước sau và tới bây giờ vẫn là
những đảng cộng sản quốc tế còn sót lại, cuồng tín, cuồng sát và
hung hăng hiếu chiến, không thua gì Trung cộng. Tất cả những thảm
họa chiến tranh, từ mấy chục năm qua trên bán đảo Đông Dương và
Triều Tiên, cũng đều do hai nước cộng sản này gây nên, qua sự chỉ
đạo của đàn anh Nga–Tàu cùng khối xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên
cũng có sự khác biệt, đó là ngay khi Bắc Hàn hùng hổ lộng hành
tràn qua vĩ tuyến 38, thì lập tức bị Mỹ và LHQ đánh đuổi trở lại
bên kia giới tuyến. Nhưng đối với hành động xâm lăng trắng trợn
của Bắc Việt thì lại khác, chẳng những không bị các nước đồng chủ
tịch, tại hội nghị Genève 1954 phản đối, mà ngay cả tổ chức Liên
Hiệp Quốc cũng im re. Còn Mỹ thì có gì để nóí, khi Nixon và
Kissiger đã quyết định bỏ chạy khỏi VN. Bởi vậy, Hà Nội càng hung
hăng tàn bạo, tán tận lương tâm, pháo tập, trực xa, chém giết
thẳng tay hàng vạn đồng bào vô tội, bị kẹt trong vùng lửa khói
giao tranh, trên khắp các nẻo đường đất nước, mà kinh khiếp và
tàn nhẫn nhất, chắc chắn không đâu có thể sánh nổi với đoạn đường
chín cây số, từ quận Hải Lăng về Mỹ Chánh, thuộc tỉnh Quảng Trị.
Ngậm máu phun người trước dơ miệng
mình, đặt chuyện chụp mũ Mỹ và Quân Lực VNCH trong chiến tranh,
là một sự tuyên truyền rất rẻ tiền của Bắc Việt, chẳng những từ
trước năm 1975, mà sau này các văn nô Hà Nội, trong đó có cán gái
Dương Thu Hương (tiểu thuyết Vô Ðề), đều là chuyện bình thường và
xảy ra hằng ngày như cơm bữa. Bởi vậy giờ đâu còn ai tin những
chuyện QLVNCH hãm hiếp, bắn giết tù binh VC, hay những chuyện
quân đội Hoa Kỳ bắn giết bừa bãi thường dân Việt tại Mỹ Lai–Quảng
Ngãi hay mới đây là chuyện Mỹ gài mìn trên cầu Nogunri ở Bắc Hàn
vào tháng 7/1950, trước khi rút lui, làm thiệt mạng thường dân
trên đường chạy loạn hay có thể bị Bắc Cao xua đi đầu dọn bãi
mìn, như Bắc Việt từng làm tại An Lộc, Bình Ðịnh, Kontum... Nhưng
dù có chạy tội cách nào chăng nữa, thì đoạn đường xương trắng máu
hồng từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, cũng đã trở nên Ðại Lộ Kinh Hoàng,
ngàn đời muôn kiếp, trong bia miệng, bia đời và những trang sử
của VN cùng nhân loại.
Hãy đọc G.H. Turley nguyên Ðại tá cố
vấn TQLC, trong tác phẩm The Easter Offensive, thuật lại lời
Thiếu tá Mỹ tên Sheridan vốn là một nhân chứng trong đoàn quân di
tản khỏi thành phố Quảng Trị “không ngờ tôi đã làm nhân chứng cho
một hình ảnh thảm khốc, của cuộc chiến VN. Các pháo thủ bộ đội
Bắc Việt, với lý do mà tôi không thể nào giải thích nổi, khi tập
trung các loại pháo nặng, Thiết giáp để trực xạ vào đoàn người di
tản. Khiến cho hàng ngàn người đã gục chết oan khiên, trong đó
phần lớn là người già yếu, đàn bà và trẻ nít...”. Còn ký giả
A.R.Isaaca thì viết “vào tháng 6/1972, tôi theo lực lượng Nhảy Dù
của VNCH trở lại tái chiếm Quảng Trị. nên được tận mắt nhìn thấy
những thảm họa của đồng bào khi chạy lánh nạn trên Ðại Lộ Kinh
Hoàng kéo dài hàng chục dặm trên đoạn đường bi thiết này, toàn là
những xác xe cộ, trong đó nhiều chiếc còn nguyên tử thi của các
nạn nhân. Tất cả đã biến dạng sau hai tháng dãi dầu chịu đựng mưa
nắng. Dù quân sĩ cố gắng chôn cất cho họ, nhưng vì quá nhiều, nên
vẫn còn nhiều xác kẹt trong xe, suốt hai bên đường Quốc lộ số 1”.
Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác dã man
có một không hai của bộ đội Bắc Việt, nhắm vào đồng bào mình, là
nhà văn quân đội Phan Nhật Nam trong tác phẩm Mùa Hè Đỏ Lửa 1972
“sự chết trên 9 cây số đường này, là chín cây số trời chết, đất
chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá và vạn vật
chết trong lòng ánh sáng, thứ ánh sáng có mùi người...” Thê thảm
quá, bất lương ghê cho chiến tranh không biên giới và những người
Việt cộng do Hồ Chí Minh ương trồng, không còn một chút tình VN
và hơi hám của con người đi bằng hai chân biết nói.
1. Quảng Trị, miền địa đầu giới tuyến:
Tỉnh Quảng Trị nằm ngay địa đầu giới
tuyến ngăn đôi đất nước bởi dòng Bến Hải. Ðây là một con sông nhỏ
phát nguyên từ dãy Trường Sơn, chảy ra Ðông Hải tại cửa Tùng.
Tỉnh bắc giáp quận Vĩnh Linh phía bên kia giới tuyền, tây giáp
Lào, phiá nam là tỉnh Thừa Thiên và phía đông là biển. Trước khi
xảy ra trận mùa hè năm 1972, tỉnh Quảng Trị có diện tích
3,966km², dân số 270,984 người. Sau khi kết thúc trận chiến mùa
hè vào tháng 9/1972, diện tích Quảng Trị chỉ còn có 164,900km²,
với ba quận Triệu Phong, Mai lĩnh và Hải Lăng nhưng dân số tới
202,338 người. Ðiều này cho thấy, Bắc Việt gây chiến tranh, chỉ
chiếm được đất chứ không bao giờ thu phục được nhân tâm, bởi sự
tàn ác dã man của bộ đội miền Bắc, đi tới đâu thì đồng bào đều
phải bỏ của để chạy lấy mạng.
Rừng núi Trường Sơn chiếm 2/3 lãnh thổ
tỉnh, chạy dài từ bắc tới nam. Tỉnh có ba con sông chính là Bến
Hải, Thạch Hãn và Mỹ Chánh mà cả ba đã vô tình qua sự sắp xếp của
lịch sử, trở thành ba con sông biên giới trong các giai đoạn
chiến tranh VN. Tỉnh còn có hai Quốc lộ 1 và 9, cũng là hai chứng
tích lịch sử về việc đồng bào chiến nạn tỉnh Quảng Trị bị thảm
sát.
Quảng Trị
du nhập vào Mẹ VN từ năm 1069 khi vua Lý Thánh Tông, thân chinh
đánh Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ. Ðể chuộc mạng, vua dâng ba
châu Ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chánh (tức Quảng Bình và một phần
Quảng Trị ngày nay). Sau đó vào năm 1306 Huyền Trân Công Chúa gả
cho vua Chế Mân, đem về cho Ðại Việt hai châu Ô và Lý. Hai châu
này sau đó được vua Trần Nhân Tông đổi thành đất Thuận–Hóa vào
năm 1307. Các quận Triệu Phong, Mai Lĩnh và Hải Lăng ngày nay là
đất Hóa thời nhà Trần. Quảng Trị cũng là đất khởi nghiệp của Họ
Nguyễn, khi Chúa Nguyễn Hoàng được vào trấn thủ Thuận Hóa vào
tháng 10 năm Mậu Ngọ (1588). Ông lập dinh tại Ái Tử, quận Triệu
Phong. Vì là đất cổ của Ðại Việt, nên Quảng Trị có nhiều di tích
lịch sử như đền thờ Trần Nhật Duật, thành Tân Sở nơi vua Hàm Nghi
xuất bôn xuống hịch Cần Vương chống Pháp vào năm 1885, Vương Cung
Thánh Ðường La Vang (Mai Lĩnh), cổ thành Ðinh Công Tráng.
Cổ thành Ðinh Cộng Tráng được xây dựng
từ năm 1823 thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn đắp bằng đất. Năm 1838
thành được xây lại bằng đá gạch, với chu vi 481 trượng 6 thước,
cao 1 trượng, dày 3 trượng. Thành có 4 cửa, chung quanh được bao
bọc bởi vòng hào, rộng 4 thước, sâu 8 thước. Trước năm 1972, cổ
thành là doanh trại của Sư Đoàn 101 Không kỵ Hoa Kỳ. Vào năm
1972, trong cổ thành có tiểu khu Quảng Trị và Bộ Tư Lệnh của Sư
Đoàn 3 bộ binh. Tóm lại đây là một công thự phòng thủ quân sự
kiên cố, nhất là trung tâm hành quân của Tướng Vũ Văn Giai tư
lệnh SĐ3BB, cũng là tư lệnh chiến trường miền giới tuyến Quảng
Trị, trong trận mùa hè năm 1972.
Làm như để đáp ứng cùng với chính phủ
Hoa Kỳ trong các cuộc họp mật khi quân Mỹ lần lượt rút khỏi Nam
VN, cộng sản Bắc Việt cũng đóng kịch giảm quân và cường độ tấn
công vùng giới tuyến so với những năm về trước. Do trên, các cấp
lãnh đạo VNCH, từ trung ương tới Quân Đoàn I, đã tin tưởng là Hà
Nội sẽ chẳng bao giờ có ý đồ tấn công qua sông Bến Hải. Ðây chính
là lý do đã giao trọng trách phòng thủ miền giới tuyến, cho một
Sư Đoàn bộ binh tân lập, chỉ mới hình thành được vài tháng. Ðó là
Sư Đoàn 3 bộ binh, thành lập cuối năm 1971 có quân số vào khoảng
11,203 người. Trong các đơn vị cơ hữu, chỉ có Trung Ðoàn 2 BB rất
thiện chiến, vì là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư Đoàn 1 BB
lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai Trung đoàn 56 và 57 tân lập
mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh, quân dịch và
các đơn vị ĐPQ + NQ Vùng I chiến thuật... Sư Đoàn cũng chưa có
kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng...
Quảng Trị lúc đó, được tăng phái thêm
Lữ Đoàn 147 TQLC của Trung tá Nguyễn Năng Bảo đóng tại Mai Lộc về
phía tây tỉnh, với trách nhiệm phòng thủ các căn cứ Ba Hô, Sarge,
Holcomb và Phượng Hoàng. Riêng SĐ3BB phòng thủ vĩ tuyến: Trung
đoàn 56BB đóng trong căn cứ hỏa lực Carroll lớn nhất tỉnh, do
Trung tá Phạm văn Ðính chỉ huy trách nhiệm phòng thủ các căn cứ
Fuller, Khe Gió tiếp cận với Lữ Đoàn 147 TQLC... Trung đoàn 2 BB
đóng tại căn cứ A–4 (Cồn Thiên) và Trung đoàn 57BB trách nhiệm
căn cứ C–1 (Gio Linh), chạy tới cầu Hiền Lương trên Quốc lộ 1, về
tới căn cứ Ái Tử... Phía bên kia Quốc lộ tới biển, do lực lượng
ĐPQ+NQ tỉnh Quảng Trị bảo vệ.
2. Trận chiến Mùa Hè 1972 tại Quảng
Trị:
Ðúng
12:00g trưa ngày 30/3/1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng tư lệnh
quân đội miền Bắc khai pháo mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, xua
40,000 quân vượt vĩ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tấn công
QLVNCH trong tỉnh Quảng Trị. Ðể mở đường qua sông, pháo binh cộng
sản, với các loại đại bác nòng dài 130ly, cũng như hỏa tiễn
122ly, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá tất
cả các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng
chưa từng có.
Ngay lúc hai Trung đoàn 2 và 56/SĐ3BB đang hoán chuyển vùng, nên
bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, đồng thời làm cho tinh thần
binh sĩ nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh và hoảng sợ. Sau đó
bộ binh, chiến xa Bắc Việt, từ bốn hướng tấn công đồng loạt, mục
đích không cho QLVNCH tiếp ứng lẫn nhau, khiến cho các căn cứ hỏa
lực lần lượt thất thủ, vì pháo kích và các cuộc tấn công biển
người... Tuy nhiên quân cộng sản cũng vấp phải sự chống cự mãnh
liệt khắp nơi, nhất là tại các căn cứ của Lữ Đoàn 147 TQLC và
Trung đoàn 2BB. Trấn giữ. Ðại chiến long trời lở đất khắp nơi tại
Quảng Trị, dù được khẩn báo về Sài Gòn và Ðà Nẵng, nhưng lúc đó
dường như cả hai cấp chỉ huy quân sự cao nhất, vẫn còn chưa tin
là Hà Nội dám vượt sông Bến Hải. Chính điều này, đã làm cho bao
nhiêu sinh mạng của đồng bào và người lính, chịu thương vong oan
khiên trên các con đường di tản, trước biển giặc.
Mãi tới 6:00g chiều ngày 30/3/1972, Lữ
Đoàn 258 TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được tăng cường cho
SĐ3BB tại mặt trận Ðông Hà... Ngay lúc đó, SĐ308 cộng sản đang
tấn công Tiểu đoàn 4 TQLC tại hai căn cứ Sarge và đỉnh núi Ba Hô.
Còn SĐ304 thì tấn công Tiểu đoàn 8 TQLC tại căn cứ Holcomb. Thời
tiết lại quá xấu, nên không quân không thể yểm trợ hỏa lực cho
các căn cứ trên, còn hải pháo cũng chỉ yểm trợ tới các căn cứ hỏa
lực ở phía đông gần biển mà thôi. Riêng các Pháo đội đại bác 105,
155 kể cả 175ly của VNCH, cũng không thể đương đầu nổi, với hàng
trăm khẩu pháo nặng 130ly của Bắc Việt.
Rồi thì căn cứ Ái Tử, nơi đặt Bộ Chỉ
Huy tiền phương của SĐ3BB cũng bị pháo kích nặng nề. Ðồng bào từ
các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Ðông Hà, bất kể Kinh hay
Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố
Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn
người đã làm mồi cho đạn pháo binh và Thiết giáp của bộ đội miền
Bắc, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, vì vừa phải bảo vệ
cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập...
Ðạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả,
không cần phân biệt xóm làng, chùa nhà thờ, dân lính, thành phố
đông người... Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam
Lộ, Ðông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một
ai, có thể ngờ tới.
Ngày 31/3 căn cứ hỏa lực của TĐ4 TQLC
tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn ngập, phải di tản vào lúc 9:40g
tối, sau khi hứng chịu nhiều thương vong.
Ngày 1/4 các căn cứ Ðông Hà, Cam Lộ, Ái
Tử bị pháo kích nặng nề nhưng cộng sản vẫn chưa chiếm được, nhờ
hải pháo của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị bắn
vào yểm trợ, trong lúc thời tiết càng xấu thêm, nên không quân
không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực
A–1, A–2, A–3, A–4 do SĐ3BB trấn giữ bị tấn chiếm, còn căn cứ
Fuller và Khe Gió thì di tản chiến thuật.
Căn cứ Holcomb của TĐ8TQLC, bị tràn
ngập lúc 12:30g khuya đêm 2/4. Tình hình chiến sự rối loạn khắp
nơi, cùng lúc tình cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê
thảm, khiến cho các cấp chỉ huy của SĐ3BB và tiểu khu Quảng Trị
gần như bó tay, vì không tìm ra kế hoạch nào, để ổn định tình
thế.
Rồi BTL
tiền phương của SĐ3BB được lệnh rút về thành phố Quảng Trị. Lữ
Đoàn 258 TQLC, được tăng cường thêm TĐ3PB/TQLC và TĐ7TQLC, lãnh
thêm nhiệm vụ phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong lúc đó căn cứ hỏa lực
Carroll của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn nhưng không có quân tiếp
viện. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ
nam Ðông Hà, để lại cho giặc nhiều khẩu đại bác 155ly.
6:30g sáng ngày 2/4/1972, bỗng có tin
TQLC Hoa Kỳ đã đổ bộ vào bờ biển Quảng Trị, để tiếp viện cho
QLVNCH. Tin trên làm cho quân dân trong tỉnh vô cùng phấn khởi
nhưng Hà Nội biết trước là tin vịt, nên càng tấn công mạnh khắp
nơi. Cùng ngày TĐ3TQLC và Thiết đoàn 20 chiến xa M48, được lệnh
giữ cầu Ðông Hà. Trận chiến trở nên ác liệt, vì bộ đội và chiến
xa cộng sản, chuẩn bị vượt cầu Ðông Hà. Ngày 3/4, Trung Ðoàn 2BB
bị bộ đội Bắc Việt truy đuổi khi rút về Cam Lộ, nên không kịp
dùng mìn phá cầu. Tại căn cứ Carroll do Trung tá Phạm Văn Ðính
chỉ huy, gồm Trung đoàn 56BB, các pháo đội diện địa, tổng cộng
quân số trên 2,000 người, kéo cờ trắng đầu hàng quân Bắc Việt.
Ðây là trường hợp duy nhất trong cuộc chiến Ðông Dương lần 2.
Tình hình đã quá nguy ngập, nên cầu Ðông Hà được lệnh giật sập,
chận được bước tiến của giặc trong một thời gian ngắn. Lữ Đoàn
369 TQLC lại được tăng cường thêm cho Quảng Trị.
Ngày 4/4, Lữ Đoàn 147 TQLC cũng phải bỏ
luôn căn cứ Mai Lộc, vì không chịu nổi pháo kích và chiến thuật
tấn công biển người. Vì quân số bị hao hụt quá nhiều, nên Lữ Đoàn
này được lệnh về Huế bổ sung và tái trang bị... Riêng TĐ7TQLC vì
quân số còn nguyên vẹn, nên được lệnh giữ đường huyết mạch QL số
1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh. Như vậy về phía tây, chỉ còn có
TĐ1TQLC, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn bảo vệ thành
phố mà thôi.
Do tình hình quá khẩn cấp và nguy ngập, nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn
I tăng cường thêm cho Quảng Trị nhiều đơn vị. Như vậy tính đến
ngày 5/4, chiến trường này có 2 Trung đoàn bộ binh của SĐ3 là 2
và 57, hai Lữ Đoàn 258 và 369 TQLC, bốn Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân,
hai Thiết đoàn 17 (M113) và 20 (M48), 24 Tiểu đoàn Ðịa Phương
Quân + NQ và 8 Tiểu đoàn Pháo binh. Nhưng vì lệnh chỉ huy không
thống nhất, giữa Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư lệnh QÐI) từ Ðà Nẵng và
Chuẩn tướng Vũ Văn Giai (Tư lệnh SĐ3BB) tại chiến trường, khiến
cho tình thế đã không được ổn định, mà càng gây thêm rắc rối trên
khắp các mặt trận. Cuối cùng Quảng Trị đã thất thủ, chỉ sau mấy
ngày bị pháo kích đã ban lệnh di tản.
Ngày 8/4, sau mấy ngày bị tổn thất vì
mưa pháo, TĐ3TQLC phải hoán chuyển về Ái Tử và BĐQ ra thay thế
giữ bờ nam Ðông Hà. Tại căn cứ Phượng Hoàng, cộng sản đã thảm bại
khi trực chiến với TĐ6TQLC, thiệt hại hơn một trung đoàn bộ đội,
21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt–Mỹ oanh
kích, bãi mìn cùng pháo binh. Hai chiếc T54 khác bị bắt sống đem
về thành phố Quảng Trị. Nhưng sau đó, TĐ6TQLC cũng được lệnh bỏ
căn cứ Phượng Hoàng vào ngày 12/4.
Ngày 14/4: Một cuộc hành quân đại qui
mô, do Trung tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ Huy, mang tên Quang Trung
729, khai diễn ngày 14/4 với mục đích tái chiếm các căn cứ ở phía
tây đã mất. Nhưng cùng lúc, cộng sản Bắc Việt đã mở ba cuộc tấn
công lớn vào Ái Tử, Ðông Hà và căn cứ Anne ở phía nam, đối diện
với quận Hải Lăng. Mục đích là muốn cắt đứt con đường huyết mạch
của QLVNCH, từ Quảng Trị về Huế. Ðể chống lại âm mưu trên, Tướng
Giai chia các lực lượng đang tham chiến tại đây thành 5 chiến
đoàn đặc nhiệm: Trung đoàn 57 BB giữ bờ nam sông Ðông Hà. Thiết
đoàn 1 + 20 + 2 LĐ 4, 5 BĐQ do Ðại tá chỉ huy trưởng LĐ1TG chỉ
huy, tái chiếm căn cứ Carroll. Lữ Đoàn 258 TQLC từ Ái Tử, tái
chiếm căn cứ Mai lộc. Trung đoàn 2BB giữ mặt trận từ Ba Lòng tới
bờ tây sông Thạch Hãn, ngăn không cho quân Bắc Việt tấn công
thành phố. Cuối cùng là Liên Ðoàn I BĐQ, gồm các Tiểu đoàn 21, 37
và 77, giữ con đường huyết mạch từ Quảng Trị tới quận Hải Lăng.
Chiến cuộc thật sự bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm
địch và bị pháo kích nặng nề. Bởi vậy thay vì quân ta tấn công,
lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn
nhất là cánh quân của LĐ5 BĐQ và Thiết đoàn 20 chiến xa. Tuy
nhiên tính đến ngày 18/4, các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vững
đựợc các vị trí chịu trách nhiệm.
Ngày 22/4, Lữ Đoàn 147 TQLC sau khi
được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị, thay
thế LĐ258 TQLC phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong đêm CS pháo kích làm
kho tiếp liệu của SĐ3BB tại La Vang, trong đó có kho xăng dầu và
cả một đoàn xe tiếp tế quân trang dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận
từ Ðà Nẵng tới.
Ngày 23/4, bất chấp sự thiệt hại to lớn
trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Không quân và Hải
pháo của Việt–Mỹ, cộng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp
nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người của cả hai
phía, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn. Trong lúc đó
gần tháng qua, người lính miền Nam các cấp, từ TQLC, BĐQ, Thiết
giáp, Bộ Binh, ĐPQ + NQ... ngày đêm thiếu ăn mất ngủ, chỉ đứng
dưới giao thông hào, chịu pháo, chịu đạn giữa trời mưa gió. Trong
lúc đó khắp các nẻo đường Quảng Trị, càng lúc càng chết chóc thê
thảm, bởi cảnh pháo kích bừa bãi của cộng sản. Quảng Trị đã thật
sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.
Ngày 27/4, tất cả nòng súng đại pháo
của quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái
Tử, các quận Mai Lĩnh, Hải Lăng. Trong lúc đoàn người tị nạn thay
vì tập trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tìm
sinh lộ, gây cảnh hỗn loạn trên Quốc lộ 1. Các cánh quân cũng bắt
đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị
đã tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SĐ3BB cũng là đầu não chiến
trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc. Ðúng lúc,
kho đạn lớn trong căn cứ Ái Tử lại phát nổ.
Ngày 28/4, trước áp lực của địch, cánh
quân của LĐ5BĐQ và TĐ20 rút về phía bên kia cầu Vĩnh Phước nhưng
bị pháo 130ly của Cộng sản bắn sập cầu, khiến nhiều xe M48 và đại
bác 105, 155ly bỏ lại bên bờ Bắc. Cũng từ phút đó, các cánh quân
còn lại của LĐ4, 5 BĐQ, LĐ 1 Thiết Kỵ và Trung Ðoàn 57 BB, phải
lui về phòng thủ căn cứ Ái Tử và thành phố Quảng Trị.
Ngày 29/4, lúc 2:00g sáng, cộng sản tấn
công Trung đoàn 2BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ ở phía tây thành
phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cộng sản với bộ binh có chiến
xa lội nước PT76, tấn công các Tiểu đoàn ĐPQ + NQ của tiểu khu
Quảng Trị. Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, khiến cho Tướng Giai
phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ nam sông Thạch Hãn
phòng thủ. Lúc đó Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết
binh sĩ đã rã ngũ, để chạy theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc
lộ số 1 đã bị cộng sản đóng chốt nhiều đoạn, từ Hải Lăng về Mỹ
Chánh, vì Tiểu đoàn 7 TQLC bị chuyển ra phòng thủ căn cứ Ái Tử.
Do đó đoạn đường huyết mạch, chỉ có chín cây số, bị bỏ ngỏ để
quân cộng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng máu
hồng, mà bia miệng và sử liệu gọi là Ðại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ
Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm
1972.
3. Rút
bỏ Quảng Trị:
Ngày 30/4, tư lệnh chiến trường kiêm tư lệnh SĐ3BB là chuẩn Tướng
Vũ văn Giai, triệu tập phiên họp đặc biệt và quan trọng, để bàn
kế hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ căn cứ hỏa lực Ái Tử. Do
đó trong cuộc lui quân, LĐ147 TQLC và TĐ2. Pháo binh/TQLC, với
quân số trên 2,000 người, khi quân qua cầu Thạch Hãn thì cầu bị
sập, khiến cho một số lớn chiến xa, xe cộ, đại bác và quân trang
dụng... phải bị bỏ lại phía bên kia cầu cho cộng sản. Lúc đó Lữ
Đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ giữ mặt tây từ sông Ô
Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên & Quảng
Trị. Ðồng thời phải giải tỏa Quốc lộ số 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ
Chánh, đang bị quân cộng sản chiếm và đóng chốt, nhất là cầu sông
Nhung, nằm giữa Quốc lộ 1. Tình trạng này, đã làm gián đoạn giao
thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Ðây là
mục tiêu chính, để quân Bắc Việt tha hồ tác xạ dữ dội và tàn
nhẫn, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác
tới Thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng
bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la
liệt khắp đường. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi
bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.
Ngày 1/5/1972, Tướng Giai tuyên bố bỏ
thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những
làm mười bảy triệu dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà còn khiến
cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất cả không ai tin được là tại
sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng,
nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn
cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kontum và nhất là địa ngục An Lộc
lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa
chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá. Theo Lê Huy
Anh Vũ, Trung tá thuộc phòng điện ảnh quân đội, một nhân chứng
trong ba ngày cuối cùng tại Bộ tư lệnh SĐ3BB, đã viết Tướng Giai
có hứa với thuộc hạ, là sẽ cùng với họ đi bộ. Nhưng cuối cùng
tướng tư lệnh đã thất hứa, đã cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ
quan tham mưu thân cận, lên trực thăng bay về Huế lúc 16:40g cùng
ngày. Cổ thành Ðinh Công Tráng–Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và
phòng thủ vững chắc gấp 100 lần thị xã An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt
vào tay cộng sản Bắc Việt, tối ngày 2/5/1972.
Giữa lúc đó, cánh quân còn lại tại
Quảng Trị, gồm Lữ Đoàn 147 TQLC, Liên đoàn 1 Biệt động quân và
các đơn vị của SĐ3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở
đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo kích nặng nề của giặc
nhưng cuối cùng cũng đã thoát được về Huế, sau khi lãnh chịu
nhiều thương vong thê thảm. Như vậy tính đến ngày 2/5/1972, tỉnh
Quảng Trị coi như hoàn toàn bị Bắc Việt cưỡng chiếm. Nhưng giặc
từ bộ đội, chiến xa, pháo binh kể cả đặc công, đã hoàn toàn bị
chặn đứng bên bờ bắc sông Mỹ Chánh bởi Lữ Ðoàn 368 Thủy quân lục
chiến do Ðại tá Chung chỉ huy. Nhờ Lữ Đoàn này ngăn được bước
tiến của quân Bắc Việt, nên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I, với vị Tư
lệnh mới là Trung tướng Ngô Quang Trưởng (thay Tướng Hoàng Xuân
Lãm), mới có đủ thì giờ chỉnh đốn lại các đơn vị và mở cuộc tấn
công tái chiếm Quảng Trị. Sau đó cổ thành Đinh Công Tráng, coi
như cũng được hoàn toàn giải phóng vào đêm 14/9/1972, khi người
lính của Ðại Ðội 3, Tiểu đoàn 3 TQLC, treo được ngọn cờ vàng ba
sọc đỏ của Quốc Dân VNCH trên kỳ đài. Những tên bộ đội cuối cùng
của Trung đoàn 48 cộng sản, lội sông trốn chạy về bờ Bắc Thạch
Hãn, sau 82 ngày bám trụ.
4. Nguyên nhân và hậu quả cuộc chiến
1972:
Ðầu năm
1972, Hoa Kỳ đang bước vào chu kỳ mới với việc tổng thống Nixon
ra tranh cử nhiệm kỳ hai, trong lúc hòa đàm tại Ba Lê giữa Mỹ và
Bắc Việt lại bế tắc. Cùng lúc phong trào phản chiến, do trí thức,
báo chí, truyền thanh truyền hình Mỹ chủ xướng, đang dâng cao;
còn quốc hội Mỹ, dưới sự chi phối của đảng dân chủ, lần lượt cắt
bỏ quyền của Tổng thống Nixon đối với sự tham chiến tại VN. Cuối
cùng Mỹ rút hết quân về nước, QLVNCH bị cắt giảm hỏa lực và quân
trang dụng. Ðó là những lý do khiến Hà Nội đốt giai đoạn, vượt
tuyến tấn công ào ạt vào khắp lãnh thổ VNCH vào mùa hè năm 1972.
Nhưng dù đã được Nga–Tàu quân viện và
bán chịu cho một số lượng quân dụng khổng lồ, tối tân như chiến
xa T54, 55, PT76, đại bác 130, 155ly, súng phòng không 23, 57 và
hoả tiễn tầm nhiệt SA7 (nợ chiến phí này ngày nay VC đem đất đảo
biển VN trả nợ cho Tàu đỏ). Ðồng thời sử dụng hết số 13 Sư Đoàn
tác chiến tại miền Bắc, quân số trên 136,400 người, bất thần mở
cuộc tấn công khắp lãnh thổ VNCH... Tuy nhiên Bắc Việt chỉ thắng
lợi lúc ban đầu, rồi thì sau đó đại bại hầu hết trên khắp các mặt
trận, cho dù Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã sử dụng binh pháp của
Liên Xô, tận dụng triệt để hỏa lực của đại pháo, xe tăng và biển
người, với mục đích đè bẹp nhanh chóng QLVNCH.
Ðối với Hoa Kỳ, khi nhận được tin Bắc
Việt vượt vĩ tuyến 17, qua sông Bến Hải và biên giới Lào–Miên tấn
công miền Nam. Tổng thống Nixon họp Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia,
quyết định cho phép Hải Không Quân Hoa Kỳ, trở lại yểm trợ hỏa
lực cho QLVNCH. Ngoài ra bộ binh không được tham dự, đồng thời
cuộc rút quân Mỹ về nước vẫn tiếp tục. Do đó Mỹ bắt đầu gia tăng
các lực lượng yểm trợ, chiến đấu tại VN. Hai hàng không
Constellation và Kitty Hawk, trở lại tăng cường cho hai Hàng
không mẫu hạm Corral Sea và Hancook, cùng một số lớn tàu tuần
duyên, khu trục hạm, có mặt quanh Cửa Việt trên 20 chiếc. Về
Không Quân, từ ngày 15/4/1972, Phi đoàn 35 chiến thuật, cùng với
3 phi đoàn F4 của TQLC Mỹ, đều trở lại VN. Ðồng thời tất cả B52
tại hai căn cứ Anderson Field (Guam) và Utapao (Thái Lan), gồm 38
chiếc, cũng được lệnh yểm trợ cho chiến trường VN. Ngoài ra, tổng
thống Nixon còn ra lệnh vào ngày 2/5/1972, mở chiến dịch
Linebacker I, tái oanh tạc miền Bắc, nhất là tại Hà Nội, Hải
Phòng. Ðồng thời thả mìn và thủy lôi, phong tỏa các cửa sông, cửa
biển của Bắc Việt, ngăn chận các tàu thuyền của Nga, Tàu và các
nước Ðông Âu, tiếp tế vũ khí đạn dược cho cộng sản Hà Nội. Sau đó
mở thêm chiến dịch Linebacker II, kéo dài trong 11 ngày đêm, từ
18/12 đến 29/12/1972, tàn phá miền Bắc rất nặng nề, khiến cho Hà
Nôi phải trở lại bàn hội nghị, tại Ba Lê với Mỹ.
Trong trận chiến này, VNCH có hai Sư
Đoàn bộ binh bị tan hàng, đó là SĐ22BB ở Tân Cảnh (Kontum) và
SĐ3BB tại Quảng Trị. Nhưng sự tan hàng và cung cách hành xử của
hai tư lệnh Sư Đoàn trên cũng khác biệt. Tại Kontum lúc 2 :00g
sáng ngày 24/4/1972, cộng quân tràn ngập căn cứ Tân Cảnh do
SĐ22BB trấn giữ. Ðại tá Lê Ðức Ðạt tư lệnh, đã từ chối lời mời
của Ðại tá cố vấn Mỹ là Kaplan, lên trực thăng cấp cứu của cố vấn
Mỹ tại QĐII là Paul Vann. Ông cũng không cầu cứu với Tướng Ngô Du
Tư lệnh Quân Ðoàn, chịu ở lại để cùng chết với binh sĩ của
SĐ22BB. Riêng SĐ3BB, trừ Trung đoàn 2BB, còn lại hai Trung đoàn
56 và 57, chưa đụng trận mà chỉ bị pháo kích, đã náo loạn và bỏ
chạy. Còn Tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh SĐ, hứa ở lại, để cùng di
tản bộ với đơn vị. Nhưng rồi lại thất hứa, leo lên trực thăng để
di tản với cố vấn Mỹ lúc 16:40g ngày 1/5/1972, bỏ lại binh sĩ của
Bộ Tư Lệnh và Ðại Ðội Tổng Hành Dinh của SĐ3BB, như rắn mất đầu,
phải chạy theo Thiết Ðoàn 18 về Huế.
Ngoài ra cũng còn rất nhiều chuyện lạ
như lúc quân Bắc Việt qua sông Bến Hải, tràn ngập và tấn công
QLVNCH, thì người Mỹ lại dở trò chủ nhân, làm cho VNCH đang lúc
nguy khốn lại càng tận tuyệt. Theo Turley trong The Easter
Offensive, thì việc Bộ tư lệnh KQ Mỹ, cấm tác xạ vào vùng phi
quân sự tại miền Bắc tỉnh Quảng Trị, trong phạm vi đường kính
27km, khi tung tin chiếc phi cơ EB66 của một Ðại tá Hoa Kỳ, bị
hỏa tiễn Sam của cộng quân bắn hạ tại vùng Cam Lộ. Lệnh này được
thi hành suốt 12 ngày đầu của trận chiến vùng hỏa tuyến. Tạo cơ
hội cho Hà Nội mở một hành lang an toàn, khi di chuyển qua vùng
giới tuyến mà không bị máy bay hay pháo binh của ta oanh tạc và
tác xạ. Tại căn cứ hỏa lực Ái Tử, trong lúc QLVNCH đang bị giặc
vây khổn và pháo kích tơi bời, lại nhận được thông báo từ các cố
vấn, rằng B52 sẽ đến thả bom san bằng, khiến cho BTL SĐ3BB phải
cấp tốc ban hành lệnh di tản chiến thuật. Ðó là tất cả những
chuyện khôi hài cười ra nước mắt, khiến cho ai đọc tới, cũng phải
chua xót và tủi hổ cho thân phận nhược tiểu VN.
Sau hết là cái tình yêu thương giữa
đồng bào và người lính trận trong cơn hoạn nạn, cũng được thể
hiện một cách trọn vẹn, qua cuộc chiến 1972. Chính tại những miền
đạn bom lửa máu này, những chỗ không bao giớ có bóng dáng các vị
trí thức, giáo sư, nhà báo, ký giả hay nhà văn nhà thơ gì gì đó,
mà chỉ có người dân cùng người lính chia nhau niềm đau khổ, đói
rách và khủng hoảng tinh thần. Người quốc gia, từ công chức, cảnh
sát, cán bộ cho tới các quân binh chủng của QLVNCH, ai nấy đều
chấp nhận cái chết, chịu ở lại, đổi mạng mình, để đem lại sự bình
an hạnh phúc cho hậu phương. Thắm thiết biết là bao, đó là sự đùm
bọc đồng bào như chính bản thân mình. Những khẩu phần lương khô
ít ỏi, những ngụm nước uống thiếu vệ sinh cùng với những sớt chia
sự nguy hiểm xung quanh, đều là những viên thuốc thần dược, xoa
dịu và an ủi niềm đau bất hạnh của đồng bào trong lúc nguy khốn.
Chẳng những thế, đối với cán binh bộ đội giặc, bị bắt làm tù
binh, cũng được người lính đối xử nhân đạo với tình đồng bào, mà
không hề phân biệt Nam–Bắc, dù thực chất Hà Nội luôn coi đồng bào
miền Nam là kẻ tử thù.
Trần Ðức, một người lính Nhảy Dù trên
đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị, khi ngang qua Ðại Lộ Kinh
Hoàng, đã không cầm nổi nước mắt, giữa hàng trăm, hàng ngàn xác
chết bên cạnh những chiếc xe đạp, xe gắn máy, nằm ngổn ngang,
chỏng gọng, những gồng gánh, bao bọc... bị đạn pháo đổ ra tung
tóe. Những chiếc xe jeep, xe thùng hồng thập tự, vết đạn xuyên lỗ
chỗ. Ngọn gió Lào nóng rát mặt đẩy đưa cánh cửa xe cho thấy những
xác người nằm trên băng ca, những cộng băng phất phơ chỉ còn bám
vào bộ xương khô bởi mấy rẽ xương sườn. Có bộ xương em bé nằm
trên bộ xương người mẹ dưới một bụi gai. Có xác khô đét như người
tiền sử nằm giữa đám cỏ may bên lề đại lộ. Có xác nằm sấp, có xác
nằm co như còn mong bờ đất dưới ruộng che chở cho mình thoát tầm
đạn giặc. Ðó đây, giữa đám xác người, rải rác những đuôi đạn súng
cối 61ly và B40.
Thì ra cộng quân đã đứng rất gần để tác
xạ vào đám dân Quảng Trị chạy loạn. Họ đã bắn như bắn bia. Bắn
cho chết đến người cuối cùng. Bất kể đàn ông, đàn bà. Bất kể
người già hay trẻ thơ. Thật là rùng rợn. Hình ảnh này trong trận
tấn công “Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972” ghi sâu mãi mãi trong ký ức của
những người đã chứng kiến thảm cảnh người dân Quảng Trị phải gánh
chịu và tội ác chiến tranh của cộng sản Bắc Việt.
Ðoạn đường mang tên “Đại Lộ Kinh Hoàng”
nay không còn xác chết, không còn dấu vết của tội ác. Họ đã được
thân nhân mang về mai táng ngay sau đó. Sau tháng 5/1975, đất
nước đắm chìm trong tù gông nô lệ của thực dân VC, vì vậy hằng
năm đến ngày giỗ tập thể, hàng ngàn gia đình ở vùng quê hương
Quảng Trị chỉ âm thầm thắp nén hương thơm tưởng nhớ. Không ai dám
hé răng nửa lời. Có những người không còn thân nhân thì mồ hoang,
mả lạnh, không chút khói hương. Nghĩ đến xót xa làm sao! Họ đã
chết tức tưởi mà đến nay họ còn u uất nơi bờ cao bụi rậm, không
sao siêu thoát được. Hẳn họ không sao có thể ngờ được là nhiều
năm sau, người đời vẫn còn nhớ thương họ.
Vào ngày 28/4 đến ngày 2/5/2002 vừa
qua, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Trị đã tổ
chức tại chùa Long An thuộc quận Triệu Phong đàn tràng cầu siêu
cho những nạn nhân bị cộng sản sát hại trong trận chiến Mùa Hè Đỏ
Lửa năm 1972 tại Quảng Trị, mặc dù chính quyền địa phương đã cho
cán bộ đi từng nhà để ngăn cản, đe dọa, chặn đường, cấm cho thuê
xe. Thượng tọa Thích Hải Tạng, trụ trì chùa Long An cho biết,
nhân dịp này, đồng bào đã mang hàng trăm linh vị các nạn nhân của
cộng sản trong Mùa Hè Đỏ Lửa đến chùa để xin được giải oan siêu
thoát.
Nghiệt
ngã của Dân Tộc Việt là thế đó. Vậy mà còn nhiều tên việt gian
tại hải ngoại cứ dửng dưng ca tụng Hồ và đòi hòa hợp hoà giải với
vòng ôm lớn cùng VC.
Viết tại Xóm Cồn Hạ Uy Di
MƯỜNG GIANG
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by batkhuat nguyen sưu tầm
Đăng ngày Chúa Nhật, March 10,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang