Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
Bà Huyện Thanh Quan
Tác giả:
Phạm Hiền Mây
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Sinh năm một
ngàn tám trăm lẻ năm và mất năm một ngàn tám trăm bốn mươi tám
(1805–1848), Bà Huyện Thanh Quan là một thi sĩ nổi tiếng của thế
kỷ thứ mười chín.
Gọi Bà Huyện Thanh Quan, là bởi vì
chồng bà làm tri huyện Thanh Quan. Thời vua Minh Mạng, bà được
mời vào kinh, giữ chức Cung Trung Giáo Tập, dạy học cho công chúa
cùng các cung phi. Khi chồng mất, bà xin nghỉ dạy, lui về quê và
ở đó đến hết đời.
Các sáng tác của bà hầu hết bằng chữ
Nôm. Giáo sư Dương Quảng Hàm từng nhận xét: Những bài thơ Nôm của
bà, phần nhiều là tả cảnh, tả tình. Bài nào cũng hay và tỏ ra, bà
là người đoan chính, thanh tao, có học thức, thường nghĩ ngợi đến
nước đến nhà. Lời thơ trang nhã, điêu luyện.
***
Bà cũng là người có nhiều giai thoại.
Những người quá nổi tiếng, quá đặc biệt, quá độc đáo, thêm vào
đó, hoặc là quá ẩn mình, hoặc là quá quái chiêu, thì người ấy
thường có nhiều giai thoại.
Giai thoại là những câu chuyện hấp dẫn,
thú vị, ban đầu, được dựa trên một vài phần sự thật, nhưng vì
truyền miệng qua nhiều năm tháng, một ít sự thực ấy cũng bị mòn
dần, thay vào đó, là những thêm bớt, riết rồi thành những bản
truyền tụng, vừa khác nhau, vừa hoang đường và vô lý.
***
Sâm Cầm Hồ Tây
Giữa thế kỷ mười chín, ở Nghi Tàm, khu
vực Hồ Tây (Nghi Tàm là nơi mà rất nhiều văn nhơn, mặc khách ở
nơi này, như Xuân Hương, như Nguyễn Du), nổ ra cuộc đấu tranh,
chống lại lệ nộp Sâm Cầm – kiểu như con gà nước. Dân chúng họ làm
đơn, tố cáo với triều đình về nạn hạch sách, nhũng nhiễu của bọn
quan tham. Xem xong đơn, vua Tự Đức đã ra lệnh bãi bỏ lệ này.
Lá đơn ấy là do Bà Huyện Thanh Quan
soạn thảo.
Kẻo
Mai Nữa Già
Bữa nọ, chồng bà, Lưu Nghi đi vắng. Có một cô tên Nguyễn Thị Đào,
đệ đơn lên xin được ly dị để lấy chồng khác, vì người chồng hiện
tại đã ruồng bỏ cô. Thương cảm, Bà Huyện Thanh Quan đã thay
chồng, phê vào đơn kiện của cô Đào, cho phép cô được ly hôn, bằng
bài thơ như sau:
Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ
rằng: Xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút
kẻo mai nữa già.
Làm Trâu
Có một ông nọ, thi đỗ Hương Cống, viết
đơn lên quan tri huyện, xin được mổ trâu để làm giỗ cho cha, vì
thời gian này, triều đình ngăn cấm, hạn chế việc mổ trâu để phát
triển canh nông. Chồng Bà Huyện lúc ấy vắng nhà, nhưng cảm động
trước hiếu hạnh của ông Cống (một kiểu gọi tên theo bằng cấp khi
xưa), bà phê vào đơn câu thơ:
Người ta thì chẳng được đâu
Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm.
“Làm” ở đây, vừa có nghĩa là “mổ”, mổ
trâu, thịt trâu, mà cũng vừa có nghĩa là “hóa thành, biến thành”,
thành con trâu.
Biết là Bà Huyện có ý dùng chữ để cợt
mình nhưng thấy được việc, ông ta cũng vui vẻ chào rồi ra về.
Mới thấy, Bà Huyện Thanh Quan, khi có
dịp, cũng nghịch lắm, chớ nào phải hiền đâu!
***
Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu
là Gia Long, định đô tại Huế, thì Thăng Long trở nên hoang phế.
Chỉ còn là một tỉnh, nên Hà Nội bị mất đi vị trí, giá trị trung
tâm của mình, vốn kéo dài suốt từ thời nhà Lý đến nhà Lê.
Thăng Long Hoài Cổ có nghĩa là nhớ
thành Thăng Long xưa, được Bà Huyện Thanh Quan viết theo thể thất
ngôn bát cú Đường luật, tả cảnh tang thương để ngụ tình hoài
niệm.
Bà trách
ông trời sao lại biến cuộc đời thành sàn diễn của những đổi thay,
thay đổi bởi con người. Đến núi sông kia là vật vô tri mà cũng
còn trơ gan, thách thức, cau mặt, chẳng vui, huống hồ gì. Soi vào
tấm gương mới cũ, thấy cảnh, thấy người, chỉ vừa mới qua nay
thôi, mà biết bao đổi dời, tan vỡ, nghe lòng như ai cắt, nghe
lòng như ai xé, đứt cả ruột gan, buồn sao mà quá đỗi.
THĂNG LONG HOÀI CỔ
Tạo hóa gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối
xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài
bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế
nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy
người đây luống đoạn trường.
***
Hý trường: Sân khấu diễn tuồng. Cuộc
đời ví như sân khấu tuồng, hết lớp này thì đến lớp khác, thay đổi
xoành xoạch.
Tinh sương: Một năm.
Thu thảo: Cỏ mùa
thu.
Tịch dương: Bóng mặt trời lúc chiều
tà.
Tuế nguyệt: Năm tháng.
Tang thương: Lấy từ câu “tang điền
thương hải”, ruộng dâu biến thành biển xanh, thay đổi luôn luôn.
Đoạn trường: Đau lòng đứt ruột. Truyện
xưa, có người giết một con vượn con, vượn mẹ trông thấy gào khóc
cho đến chết, lúc mổ ra thì thấy ruột đứt hết cả.
***
Khi bình luận về tác phẩm Thăng Long
Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ông Chế Lan Viên, ổng viết thế
này, thoạt đọc, thì thấy như có vẻ ngồ ngộ, nhưng đọc hai, ba
lần, thấy ổng cũng có lý chớ chẳng phải không: Đức Phật nói rằng,
mạt pháp, cư sĩ sẽ hơn tăng già, phụ nhân sẽ hơn cư sĩ. Thi nhân
(tức là Chế Lan Viên), cũng có thể nói rằng, đến đời mạt pháp
(chỗ này, đáng lý, Chế Lan Viên phải thay thành “mạt chữ”, chớ
nhỉ), những người dốt chữ sẽ hiểu được thơ, được đạo cả, hơn các
ông cụ khệnh khạng làm sách giáo khoa.
Chế Lan Viên nói tiếp: Cái hay của một
câu thơ, không chính là câu thơ đó, mà là chút linh hồn bao quanh
câu thơ. Thơ không phải là thứ thấy ở trước mặt hay đang trên
tay. Bởi thế cho nên, Đức Phật lại nói: Y kinh giảng giải, tam
thế Phật oan.
Nghĩa là, ông Chế Lan Viên, ông ấy chống lại việc áp đặt bài
giảng của người dạy đối với người học. Ông không thích dạy trò
theo một khuôn như đúc, rằng xưa là lối xe ngựa, nay là lối cỏ
thu; rằng xưa là lâu đài nay chỉ có bóng mặt trời sắp lặn; rằng
Bà Huyện đã đến Thăng Long vào một chiều mùa thu, vân vân và mây
mây.
Vẫn là
ông Chế Lan Viên đang nói: Cứ giảng theo sách giáo khoa như vậy,
thì thảo nào, lại không cho rằng, thơ Đường chỉ là thơ tả cảnh.
Tức là, theo ông Lan Viên, cảnh không
đơn thuần là cảnh, cảnh khi đã vào thơ rồi, thì tất thảy cảnh ấy
đều là tình. Không đợi đến mùa thu, ngay cả cảnh xuân vui tươi,
sinh động, cũng có thể khiến người ta vương vương lòng hoài cổ,
nhung nhớ chuyện xưa, ủ mặt cau mày.
Ông kết luận: Phải có trăm nghìn nghĩa
như trăm nghìn con dao đâm ngang dọc bài thơ thì mới mong ráo
nghĩa bài thơ. Bà Huyện Thanh Quan viết bài thơ, thì cứ sau mỗi
câu thơ là một tâm hồn. Mỗi tâm hồn là một bầu trời. Mỗi bầu trời
lại dọc ngang biết bao nhiêu hướng. Hãy dọc ngang để cho chim
bay. Hãy tung hoành để cho chim bay. [...] Cứ sau một cảnh tàn
phá bày ra trước mắt, Bà Huyện Thanh Quan chợt thấy cả bao nhiêu
chuyện phế hưng từ trước tới giờ.
Tự do. Đấy chính là tự do. Điều mà ông
Chế Lan Viên khi bình giảng bài thơ này, muốn nhấn mạnh, là hãy
để sự cảm thụ văn chương được tự do. Thầy giáo rất không nên áp
đặt một kiểu hiểu duy nhứt. Thầy giáo chỉ hỗ trợ, giải thích, gợi
mở. Và xin nhắc lại một lần nữa, câu phát biểu rất hay của ông
ấy: Phải có trăm nghìn nghĩa như trăm nghìn con dao đâm ngang dọc
bài thơ, thì mới mong ráo nghĩa bài thơ.
***
Xuất thân trong một gia đình quan lại,
có nhan sắc, có học, có tài thơ, giỏi nữ công gia chánh, nên bà
được vua Minh Mạng cho vời đến kinh đô làm nữ quan Cung Trung
Giáo Tập. Trên đường ra Phú Xuân, bà đến Đèo Ngang, đúng vào lúc
hoàng hôn đang buông xuống, mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh
vàng hắt nghiêng xuống, chênh chênh.
Đèo Ngang, con đường đèo lãng mạn và
đậm chất thơ nhất Việt Nam nằm giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng
Bình. Đèo Ngang có mặt nhiều lắm, không chỉ trong thơ Bà Huyện
Thanh Quan, mà còn trong thơ của Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Nguyễn
Văn Siêu, Cao Bá Quát.
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom
dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông,
chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng, con cuốc
cuốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một
mảnh tình riêng, ta với ta.
***
Tiều: Người kiếm củi.
Chợ: Nhiều người cho rằng, chỗ này phải là “rợ” mới đúng.
Quốc quốc: Từ đồng âm. Là con chim
Cuốc, còn gọi là Tử Quy, Đỗ Vũ, Đỗ Quyên. Tương truyền, Thục Đế
và Đỗ Vũ gặp lúc biến lên núi ở ẩn, sau chết, hồn hóa ra chim
Cuốc, vì còn nhớ nước cũ, nên cứ kêu quốc quốc.
Gia gia: Từ đồng âm. Là con chim đa đa.
Gà rừng. Gà Gô.
***
Tâm trạng của bà khi đến kinh đô nhận
nhiệm vụ, là tâm trạng của một lữ khách – khách đường xa – ngổn
ngang trăm mối. Mối nhà, mối nước, mối nào cũng là gánh quá nặng
ở trên vai.
Những đá những lá những tà những hoa, líu ríu, chen vào nhau, làm
bối rối thêm, làm lúng túng thêm, điều này xọ điều kia, hệt như
tơ vò.
Giữa
khung cảnh rộng lớn, mênh mông, lạnh lẽo, ngút ngàn đến như vậy,
mà chỉ tiều vài chú, mà chỉ chợ mấy nhà, nên nhận ra, chỉ ta với
ta, hỏi sao không nghe lòng nao nao, vời vợi, hỏi sao không cảm
thấy bồn chồn, chẳng thể nào yên trong dạ.
Tiếng kêu xa xót, ray rứt, khắc khoải
của con chim cuốc rồi tiếng gào đớn đau đến khản cổ của con đa đa
đã làm lòng tác giả xuyến xao lại càng thêm bồi hồi, xao xuyến,
đã nhớ thương lại càng thêm tha thiết thương nước nhớ nhà.
Bài thơ là nỗi buồn xa vắng, nỗi cô
đơn, nỗi lạc lõng, nỗi u hoài khôn nguôi của tác giả trong một
khung cảnh vừa thưa thớt vừa cô liêu đến hoang sơ, tĩnh mịch, vừa
trống vắng vừa héo hắt đến tàn tạ, đìu hiu.
***
Cũng “ta với ta”, nhưng ở Nguyễn Khuyến
trong bài Bạn Đến Chơi Nhà, thì khác: bác đến chơi đây, ta với
ta. Ta này là Nguyễn Khuyến. Ta kia là bạn của ổng. Ta này cộng
ta kia là hai. Hai người.
Còn: một mảnh tình riêng, ta với ta –
thì khác. Ta này là thân xác. Ta kia là tâm hồn, tình cảm. Nói
cho sang, nói cho oai, nói cho bớt buồn thôi, chớ ta này, cộng
với ta kia, cộng tới cộng lui, cộng kiểu gì thì cũng chỉ ra có
một thôi.
Một,
một mình, nên, buồn lắm. Một, một mình, nên, lẻ loi, đơn chiếc
lắm.
***
Ở thế kỷ mười chín, dưới thời phong
kiến, phụ nữ được ăn học để làm được thơ, xem ra, chẳng có mấy.
Và nổi tiếng, thì chỉ có hai bà, bà Huyện Thanh Quan và bà Hồ
Xuân Hương.
Nếu bà Xuân Hương sắc sảo, nghịch ngợm, mạnh mẽ, khẩu khí bao
nhiêu thì bà Thanh Quan lại đằm thắm, trầm lắng, sâu kín, khuê
các bấy nhiêu. So về sự nghiệp, thì bà Xuân Hương ăn đứt về số
lượng tác phẩm để lại. Nhưng dù sáng tác ít hơn, không độc đáo và
tiếng tăm bằng, thì bà Thanh Quan vẫn là một người làm thơ đáng
nể.
Bà chọn
chữ kỹ lưỡng, trau chuốt nên đẹp. Bà dùng nhiều từ cổ nhưng nhờ
phối hợp khéo nên câu thơ vẫn thanh thoát, nhẹ nhàng, trang nhã
mà vẫn mới, vẫn hay. Thơ bà giàu nhạc tính, giàu hình ảnh, các vế
đối nhau cân chỉnh. Giọng thơ của bà du dương và luôn man mác
buồn. Ý, tứ, hàm súc, tròn trịa, không bị hụt hơi về cuối.
Ước lệ, tượng trưng, nhưng do câu thơ
viết có hồn vía nên vẫn tạo được rất nhiều cảm xúc nơi người đọc,
nhất là những người đang ở xa quê hương, ở xa gia đình, và sinh
vào những thập niên bảy mươi của thế kỷ hai mươi đổ về trước.
Tôi đương ở ngay đây, ngay trên đất cha
sinh mẹ đẻ đây, vậy mà mỗi lần đọc thơ bà, tôi vẫn nghe bồi hồi
lắm nỗi. Chắc chắn không phải là nhớ quê rồi, vì quê tôi ngay đây
mà. Không nhớ quê nhưng nhớ người xưa, nhớ cảnh cũ, nhớ từ những
ngày hạnh phúc ấm êm bên cha bên mẹ đủ đầy, bên thầy bên cô, bên
bạn bè, trường lớp, nhớ đến những tháng năm tuổi nhỏ, tuổi mà ăn
chưa no, lo cũng chưa tới.
Nên thơ bà, người ta vẫn thích. Nên,
thơ bà, người ta vẫn không quên. Nhắc đến là đọc ro ro, như tôi,
tôi thuộc thơ bà làu làu, từ những ngày còn học trung học, không
như thơ của một số tác giả khác, rất khó cho vô đầu, rất khó để
nhớ.
***
Lại kể thêm giai thoại nữa về bà với
vua Minh Mạng. Ngày nọ, vua ban cho ông quan kia hai chữ Phúc
Thọ, nhân dịp ông quan ấy lập được công trạng. Viết xong, vua đưa
cho Bà Huyện Thanh Quan xem và hỏi, được không? Bà xem xong, nhỏ
nhẹ, thưa bệ hạ, phúc tối hậu, thọ tối trường, (nghĩa là, phúc
rất dày, thọ rất dài).
Vua ngẩn ra một hồi, sau đó, vua phát
hiện ra, chữ phúc mình viết mập ù, còn chữ thọ lại dài thòn lòn.
Biết là cô giáo chê chữ mình, nhưng chê hay quá, chê khéo quá,
nên Minh Mạng đành cười trừ, xí xóa.
Ở trong cung vua, chốn hoàng gia, ăn
sung mặc sướng, có kẻ hầu người hạ, được nể nang, được trọng
vọng, nhưng bà nào có vui. Bà luôn ở trong tâm trạng của nỗi nhớ
nhà, thương nước, như bài thơ Chiều Hôm Nhớ Nhà dưới đây:
Vàng tỏa non tây, bóng ác tà
Đầm đầm
ngọn cỏ, tuyết phun hoa
Ngàn mai lác
đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng,
khách nhớ nhà
Còi mục thét trăng miền
khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước nhường ngao ngán
Mấy
kẻ tình chung có thấu là?
Sài Gòn ngày 14/02/2024
Phạm Hiền Mây
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nghiem nguyen sưu tầm
Đăng ngày Thứ Năm, February 15,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang