Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
Chuyện MA
Tác giả:
Nguyễn Văn Tới
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Khi nói về chuyện ma thì hầu như ai cũng đồng ý rằng nhà tù
là nơi có nhiều ma hơn mọi nơi khác. Đằng sau những song sắt,
những bức tường cao lớn của trại giam, những cảnh tra tấn, ép
cung tàn bạo đến chết diễn ra rất thường mà người bên ngoài không
thể nào tưởng tượng được. Lại thêm những người tù chết oan, những
người tù tự tử vì không chịu được cảnh cô độc trong những phòng
giam không cửa sổ, linh hồn không thể siêu thoát sau khi chết, họ
vẫn còn vương vấn nơi mà thân xác họ đã bị nhục hình.
Tôi có dịp đến San Francisco,
California nên không thể không ghé qua thăm 1 nhà tù nổi tiếng
của nước Mỹ, trại giam Alcatraz, hay còn được gọi là The Rock.
Ngoài việc đây là nơi giam giữ những tù nhân nổi tiếng như AL
Capone, Doc Barker, và George “machine gun” Kelly..., nó còn nổi
tiếng có ma nên gợi trong tôi sự tò mò muốn so sánh nhà tù Mỹ và
nhà tù Việt để coi ma Mỹ khác với giống ma Việt Nam ở chỗ nào, vì
tôi đã có cái “hân hạnh” nếm mùi mấy trại tù Việt cộng khác nhau,
và hơn nữa là gặp ma Việt trong trại giam Chí Hòa.
Bầu trời trong xanh, gió nhẹ, không khí
mang nặng mùi biển, chiếc phà rời bến cảng 33 (Pier 33) ra đến
trại Alcatraz mất khoảng 15 phút. Sau khi nói sơ qua lịch sử của
trại, người hướng dẫn viên bắt đầu kể chúng tôi nghe nhiều chuyện
ma khi đến thăm những phòng nhốt tù ở đây. Bà cho biết nhiều
người làm việc ở đây đã gặp hay cảm nhận được những hồn ma bóng
quế của nhiều tù nhân vẫn còn lảng vảng chưa siêu thoát, thỉnh
thoảng vẫn hiện về than khóc hằng đêm. Họ đã từng nghe tiếng chân
di chuyển hay những tiếng động lạ lùng, lẫn tiếng khóc than nỉ
non khi đang đi tuần tra trong khu vực giam giữ; hoặc những lời
thì thầm bên trong những bức tường, và những bóng hình di động
trong những hành lang trại giam.
Nơi nhiều ma nhất là khu D, phòng Strip
Cells, là nơi nhiều tù nhân bị hành hạ, lột truồng, và sống trong
1 căn phòng tối, chỉ được ăn ngày 1 lần với bánh mì khô và nước,
không có bồn rửa mặt, nhưng có 1 lỗ trên nền nhà làm cầu tiêu. Tù
nhân có thể bị biệt giam như thế đến 19 ngày cô độc, đói lạnh,
nên họ tự tử rất nhiều. Phòng giam này được thiết kế để bẻ gãy
tinh thần tù nhân cứng đầu nhất, bắt họ phải quy hàng và tuân
theo luật lệ trại giam.
Nơi thứ hai là phòng biệt giam 14, khu
D. Vào năm 1940, 1 tù nhân bị giam ở đó, nửa đêm anh ta la hét
kinh hoàng rằng có 1 con vật gì đó, cặp mắt đỏ long lên sòng sọc,
đang tấn công mình. Mặc cho hắn kêu gào kinh khiếp, không 1 cai
tù nào thèm ngó ngàng đến. Sáng hôm sau, khi điểm danh, họ thấy
hắn nằm chết, cổ bị bóp nghẹt đến tắt thở. Vài ngày sau, khi đếm
số tù, thấy dư ra 1 người, họ cho biết thấy người tử tù đó đứng
xếp hàng. Họ đi tới coi, thì người đó biến mất.
Sau này, khi trại giam này đã trở thành địa điểm cho khách du
lịch đến coi, nhiều người cho biết đã cảm thấy lạnh sống lưng và
cảm thấy 1 nỗi sợ hãi khi đến phòng này. Người hướng dẫn du lịch
đưa chúng tôi đến coi những phòng giam nổi tiếng trong trại, kể
cả bước vào căn buồng biệt giam của Al Capone vào những ngày cuối
đời của hắn. Riêng tôi chẳng có cảm giác sợ hãi hay lạnh người
khi bước vào bên trong và ngồi xuống những cái giường ở đó; chỉ
thoáng qua trong đầu tôi là 1 cảm giác nao nao khó tả vì nơi đây
gợi lại trong tôi hình ảnh buồn đau ngày cũ ở trại giam Chí Hòa.
Tôi nhận thấy điều kiện sống và phòng giam giữ của Alcatraz 100
năm trước đây vẫn còn tốt hơn rất nhiều các trại tù ở Việt Nam
sau năm 1975.
*****
Trại
giam Chí Hòa, ngày xưa chính phủ Việt Nam Cộng Hòa gọi là trại
cải huấn Chí Hòa. Khám Chí Hòa do 1 kiến trúc sư người Nhật thiết
kế và xây dựng theo thuyết ngũ hành, bát quái nhưng phải bỏ dở vì
thua cuộc chiến, và người Pháp trở lại hoàn thành công trình này.
Tòa nhà là sự hòa hợp những nét căn bản của kiến trúc Pháp: kiên
cố, kín đáo, mát mẻ, vừa mang nét huyền bí âm dương ngũ hành của
phương Đông. Khám có hình bát giác với 8 cạnh đều nhau, 8 góc
tượng trưng cho 8 quẻ: “Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Cẩn, Khảm, Đoài,
Ly” trong Kinh Dịch. Khám có 8 khu giam phạm nhân, xây hình bát
giác vuông. Mỗi cạnh của bát quái trận đồ là 1 khu, lưng xây bịt
kín ở phía ngoài còn phía trong toàn song sắt và mỗi khu có từ 10
đến 14 phòng giam.
Chí Hòa chỉ có 1 cửa vào nên người ta
gọi đó là “cửa tử”. Qua cửa này là hệ thống đường hầm thiết kế
theo cung vị, nếu không được hướng dẫn, người đi vào sẽ bị mất
phương hướng, giống như lọt vào 1 mê cung, không thể tự tìm đường
ra được. Nhà tù được xây dựng để nhốt những người Việt Nam yêu
nước chống lại chính quyền xâm lăng Nhật, Pháp nên có rất nhiều
tù nhân đã chết oan ức hay bị nhục hình bỏ mạng khi bị giam giữ ở
đây. Thời cộng sản chiếm miền Nam, nó là nơi kinh hoàng, chết
chóc cho những người thua cuộc miền Nam. Oán khí ở nơi đây ngất
trời trong thời gian này vì người chết quá nhiều, hơn hẳn trong
cả 2 thời kỳ Pháp, Nhật chiếm nước ta.
Năm 1983 khi tôi bị chuyển từ trại giam
quận 1 qua phòng 5 khu AH khám Chí Hòa. Cạnh phòng tôi, chỉ cách
1 bức tường, là khu A, nơi các phòng giam tù tử hình. Ở đây,
người tù tử hình bị cùm chân vào 1 thanh sắt dài; mùa hè, họ chỉ
mặc quần đùi, cởi trần và không được giữ bất cứ đồ thăm nuôi hay
vật dụng cá nhân. Bọn cai tù theo dõi ngày đêm không để tù nhân
dùng bất cứ đồ vật gì có thể tự tử, chúng có nhiệm vụ giữ tù nhân
“phải sống” cho đến lúc họ sẽ “được chết”.
Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng mở
khóa loảng xoảng lúc nửa đêm về sáng. Tiếng cai tù Việt cộng lẫn
đám trật tự xì xào nói chuyện khi điệu tử tù ra pháp trường, sau
khi cho họ bữa ăn ân huệ cuối cùng, thường là 1 cái bánh bao,
chai nước ngọt và 2 điếu thuốc “có cán” hiệu Du Lịch. Thông
thường thì họ làm không ồn ào lắm, nhưng đôi khi họ phải vật lộn,
quát mắng, to tiếng với tử tù dù người đó đã bị còng cả tay.
Những tiếng ú ớ, tắt nghẹn thoát ra từ người tử tù, miệng bị nhét
1 trái chanh hay 1 trái cóc với miếng vải buộc chặt bên ngoài. Có
người bị nghẹt thở chết trước khi ra pháp trường. Thông thường
thì họ không còn đi nổi vì bị cùm lâu ngày, bị kéo lê lên xe bít
bùng và chở đi trường bắn ở Thủ Đức.
Những đêm dài im lặng, nằm thao thức
không ngủ, trong sự tĩnh mịch cô liêu, cái không gian u mê, ám
chướng này, lòng tôi dậy lên nỗi xót xa của kiếp tù; tôi nhìn
được những đổi thay của đất trời bên ngoài song sắt, linh cảm
được cái âm khí nặng nề lảng vảng quanh đây, nghe tiếng khóc than
ai oán, tiếng rên rỉ, tiếng kể lể nức nở không biết của những tử
tù hay của những linh hồn còn vất vưởng nơi trại giam. Âm thanh
trong đêm trường từ xa đưa lại lúc rõ lúc không nghe rờn rợn. Một
vài lần tôi còn nghe được 1 giọng hát bi ai, thống thiết của bài
“Hận Đồ Bàn”, rồi tiếng ngâm thơ sang sảng đầy hùng tráng bài “Hổ
nhớ rừng” của Thế Lữ. Tiếng ngâm bi hùng của 1 chiến sĩ vô danh
tranh đấu cho tự do, biết mình sắp lìa xa cõi đời vĩnh viễn,
không còn gì để mất nên anh không sợ cai tù lẫn chính quyền.
Những người trật tự cho biết anh là tù chính trị lãnh án tử hình.
Bọn cai tù, mới đầu còn dọa nạt, có khi nhét giẻ vào miệng để bắt
anh im, nhưng riết rồi cũng phải chịu thua, cứ để cho người tử tù
này muốn làm gì thì làm.
1 đêm nọ, như thường lệ, dưới 1 bóng
đèn tròn buồn rầu soi sáng trong phòng, tất cả mọi người tù đang
say ngủ, nằm xếp lớp như cá hộp; tôi bị đánh thức bởi nhiều tiếng
hét thất thanh xé tan sự im lặng trong phòng giam. Tiếp theo,
thêm nhiều tiếng khóc to sợ hãi, rồi lan ra như 1 hiệu ứng dây
chuyền, cả phòng 5 la hét kinh hoàng, mắt trợn trừng nhìn ra
hướng song sắt. Tôi ngồi bật dậy, ngơ ngác nhìn quanh, hoảng hốt,
không hiểu vì sao cả 80 chục con người cùng la làng như đang lên
đồng, hình như họ nhìn thấy 1 cái gì đó. Hiệu ứng này lan qua mấy
phòng kế bên, tất cả mấy chục phòng giam khu AH hét lên một cách
kinh hãi, khắp nơi vang rền tiếng khóc lẫn tiếng hú thất thanh,
làm 6 khu khác cùng thức dậy. Tiếng chân bọn cai tù chạy thình
thịch, tiếng súng lên đạn, họ vừa chạy vừa la hét bắt mọi người
im lặng, lập lại trật tự.
Riêng tôi vẫn còn chưa hoàn hồn, tôi
nói như hét thật to vào lỗ tai người bạn tù kế bên hỏi chuyện gì
đang xảy ra; anh ta, tay chỉ ra phía cửa buồng giam, miệng lắp
bắp những gì không rõ, mặt tái nhợt, đôi mắt lạc thần, cuối cùng
bật ra được 1 chữ “ma”. Một lúc sau, khi tiếng la hét lắng xuống,
tôi đi ra phía cửa nhìn về mấy khu kia, thấy tất cả mọi người lố
nhố, tay bám vào song sắt, nhìn về hướng khu chúng tôi. Cả trại
giam đều bị dựng dậy vì biến cố này. Tôi vẫn bướng bỉnh cho rằng
đây là 1 hiệu ứng tự nhiên của những tù nhân, đang say ngủ, chợt
nghe nhiều người kế bên la hoảng, mở mắt ra thấy khuôn mặt hốc
hác, râu ria, nhợt nhạt giống ma của bạn tù kế bên đang há hốc
cái miệng méo xệch, đang gào thét, nước miếng còn đọng 1 bên mép,
thần hồn nát thần tính, nên cũng bật lên tiếng la mà không biết
tại sao. Nếu ai không hét lên hãi hùng mới là chuyện lạ!
Sau này, tôi hỏi những tù nhân khác, họ
cho biết đó là linh hồn “ông chúa ngục” về thăm lại nơi ông ta ở
xưa kia. Chúa ngục là người đầu tiên chết trong tù này. Cứ vài
năm một lần, có lẽ ông ta còn vướng mắc hay còn lưu luyến “chốn
xưa”, ông lại về thăm. Khi trở về, chúa ngục lê xích sắt đi thăm
tất cả các phòng khu AH. Tôi hỏi mấy bạn tù có thấy hình dáng
chúa ngục ra sao? Người thì tả đó là 1 khuôn mặt tròn to như cái
mâm, nhìn vào trong buồng giam. Người thì nói là 1 hình bóng đen
thui, to lớn, lướt theo hành lang và nhìn vô bên trong với cặp
mắt đỏ lòm. Tôi không biết hình dáng ông chúa ngục ra sao, chẳng
thấy ma hay thần thánh gì, mà cũng chẳng la hét được một tiếng
nào, chắc sợ quá nên tôi cứng cả miệng.
Mấy người bạn tù cho rằng ai cũng thấy
chúa ngục, chỉ mình tôi không, 1 là vì vía tôi quá nặng hoặc quá
yếu, 2 có lẽ do tôi nhát hít nên ma không cho thấy vì sợ tôi đứng
tim chết vì sợ hãi. Nhưng có 1 điều tôi biết chắc là có nhiều
người chết oan ức trong Khám Chí Hòa, linh hồn còn chưa siêu
thoát nên âm khí ở khu AH rất nặng nề. Vì thế, trời thỉnh thoảng
làm sấm sét đánh bể nóc nhà khu G để khai 1 cửa Sanh, cho oán khí
được thoát ra, hồn người chết mới mong ra khỏi chốn ngục tù. Bác
Phạm văn Hai, cựu giám đốc đề lao Chí Hòa thời VNCH trước 1975,
cũng ở tù chung phòng, kể rằng người ta đã cho lợp ngói trên nóc
khu này mấy lần, nhưng vẫn bị sét đánh văng đi.
Vài tháng sau, bọn cai tù lại chuyển
tôi qua phòng 10, khu ED, chuyên nhốt tù chính trị và kinh tế.
Những người đồng vụ với tôi ở các phòng giam khác, lầu trên hay
dưới, cùng trong khu ED. Chúng tôi lại bị kêu lên hỏi cung. Người
đầu vụ là anh Năm Th. bị cụt 1 chân, phải mang chân giả, anh bị
chúng hành hạ và hỏi cung nhiều nhất khiến anh suy nhược và bệnh
tật nhiều.
1
hôm, tôi bị bệnh rất nặng, chúng mới cho phép 1 trật tự dìu tôi
xuống bệnh xá ở tầng trệt. Trên đường đi, tôi thấy ngoài sân,
giữa trời nắng chang chang, có 1 tấm chiếu đắp lên 1 cái gì đó
giống xác người. Tôi hỏi anh trật tự. Anh cho hay 1 tù nhân vừa
chết nên để tạm đó chờ làm giấy tờ đem chôn. Như 1 thần giao cách
cảm, tôi buột miệng hỏi:
– Có biết tên người chết không?
Anh trả lời:
– Th. Đen.
Tôi tiếp:
– Phải anh Nguyễn Văn Th. cụt 1 chân
không?
Anh
trật tự bước đến vén tấm chiếu lên, đúng là xác anh Năm Th. nằm
đó, với 1 chân bị cụt mà không thấy cái chân giả đâu.
Người tôi lạnh toát và choáng váng. Tôi
thầm khấn xin cho vong linh anh được yên nghỉ. Tôi hứa sẽ tìm mọi
cách báo tin cho gia đình anh biết vì chính quyền cộng sản chỉ
báo tin cho gia đình hay khi đã đem chôn tù nhân và không bao giờ
cho đem xác về nhà.
Sau khi y tá làm tiểu phẫu thuật, chúng
cắt sống mà không có thuốc tê, tôi đau đớn đến tê dại, mắt đổ hào
quang, chỉ được bôi 1 chút thuốc đỏ vào vết cắt, anh trật tự dìu
tôi trở lại phòng giam. Tôi khấn thầm: “Anh Năm ơi, nếu sống khôn
thác thiêng, hãy về báo em biết coi nội vụ mình có gì mới không
nhé”. Ngày hôm đó, hình ảnh anh nằm chết phơi nắng giữa trời, chỉ
đắp tấm chiếu rách, ám ảnh tôi không nguôi. Tôi liên tục đọc kinh
cầu cho linh hồn anh siêu thoát.
Tối đến, tôi còn nhớ rõ, vì gần mùa
Giáng Sinh, không khí bắt đầu se lạnh. Tôi ngủ chung chiếu, chung
mùng với thầy Thích Trí Siêu (1), tục danh Lê Mạnh Thát, vụ án
chùa Già Lam, chung vụ với thầy Tuệ Sỹ và Thượng Tọa Thích Trí
Thủ (RIP). Chúng tôi nằm dưới nền xi măng, đầu quay ra ngoài phía
hành lang, dựa sát tường và chấn song sắt. Bức tường chỉ cao quá
đầu gối, khoảng 40cm, từ tường trở lên là những song sắt cao đụng
trần nhà. Cái hành lang rộng 3 thước chia cách phòng giam và
không gian bên ngoài, với 1 hàng song sắt to gần bằng cổ tay.
Đang ngủ say, bất ngờ tôi cảm giác ai đó từ ngoài hành lang chạm
tay vào đầu và lay tôi dậy. Tôi mệt mỏi vì trưa nay mất nhiều máu
trong cuộc tiểu phẫu, nên còn nửa tỉnh nửa mê. Bàn tay lại lay
đầu tôi lần nữa.
Tội trở mình, mắt vẫn nhắm nghiền, duỗi
thẳng chân ra với tư thế nằm ngửa, tự nhủ chắc mình đang mơ. Tôi
cố dỗ giấc ngủ trở lại. Nhưng tôi lại bị đánh thức lần thứ ba,
lần này có vẻ mạnh mẽ hơn. Tôi tỉnh hẳn và cố ngước mắt lên nhìn
ngược ra ngoài song sắt để coi ai phá giấc ngủ mình. Cổ tôi đột
nhiên cứng ngắc không quay qua quay lại được nữa. Tôi liếc mắt
qua nhìn thầy T.T.S., tôi hét to: “Thầy ơi, đánh thức em dậy”.
Thầy mở mắt, nhìn tôi một lúc, rồi quay mặt qua bên kia. Tôi lại
tiếp tục la: “Thầy, thầy, cứu em, thầy ơi”. Thầy trở mình nhìn
tôi lần nữa với ánh mắt bực bội và lại quay đi. Tôi tức quá thầm
trách ông thầy hôm nay sao kỳ cục, không thèm giúp mình.
Tôi rùng mình, tay chân tê dại lạnh như
đá, tóc gáy dựng đứng, miệng lẩm nhẩm đọc kinh. Lấy hết sức bình
sinh, tôi vùng xoay cả người lại được qua bên phải, ngồi bật dậy,
nhìn ra phía ngoài hành lang, tôi như nhìn thấy 1 làn khói lướt
qua và biến mất. Tôi tự tát vô mặt mình 1 cái thật đau coi tôi
đang mơ hay tỉnh. Không gian lặng như tờ, 1 luồng hơi lạnh chạy
dọc theo xương sống của tôi trong khi mồ hôi ướt đẫm lưng áo.
Ngoài hành lang giờ này không ai được phép đi lại, trừ cai tù,
tụi nó chỉ lên đây khi có người gần chết xin cầu cứu. Từ lúc đó,
tôi thức luôn đến sáng trong khi miệng vẫn lần chuỗi Mân Côi
không nghỉ.
Tiếng kẻng báo hiệu thức giấc trỗi lên, tôi đứng dậy xếp mền mùng
cho cả 2 thầy trò. Tôi trách:
– Sao đêm qua, em kêu giúp mà thầy lại
làm ngơ?
Thầy
trả lời:
– Ta
nghe mi la to lắm, ta tưởng mi gặp ác mộng, nên thôi để cho mi
ngủ.
Tôi nói:
– Em gặp ma, cổ em cứng đơ không nhúc
nhích được. Nếu thầy đánh thức em dậy thì em đâu bị.
Tôi thuật lại cho thầy nghe về anh đầu
vụ chết hôm qua ở bệnh xá và những lời cầu xin ra sao. Thầy nói:
– Mi Công Giáo nên mi không tin có linh
hồn người chết vẫn chưa siêu thoát còn lảng vảng quanh đây. Bên
ta, Phật Giáo, chúng ta tin dù người đã qua đời, nhưng linh hồn
họ còn ở lại 1 thời gian, chờ tụng kinh cầu siêu, rồi họ mới lìa
cõi trần vĩnh viễn. Ta tin linh hồn vừa qua đời muốn nhắn nhủ mi
điều gì đó.
Thầy vừa dứt lời, cửa sắt khu loảng xoảng mở ra, 1 tên công an
cai tù đi trong hành lang ngang qua phòng 9, đến mở cửa phòng 10,
và kêu đúng tên tôi đi làm việc. Thầy T.T.S. nhìn tôi với cái
nhìn đầy ý nghĩa trong khi tôi vừa mặc bộ đồ xá xẩu tù, vừa vui
lại vừa lo, không biết chuyện gì sẽ đến sau mấy năm nội vụ nằm im
không nhúc nhích.
Tôi trở lại phòng sau hơn 1 giờ làm
việc với công an chấp pháp. Chúng quyết định đưa vụ chúng tôi ra
tòa án thành phố để xử. Tôi không biết nên vui hay buồn vì dầu
sao cũng có chút gì đó khởi động, còn hơn cứ im lìm năm này sang
năm khác, làm cho người tù chết dần mòn cả tinh thần lẫn thể xác
vì mất hy vọng. Hệ thống nhà tù cộng sản, họ cố tình không ngó
ngàng gì đến hồ sơ tù. Họ để cho người tù chết dần mòn trong
tuyệt vọng, cô đơn, bệnh tật, và đói khát. 1 hình thức giết người
thầm lặng và tàn ác. Họ không để tù nhân chết đói mà đói... đến
chết.
Trong
đời tôi, lúc còn ở ngoài, chưa bao giờ tôi gặp ma hay 1 loại thần
linh gì khác cho đến ngày chuyện này xảy ra ở trong tù. Tôi vẫn
tin rằng sau khi chết, linh hồn con người vẫn giữ lại được những
ký ức và cảm xúc lúc còn ở thế gian, vì thế anh Năm trở lại cho
tôi hay những dấu chỉ về việc ra tòa của nhóm chúng tôi. Trong
thế giới chúng ta đang sống, vẫn hiện hữu 1 thế giới bên kia của
những người đã khuất, vì 1 nguyên do thần bí nào đó, họ vẫn liên
lạc với thế giới chúng ta bằng cách này cách khác, hoặc xâm nhập
vào trong giấc mơ, và chúng ta gọi họ là MA.
Nguyễn Văn Tới
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, July 19,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang