Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
cuộc trùng phùng kỳ diệu
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Cuộc chiến ba mươi năm kết thúc, nhưng chỉ
làm cho đất nước điêu linh, dân tộc khốn cùng, kéo theo bao chia
ly tan tác. Trước tháng 4/1975 hầu hết những người trai trẻ miền
Nam là lính chiến. Nếu may mắn sống còn qua thời lửa đạn, cũng
từng phải khốn cùng trong ngục tù Cộng sản sau ngày bại trận oan
khiên. Ra tù, tứ tán trôi dạt muôn phương, ngỡ không bao giờ còn
gặp lại bạn bè đồng đội cũ. Vậy mà dường như đất trời thương xót,
hồn thiêng sông núi chở che, run rủi bao cuộc trùng phùng bất
ngờ, cảm động, như họ vừa cùng tái sinh ở một thế giới nào khác.
Tôi gặp lại Hà văn Kỳ trong tình huống
ấy. Anh trung sĩ trẻ từng làm trung đội phó cho tôi khi vừa mới
ra trường. Người Bắc di cư, nhỏ hơn tôi ba tuổi. Có lẽ nhờ lớn
lên ở thành phố Đà Lạt sương mù thơ mộng và bên những vườn hoa,
sản nghiệp của bố mẹ, nên Kỳ được hun đúc bao nét đẹp thánh
thiện. Chân thật hiền lành, lễ phép, sống theo mẫu mực của một
người Ki–tô hữu ngoan đạo. Học hành chăm chỉ nhưng chẳng may bị
bệnh kéo dài, phải bỏ cả hai kỳ thi tú tài, nên bị động viên vào
trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Ra đơn vị đã hơn một năm, nhưng đời
sống quân ngũ và khói lửa chiến trường chưa làm thay đổi được
tính nết quá mềm yếu, hiền lành. Đôi lúc tôi phải quát tháo, bởi
Kỳ quá dễ dãi với lính, ngay cả những lúc cần phải cứng rắn,
quyết liệt trước họng súng của kẻ thù. Nhưng rồi sau đó tôi lại
thấy tội nghiệp, nên thường khuyên lơn, vỗ về an ủi. Kỳ cũng rất
quí tôi, dành cho tôi không những tình đồng đội mà cả lòng yêu
thương của tình huynh đệ. Kỳ làm đám cưới trước khi ra đơn vị. Bà
xã là con gái một ông bà bạn vong niên của bố mẹ Kỳ từ ngày còn
ngoài Bắc, cùng di cư vào Nam và chọn thành phố Đà Lạt làm quê
hương mới. Biết vậy, nên thời gian nghỉ quân ở Di Linh, tôi
thường lén cho Kỳ “dù” về Đà Lạt thăm vợ một vài hôm. Trước đó,
tôi cũng thường khuyến khích và giúp đỡ Kỳ tiếp tục tự học thêm
khi thời gian thuận tiện. Chịu khó và chăm chỉ. Gần đến kỳ thi,
Kỳ nhờ tôi năn nỉ xin ông tiểu đoàn trưởng cho nghỉ phép đặc biệt
một tháng để chuẩn bị bài vở. Trở lại đơn vị, với một tin mừng:
đỗ tú tài hạng bình thứ. Kỳ làm đơn xin theo học khóa sĩ quan.
Chưa nhận được lệnh gọi thì đã bị thương trong một cuộc hành
quân. Khi đưa Kỳ ra một chiến thuyền của Hải Quân để tản thương,
tôi nắm chặt tay Kỳ, lòng nhói đau, khi thấy Kỳ nhìn tôi với dòng
nước mắt lăn trên gò má còn bám đầy bụi đất.
Theo đơn vị rày đây mai đó, tôi không
có dịp gặp lại Kỳ. Đến khi nhận được lá thư gởi từ quân trường
Thủ Đức, tôi mới biết là khi sau được chữa trị tại QYV Nguyễn Huệ
Nha Trang, Kỳ được nhận theo học Khóa 23 SQ Thủ Đức. Tôi có nhận
thêm vài lá thư của Kỳ, từ hậu cứ chuyển ra. Những bức thư đã
viết từ 4, 5 tháng trước. Tôi hồi âm, nhưng không thấy trả lời.
Tôi đoán là Kỳ đã ra trường và thuyên chuyển đến một đơn vị tác
chiến nào đó. Mất liên lạc nhau kể từ dạo ấy.
Mùa hè 2010, trong tiệc cưới cậu con
trai lớn của một người bạn cùng lớp thời trung học, tổ chức tại
thành phố Cologne của Đức, tôi bất ngờ gặp lại Kỳ. Nếu hôm ấy
người MC không giới thiệu những người khách đến từ phương xa, và
với cái tên khá đặc biệt của tôi, thì có lẽ Kỳ và tôi đã không
nhận ra nhau. Sau khi chào hỏi, Kỳ dắt tay tôi đến bàn bên cạnh,
giới thiệu vợ Kỳ và vợ chồng cậu con trai. Thì ra Kỳ là sui gia
với anh chị bạn của tôi. Cô con dâu của Kỳ là chị của chú rể
trong tiệc cưới hôm nay. Vui mừng như gặp lại người thân trong
nhà bao năm bặt tin nhau, nhưng chương trình tiệc cưới đang tiếp
tục giới thiệu gia đình hai họ, nên Kỳ hẹn ngày mai sẽ đón vợ
chồng tôi đến nhà dùng bữa cơm mừng cho cuộc trùng phùng và sẽ có
rất nhiều chuyện để tâm tình.
****
Đầu năm 1967. Vừa chấm dứt một cuộc
hành quân dài hạn ở Di Linh, Lâm Đồng, tiểu đoàn được lệnh di
chuyển về Đa Nhim bảo vệ an ninh cho công trường xây dựng nhà máy
thủy điện. Sau gần hai ngày hành quân tảo thanh quanh khu vực
Sông Pha, chưa kịp nghỉ ngơi, đại đội tôi lại có lệnh biệt phái
cho Tiểu Khu Ninh Thuận, tham dự một cuộc hành quân hỗn hợp. Ông
trung úy đại đội trưởng vừa mới bị thương, còn nằm trong Quân Y
Viện. Không có đại đội phó, tôi là trung đội trưởng thâm niên
nhất, được ông tiểu đoàn trưởng chỉ định xử lý thường vụ.
Cho đoàn xe chở đại đội dừng lại bên
ngoài, tôi vào Tiểu Khu nhận lệnh. Người đón tôi là Trung úy Đinh
Viết Hạp, Trưởng Phòng 3 (Hành Quân) Tiểu khu. Gặp anh bất ngờ,
thật là vui, vì anh là huynh trưởng thời còn đi học ở trường Võ
Tánh Nha Trang, phu nhân của anh lại là người bạn cùng lớp với
tôi. Anh cũng là bào đệ của ông tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng:
Trung tá Đinh Viết Lãng. Sau khi nói qua cuộc hành quân, anh Hạp
đưa tôi đến trình diện Trung tá Lãng để trực tiếp nhận lệnh và
nghe những dặn dò đặc biệt. Tôi biết đây là một cuộc hành quân
khá quan trọng.
Đại Đội tôi có nhiệm vụ tùng thiết một
Chi Đoàn TQV, phối hợp với Hải Quân, đổ bộ đột kích bất ngờ vào
Sơn Hải, ngôi làng hẻo lánh nằm ven biển, bị địch chiếm đóng từ
ba tháng trước và đang tổ chức thành một sào huyệt kiên cố. Lực
lượng địch gồm một đại đội địa phương và các toán du kích. Có thể
có cả ban chỉ huy tỉnh đội.
Đại đôi tiếp tục di chuyển đến Ninh
Chữ, quê hương của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Khu vực vừa tương
đối an ninh vừa có bờ biển đẹp. Sau khi bố trí quân xong, cho anh
em binh sĩ luân phiên ra biển tắm rửa, nghỉ ngơi, tôi vào Duyên
Đoàn 27 họp hành quân. Điều bất ngờ lý thú là anh Duyên đoàn
trưởng, Trung úy Hoàng Đình Thanh, lại là bạn cùng Khóa 16 VBĐL
với anh đại đội trưởng của tôi, nên đám sĩ quan bọn tôi được
Duyên Đoàn thết đãi và chăm sóc chu đáo. “Commandant” Thanh xem
bọn tôi như em út của chính anh. Sau khi họp hành, nhận bản đồ và
đặc lệnh truyền tin xong, anh xách xe jeep chở bọn tôi lên thành
phố Phan Rang chơi xả láng một đêm và cả một buổi sáng hôm sau.
Ông duyên đoàn trưởng gốc Võ Bị Đà Lạt này chịu chơi còn hơn cả
đám bộ binh đánh đấm nhà nghề bọn tôi. Tửu lượng của anh cũng
thuộc hàng “sư phụ”. Và đây là lần đầu tiên tôi tham dự một cuộc
hành quân do Hải quân chỉ huy.
Một chiến hạm ủi bãi ngay phía trước
Duyên Đoàn. Anh Duyên Đoàn Trưởng đưa tôi và anh Chi Đoàn Trưởng
TQV lên chiến hạm trình diện Thiếu tá Hạm Trưởng, người chỉ huy
tổng quát cuộc hành quân đổ bộ, để họp bàn chi tiết. Chi Đoàn TQV
và đại đội của tôi lên tàu lúc 4:00g sáng. Chạy theo hai bên
chiến hạm là các chiến thuyền Yabuta của Duyên Đoàn. Chưa đầy một
tiếng đồng hồ, chúng tôi đã đến trước mục tiêu. Tàu dừng ngoài
khơi để lính tráng ăn uống trước khi lâm trận. Đúng giờ G, tàu
tiến vào gần bờ. Lính bộ binh ngồi trên những chiếc M–113, rời
chiến hạm, chia làm ba cánh, lội nước “bơi” vào bờ. Trong tranh
tối tranh sáng, tôi mơ hồ tới trận đổ bộ Normandie của quân đội
đồng minh trong Đệ Nhị Thế Chiến mà tôi đã được xem qua phim. Vì
mục tiêu nằm ngoài tầm yểm trợ của pháo binh, nên hải pháo từ
chiến hạm tác xạ vào mục tiêu và hai ngọn núi trước khi chúng tôi
tiến vào bờ. Tôi bàn với anh Chi Đoàn Trưởng TQV, khi cách bờ
khoảng 50 mét, các đại liên 30 trên M–113 đồng loạt nổ súng vào
mục tiêu, uy hiếp tinh thần địch, để đại đội tôi nhanh chóng đổ
lên bờ và bung ra trước. Tất cả lính tráng đều đã cột trên cánh
tay phải một băng vải trắng làm dấu hiệu nhận nhau, tránh việc
bắn nhầm từ các xạ thủ trên thiết giáp. Lực lượng Duyên Đoàn
nhanh chóng án ngữ mặt biển.
Đúng như kế hoạch tiên liệu. Chúng tôi
làm chủ tình hình khi trời vừa sáng. Địch quân hoàn toàn bất ngờ,
một số còn đang ngái ngủ chưa kịp hoàn hồn, một số vừa nhảy xuống
giao thông hào cũng chỉ kịp đưa tay đầu hàng trước họng súng của
binh sĩ đơn vị tôi, một số chạy tán loạn vào rừng, bị các chiến
xa M–113 vây bắt, nhiều tên chạy ra biển, lọt vào tay của các
chiến sĩ Duyên Đoàn. Hầm hố và công sự của chúng bị các thiết vận
xa M–113 cày nát.
Sơn Hải, ngôi làng nghèo hẻo lánh, cách
xa những vùng dân cư khác, nằm sát biển, dưới thung lũng, giữa
một bên là những động cát mênh mông, một bên là hai ngọn núi thấp
với khu rừng khá rộng. Không xa về phía Nam là Mũi Dinh với ngọn
hải đăng hoang phế, được xây dựng từ năm 1904 dưới thời Pháp
thuộc. Chính phủ muốn xây dựng lại và thành lập một đài kiểm báo,
nhưng đơn vị Bảo An được đưa tới giữ an ninh, thường bị lực lượng
địch tấn công liên tục, gây thiệt hại không nhỏ, phải rút bỏ.
Người dân ở đây sống nhờ vào con suối nước ngọt chảy róc rách
trong rừng. Ngôi làng chỉ có chừng trên 60 nóc gia, đa số dân
chúng sống bằng nghề đánh cá và trồng khoai lang, dưa hấu, nhưng
hầu hết đã bỏ đi từ khi Cộng quân đến chiếm. Chỉ một số còn ở lại
đều là thân nhân của địch. Dường như đã có các cuộc oanh kích
hoặc hải pháo trước đây, nên một số nhà bị cháy sập, đổ nát, chỉ
còn trơ vài mảng vách bám khói đen xám xịt, loang lổ những vết
đạn. Địch quân chọn vị trí này làm sào huyệt vì các đơn vị của ta
khó tiếp cận, muốn đến đây phải băng qua một sa mạc cát, vừa mất
sức lại vừa dễ bị phát hiện, và nếu có biến động, chúng sẽ thoát
ra biển bằng ghe xuồng, hoặc chạy biến vào khu rừng bên cạnh.
Chúng không ngờ cuộc hành quân phối hợp qui mô lần này, chúng
không còn con đường nào khác để thoát thân.
Cuộc hành quân kết thúc. Kiểm điểm đơn
vị, chỉ có một anh trung sĩ bị thương vào giờ chót trong lúc lục
soát các hốc đá trong rừng, do trái lựu đạn nội hóa đám địch quân
hốt hoảng tung ra trước khi tháo chạy. Địch chết gần ba mươi tên
và khoảng mười tên bị bắt sống. Điều đặc biệt bất ngờ là trong số
ấy có một em bé khoảng chừng 2–3 tuổi, được tìm thấy bên trong
một hốc đá nằm ở bìa rừng sát biển. Bên ngoài có một số tử thi
của địch, cả nam lẫn nữ. Thằng bé bị thương nhẹ do một số mảnh
đạn M–79. Rất may là không nguy hiểm đến tính mạng. Nhiều vũ khí
bị tịch thu, trong đó có khẩu súng cối 60ly và hai khẩu thượng
liên Trung cộng. Giao hết chiến lợi phẩm, tù binh, và cả thương
binh lại cho lực lượng của Duyên Đoàn. Theo kế hoạch hành quân,
Chi Đoàn Thiết Giáp và đơn vị tôi tiếp tục băng rừng truy kích
địch, tiến đến Mũi Dinh bảo vệ an ninh cho Duyên Đoàn đưa một đơn
vị Địa Phương Quân đến canh giữ để xây dựng lại đài kiểm báo. Hai
ngày sau, chúng tôi tiếp tục tảo thanh khu rừng dọc theo hai bên
con suối, trên đường tiến ra Quốc lộ 1.
****
Cả đêm thao thức không ngủ được, tôi
nằm hồi tưởng tới bao chuyện vui buồn của một thời làm lính. Hình
dung từng khuôn mặt của những đồng đội cũ. Một số đã chết, những
người còn sống thì giờ này tứ tán muôn phương. Lòng thấy ngậm
ngùi. Sáng hôm sau, khi ngồi ăn điểm tâm, tôi kể cho vợ chồng anh
bạn nghe chuyện của tôi và Kỳ, rất vui khi biết hai gia đình đã
là sui gia. Quả đất tưởng chừng bao la, nhưng cũng có nhiều giao
điểm để có những cuộc trùng phùng thật bất ngờ kỳ diệu.
Buổi chiều, Kỳ đến đón chúng tôi. Vợ
chồng người bạn xin từ chối vì bận phải giúp đôi tân hôn giải
quyết một số việc sau đám cưới. Nhà Kỳ ở không xa. Chỉ hơn 20
phút lái xe. Căn nhà nhỏ nằm bên bờ sông Rhine thơ mộng. Sân sau
khá rộng trồng nhiều hoa và vài cây táo. Chỉ có vợ chồng Kỳ ở
đây, nhà vợ chồng đứa con trai duy nhất ở gần bệnh viện, nơi làm
việc. Chồng là bác sĩ, vợ là y tá. Kỳ cho biết như thế và bảo vợ
chồng cháu cũng đang trên đường đến đây để chào hai bác.
Trong khi vợ Kỳ rủ bà xã tôi ra vườn
khoe mấy cụm hoa hồng nhung, Kỳ đi pha trà, tôi ngồi nhìn tấm ảnh
của một đôi uyên ương trẻ, treo trên vách, nhớ tới khuôn mặt khá
khôi ngô, xinh xắn của đứa con trai và cô dâu mà Kỳ đã giới thiệu
tôi tối hôm qua trong tiệc cưới. Bỗng giật mình khi nghe tiếng Kỳ
hỏi:
– Năm ấy,
khi em bị thương trong trận đổ bộ xuống một ngôi làng ven biển
Phan Rang, có một thằng bé mới 3 tuổi cũng bị thương và được
Duyên Đoàn tản thương về Dân Y Viện Phan Rang với em, anh còn nhớ
không?
Tôi suy
nghĩ giây lát rồi trả lời:
– À, mình nhớ ra rồi. Chắc là con của
người dân nào đó, sợ quá bỏ chạy mà không kịp mang theo.
– Không, là con của một tay Việt cộng,
sau 1975 về làm một chức gì đó khá lớn trong tỉnh Ninh Thuận.
– Sao em biết?
Thay vì trả lời tôi, Kỳ chỉ tay vào tấm
ảnh treo trên vách. Tấm ảnh tôi vừa mới xem qua.
– Anh có nhớ vợ chồng đứa con trai của
em ngồi chung bàn với vợ chồng em trong đám cưới tối hôm qua?
Tôi còn đang ngơ ngác, Kỳ nói thêm:
– Chắc anh không ngờ, thằng bé bị
thương ngày ấy lại là con của vợ chồng em. Con nuôi!
Đúng là tôi quá bất ngờ. Hơn nữa,
chuyện xảy ra đã quá lâu, nếu Kỳ không nhắc, có lẽ tôi không còn
nhớ. Sau khi rót nước trà vào tách mời tôi, Kỳ kể tôi nghe về câu
chuyện ấy.
Khi
được tản thương về Dân Y Viện Phan Rang, không phải chỉ có Kỳ mà
có cả thằng bé bị thương ấy nữa. Nhận được tin báo, từ Đà Lạt bố
mẹ và cả vợ Kỳ tức tốc chạy xuống Phan Rang thăm và săn sóc cho
Kỳ. Khi nghe kể lại chuyện thằng bé bị thương cùng trận với Kỳ mà
không biết cha mẹ của nó là ai, ông bà đến thăm thằng bé. Thấy nó
tội nghiệp dễ thương, ông bà xin bệnh viện cho vợ chồng Kỳ nhận
làm con nuôi. Ông bác sĩ giám đốc bệnh viện mừng quá, vì đang lo
lắng chưa biết phải giải quyết tình trạng thằng bé này ra sao.
Sau khi chữa lành vết thương, bệnh viện làm giấy tờ giao thằng bé
cho ông bà và vợ Kỳ. Khi làm giấy khai sanh, theo đề nghị của vợ
Kỳ, thằng bé được đặt tên là Hà Văn Ngộ. Riêng Kỳ được chuyển
tiếp ra QYV Nguyễn Huệ Nha Trang để được giải phẫu lấy vài mảnh
đạn trong vùng dưới bụng. Không ngờ định mệnh đã an bài cho đứa
bé ấy sau này trở thành đứa con duy nhất của vợ chồng Kỳ. Vì do
ảnh hưởng vết thương lần ấy, bác sĩ giải phẫu cho biết là Kỳ
không bao giờ có con mặc dù chuyện chăn gối, tình dục vẫn bình
thường.
Bé Ngộ
lớn lên trong vòng tay yêu thương của vợ chồng Kỳ cùng tấm lòng
nhân hậu của bố mẹ Kỳ, mà nó cứ ngỡ đó chính là bố mẹ và ông bà
nội của nó. Nó là một đứa bé có nhiều diễm phúc.
Năm 1975, khi bé Ngộ vừa tròn 9 tuổi,
thì cùng với số phận của miền Nam, gia đình Kỳ trở nên khốn đốn.
Kỳ bị vào tù. Cậu em trai của Kỳ đang học Khóa Võ Bị đã phải theo
trường di tản vào Nam trước khi thành phố xinh đẹp này lọt vào
tay giặc. Ông anh của Kỳ là sĩ quan TQLC được bạn bè cho biết đã
chết ở bờ biển Thuận An ngoài Vùng 1. Bà chị của Kỳ theo chồng là
lính Pháo Binh lên Pleiku không biết sống chết thế nào. Bố mẹ Kỳ
bao năm sống khá giả bằng nghề trồng hoa bỗng dưng thất nghiệp.
Bao nhiêu thứ hoa đẹp đẽ ngát hương bây giờ chỉ còn là cỏ rác. Cả
mấy khu vườn đều bị chính quyền trưng thu sáp nhập vào Hợp Tác Xã
“Rau Xanh”. Đà Lạt quí phái thơ mộng bây giờ trở thành một thành
phố chết. Dân tình đói rách, cây cỏ úa tàn. Chỉ còn có lớp sương
mù phủ kín một vùng núi đồi ảm đạm. Cùng với nhiều người khác, bố
mẹ Kỳ cũng muốn cắt ruột bỏ đi để mong tìm ra một con đường sống,
như đã từng phải bỏ quê hương Hà Nội hơn 21 năm về trước. Nhưng
rồi phải ở lại để chờ đám con cháu trở về.
Sau hơn năm năm tù, Kỳ được thả về. Bố
mẹ đã mất. Trong ngôi nhà xưa chỉ còn có vợ Kỳ, bé Ngộ, và hai mẹ
con bà chị, sống sót trong cuộc di tản trên Tỉnh Lộ 7 kinh hoàng.
Riêng ông anh rể gốc Pháo Binh thì mất tích, không có chút hy
vọng nào còn gặp lại. Người em trai của Kỳ, sau khi di tản theo
trường Võ Bị, đã ra trường “non” ở Long Thành. Ở tù gần 2 năm,
trốn trại, thoát, và cùng vượt biển với một người bạn, được tàu
Cap Anamur vớt nên được định cư từ năm 1978 ở Tây Đức. Nhờ có sẵn
trình độ và ý chí được rèn luyện từ trường Võ Bị, anh vừa học đại
học vừa đi làm kiếm tiền giúp gia đình còn ở Việt nam. Cũng nhờ
người em này tận tình giúp đỡ, nên gia đình Kỳ tạm vượt qua bao
khó khăn, và sau đó có tiền vượt biển, đến đảo Palawan, và được
bảo lãnh sang định cư tại Tây Đức.
Những năm cực khổ, vợ Kỳ rất vất vả, có
khi phải đi cuốc đất thuê, gánh rau mướn. Bé Ngộ lúc ấy mới 14–15
tuổi đã phải bỏ học để đi làm phụ mẹ. Trong hoàn cảnh khốn cùng,
tình mẹ con càng thêm thắm thiết. Nhiều lúc vợ Kỳ không còn nghĩ
bé Ngộ là con nuôi của mình.
Sang Đức, vợ Kỳ được em trai Kỳ xin vào
làm trong hãng Siemens mà anh là kỹ sư sản xuất. Kỳ cố gắng theo
học ngành kế toán và được nhận vào làm ở Sở Thuế Vụ thành phố,
cùng sở với người bạn của tôi, và nhờ đó mà sau này hai người trở
thành sui gia.
Khi bà xã tôi phụ giúp vợ Kỳ làm món ăn
trong bếp thì vợ chồng Ngộ dắt theo đứa con gái nhỏ cũng vừa đến.
Nghe bao điều bất ngờ Kỳ kể lại, nên tôi tò mò chăm chú nhìn Ngộ
kỹ hơn, muốn tìm ở cậu con trai này một điều gì không mấy thiện
cảm, hoặc không giống vợ chồng Kỳ. Nhưng rồi tôi ngạc nhiên, khi
nhận ra ở Ngộ là một thanh niên có giáo dục, lễ phép, nhân hậu,
và thông minh. Cả trong cái cười, cũng rất giống Kỳ ngày xưa, lúc
còn là lính với tôi. Một chút gì đó gần như là ác cảm vô cớ trong
tôi biến mất. Tôi thoáng một chút ngượng ngùng.
Một bữa cơm đoàn tụ thật vui. Bà xã tôi
cũng dễ thân thiện gần gũi và rất quý mến vợ chồng Kỳ cùng vợ
chồng cháu Ngộ và đứa cháu nội của Kỳ, ba tuổi, bập bẹ nói tiếng
Việt nam. Chia tay, tôi chúc mừng Kỳ có một gia đình hạnh phúc.
Khi đưa chúng tôi ra xe, cháu Ngộ lễ phép mời vợ chồng tôi và ba
má cháu đến nhà dùng một bữa tiệc cá, do vợ chồng cháu đi câu
được, trước khi chúng tôi trở về lại Na–uy. Cháu còn bảo là hôm
ấy sẽ mời cả ông bà bố mẹ vợ, là bạn thân của tôi, để được đầy đủ
một nhà. Tôi nắm tay cháu, nhận lời và nói cám ơn.
Hai hôm sau, Kỳ gọi phôn bảo sẽ đến đón
vợ chồng tôi đi thăm trại chăn nuôi do vợ chồng người em trai làm
chủ. Cách thành phố hơn một giờ lái xe. Ở đó cũng có một vườn hoa
và nhiều cảnh đẹp. Trại có hơn 500 con heo, 20,000 gà vịt, và có
cả lò ấp hột vịt lộn nữa. Nghe nói tới trại chăn nuôi bà xã tôi
rất thích, nhất là món hột vịt lộn, lúc ấy ở Na–uy chưa có. Vợ
chồng người em của Kỳ đón tiếp chúng tôi thật nồng hậu. Người sĩ
quan tốt nghiệp “non” của trường Võ Bị này trông rất còn phong
độ. Tóc cắt ngắn, đôi mắt sáng, giọng nói cứng cỏi như vẫn còn là
chàng SVSQ đứng trên đỉnh Lâm Viên thuở trước. Cùng gốc lính với
nhau nên rất dễ thân tình. Vợ chồng tôi rất phục anh. Vừa là kỹ
sư trưởng trong hãng Siemens nổi tiếng lại vừa là ông chủ của một
trại chăn nuôi rộng lớn, với gần 20 người làm. Chúng tôi được đãi
món cơm gà thật tuyệt vời do chính tay anh nấu, và anh cũng không
quên gói một thùng hột vịt lộn làm quà cho bà xã tôi (riêng tôi
không hảo món này lắm).
Cơm nước xong, chúng tôi cáo từ và theo
vợ chồng Kỳ đi thăm một vài thắng cảnh quanh đây. Kỳ đưa chúng
tôi đến một vườn hoa. Đang đúng mùa hoa nở. Mênh mông các sắc
màu. Ngát hương trong gió. Nhưng khi vừa đến nơi, Kỳ bảo vợ đưa
bà xã tôi đi ngắm hoa, còn “hai anh em tôi thì đã có sẵn hoa
trong nhà rồi, nên không cần ngắm hoa ngoài vườn nữa”. Kỳ nói đùa
rồi dắt tay tôi đến ngồi trên chiếc ghế đá đặt dưới một tàn cây
khá lớn. Phía trước là một con suối nhỏ chảy qua chiếc cầu làm
bằng gỗ. Vừa ngồi xuống, Kỳ mở lời tâm sự:
– Có một điều làm em cứ băn khoăn,
không biết phải giải quyết như thế nào. May mà gặp được anh ngày
hôm nay. Có thể Chúa đã sắp xếp để em được gặp lại anh, được tâm
tình về một câu chuyện anh đã từng chứng kiến, và mong anh chỉ
dẫn cho như cái hồi em còn ở với anh trong lính.
Tôi ngạc nhiên, không biết có điều gì
quan trọng mà trông Kỳ có vẻ bối rối. Chưa kịp hỏi, thì Kỳ lại
lên tiếng:
–
Mẹ ruột thằng Ngộ đã chết trong trận ấy, nhưng bố của nó thì
thoát được, vẫn còn sống, hiện đang ở Phan Rang và giữ một chức
hàm gì đó khá lớn trong chính quyền Cộng sản.
– Cháu Ngộ có biết không? Tôi hỏi.
– Cháu Ngộ chưa biết anh ạ. Nó luôn
nghĩ vợ chồng em là bố mẹ ruột của nó.
– Như vậy thì tốt, Kỳ cần gì phải bận
tâm.
Đắn đo
giây lát, Kỳ lại buồn bã:
– Ông ta đã nhắn tin tìm con và nhờ
chương trình “Như chưa hề có cuộc chia ly”, một chương trình giúp
tìm người thất lạc trong chiến tranh, thông báo trên đài truyền
hình bên Việt Nam. Em nghe bà chị ở Đà Lạt bảo như thế. Bà chắc
chắn ông ta chính là bố ruột của thằng Ngộ, vì ông kể lại những
chi tiết rất chính xác như những gì mà em đã từng kể cho bố mẹ và
chị ấy nghe về thằng Ngộ trước kia.
Tôi khá bất ngờ, không tìm được ý kiến
nào để nói với Kỳ. Lại thấy áy náy khi Kỳ vẫn còn kỳ vọng vào
mình. Nhưng chuyện này không phải đơn giản như chuyện đánh đấm,
hay chỉ huy một tiểu đội lính ngày xưa. Bỗng tôi nghĩ đến bản
thân tôi, cũng mất mẹ năm mới lên ba tuổi và ba tôi một đời đã
dành trọn tình thương bao la cho tôi như thế nào. Có điều Ngộ
không hề biết là ngoài vợ chồng Kỳ ra, nó lại còn có một ông cha
ruột trên thế gian này. Oái oăm thay, ông cha ấy lại chính là kẻ
thù của bố Kỳ, của ông chú, bà cô, và cả ông bà nội nữa. Chẳng
phải tất cả những người này đã gánh chịu bao nhiêu mất mát đau
buồn khốn khổ vì những người Cộng sản như ông bố ruột của Ngộ?
Tôi nói ra ý nghĩ này với Kỳ, như muốn gợi ý là Kỳ hãy quên
chuyện ấy đi. Ít nhất sẽ không gây những khó khăn, xáo trộn tâm
lý cho vợ chồng cháu Ngộ.
Kỳ lắng nghe. Suy nghĩ một lúc rồi nói
nhỏ như chỉ tự nói với chính mình:
– Mẹ ruột của nó lại bị chính trung đội
em giết chết, trước khi em tìm thấy nó trong hốc đá.
Có một điều gì đó chặn ngang dòng suy
nghĩ của tôi. Một lúc sau, tôi nắm tay kéo Kỳ đứng lên đến bên
cây cầu gỗ trên dòng suối nhỏ. Nhìn dòng suối chảy mang theo một
cánh hoa tulip, có lẽ người nào đó vừa ném xuống trên đầu dòng.
Tôi cúi xuống, với tay nhặt lấy cánh hoa. Một ý nghĩ vừa lóe lên
trong đầu, tôi buột miệng thốt ra với Kỳ:
– Tất cả rồi cũng như dòng nước kia.
“Có ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông?” Tốt nhất hãy để cho
nó cứ tự nhiên chảy qua cầu, cho dù có kéo theo bao nhiêu bông
hoa hay là rác rưởi. Cuộc chiến mà chúng ta đã tham dự, chẳng
phải đã có nhiều bông hoa đẹp nhưng cũng có bao rác rưởi đó sao.
Nếu được, hãy giúp cho cháu Ngộ giữ lại những bông hoa, như cái
hoa này. Còn tất cả rác rưởi nên để cho nó trôi vào quên lãng.
Lời nói mơ hồ, không đâu vào đâu ấy như
chỉ để bào chữa cho cái bế tắc của tôi và tất nhiên Kỳ không thể
nào hiểu được. Sự thất vọng hiện rõ trên mặt. Kỳ chau mày:
– Em cũng đã từng dặn lòng là quên phứt
cái chuyện này đi, nhưng cứ mỗi lần trông thấy thằng Ngộ là em
lại nhớ ra, rồi băn khoăn suy nghĩ. Có nhiều đêm em mất ngủ.
Cuối cùng, như muốn để không làm phiền
tôi và cũng tự nhủ mình, Kỳ đập vai tôi, quyết liệt:
– Rồi! Kể từ hôm nay em nhất định sẽ
dẹp hẳn chuyện này. Không nhớ và cũng không nhắc tới nữa. Anh
cũng vậy, xem như chưa hề nghe em nói chuyện này nghe. OK?
Tôi vòng tay ôm vai Kỳ, nói hai tiếng
“OK” mà trong lòng dường như còn có điều gì chưa ổn lắm.
Ngày họp mặt ở nhà vợ chồng cháu Ngộ
thật vui và cảm động, vì mọi người ai cũng có ràng buộc ân tình.
Riêng tôi đã gặp lại hai người bạn cũ. Nhất là Kỳ, một đứa em nhà
binh kết nghĩa, đã gợi lại trong tôi bao kỷ niệm của một thời
chinh chiến. Chúng tôi rời Cologne trở về lại Na–uy ngày hôm sau.
Vợ chồng Kỳ và vợ chồng người bạn đưa tôi ra phi trường. Suốt hai
giờ ngồi trên máy bay, đầu óc tôi nặng nề với hình ảnh của Ngộ và
câu chuyện về người cha ruột mà Kỳ đã kể cho tôi nghe. Tôi biết,
cũng như tôi, Kỳ bảo là sẽ quên “phứt” đi, nhưng chắc chắn là sẽ
không thể nào quên được.
Mấy tháng sau, như thường lệ, cứ đến
mùa đông là vợ chồng tôi bay sang Cali (Mỹ) để trốn cái lạnh Bắc
Âu và thăm mấy cô con gái. Ở Cali nắng ấm, chúng tôi lại có bao
nhiêu bạn bè, thời gian gặp gỡ, chuyện trò không còn trống cho
đầu óc suy nghĩ vẩn vơ. Bỗng một hôm tôi nhận được điện thư của
Kỳ. Thư viết khá dài:
“... Cuối cùng thì vợ chồng em đã quyết
định cho thằng Ngộ và vợ nó về gặp bố nó. Bà chị em còn ở bên
Việt nam cho biết, ông ta bị tai biến mạch máu não và trong tình
trạng nguy ngập. Chờ chết. Nội bộ của mấy tay Cộng sản bây giờ
lục đục lắm. Ông bố của thằng Ngộ này nắm một chức gì đó dễ hái
ra tiền. Chuyện tham nhũng hối lộ ở Việt nam bây giờ gần như
‘không người lái’. Nước họ còn bán được huống hồ là đất. Có lẽ ăn
chia không đều ra sao đó, cánh ông bố của thằng Ngộ bị phe đàn
anh mạnh hơn, có lọng to che, đánh cho gục luôn. Bao tội lỗi trút
hết trên đầu ông ta. Cả đám em út vào tù, ông ta mất chức, chờ ra
tòa lãnh án thì bị tai biến mạch máu não. Nghe nói khi ra Hà Nội,
ông ta có lấy một nữ đồng chí, sinh được một thằng con trai,
nhưng nó nghiện ma túy rồi theo băng đảng, bị giết chết trong một
cuộc ẩu đả khi vừa lên 16 tuổi. Sau này khi có chức quyền tiền
bạc ông bỏ bà vợ già để lấy một cô á hậu hay người mẫu ‘miệt
vườn’ gì đó, tuổi bằng con ông. Bà vợ già giận bỏ ông về Bắc. Sau
này, khi ông thất sủng, bà vợ trẻ của ông cũng đã bỏ ông để chạy
theo một tay công an, vốn là đàn em của ông, vào tận Vũng Tàu,
mang theo tất cả vàng bạc tiền của cùng cô con gái nhỏ, mà nhiều
người đồn đãi chẳng phải máu mủ của ông. Tài sản còn lại bị các
đồng chí đàn anh tịch thu chia chác. Cuối cùng ông ta sống trong
cô đơn và trở thành ‘vô sản’ như chính ông một thời bị lừa gạt để
hô hào mị đám nông dân nghèo lúc trước. Bà chị của Kỳ nghe được
trên đài truyền hình, lời ông nhắn tin mong muốn được gặp mặt đứa
con trai thất lạc một lần trước khi ông nhắm mắt. Bà gọi sang
khuyên vợ chồng em cố sắp xếp cho vợ chồng thằng Ngộ nó về gặp
ông ta một lần. Gia đình mình có đạo đức nhân nghĩa. Thôi dù sao
nghĩa tử cũng là nghĩa tận. Bà bảo thế.
Như anh biết đó, chuyện này thì chính
em cũng đã từng nghĩ đến, nhưng lại không muốn cho thằng Ngộ biết
lai lịch của nó. Nó sẽ buồn lắm nếu biết vợ chồng em không phải
là bố mẹ ruột, và bố ruột nó lại là một người Cộng sản. Em và bà
chị bàn nhau. Em bảo với vợ chồng thằng Ngộ, ông ta là anh nuôi
của em, tức con nuôi của ông bà nội, thất lạc bao nhiêu năm trong
chiến tranh bây giờ mới biết. Vì em không thể về Việt Nam, nên vợ
chồng nó thay mặt em, về thăm ông bác ốm nặng, nhân dịp về Đà Lạt
thăm bà cô và mồ mả ông bà nội. Cũng để vong linh ông bà nội được
vui. Bà chị thì tìm gặp riêng ông ta, báo cho ông biết là đứa con
thất lạc ấy vẫn còn sống, thành đạt, và đang sống rất hạnh phúc
với cha mẹ nuôi ở nước ngoài mà nó vẫn nghĩ là cha mẹ ruột của
nó. Bà chính là chị của ông bố nuôi ấy. Sẽ đưa hình ảnh nó cho
ông xem. Hứa sẽ năn nỉ cha mẹ nuôi cho nó về gặp ông, với điều
kiện là ông phải giữ kín, không nói ông là cha của nó cũng như mẹ
của nó đã qua đời khi nó lên ba. Làm vậy là cốt để tránh cho nó
bị ‘sốc’ vì quá bất ngờ, hụt hẫng có thể gây xáo trộn tâm lý,
nguy hiểm cho nó.
Mọi sắp xếp đều thuận lợi. Vợ chồng
thằng Ngộ đã bay về Việt Nam sáng hôm nay. Em hy vọng là mình đã
làm hết bổn phận để sau này không có điều gì hối hận. Có tin gì
thêm em sẽ báo anh sau...”
Bận bịu với bao bạn bè từ vài tiểu bang
xa tới thăm, chưa kịp hồi âm, thì vài hôm sau tôi lại nhận thêm
một email mới của Kỳ, có kèm theo vài tấm ảnh.
“... Khi bà chị đưa vợ chồng Ngộ đến
gặp ông ta trong bệnh viện, tuy mệt nhưng ông còn tỉnh táo lắm.
Nhờ anh y tá đỡ ngồi dậy. Ông sững sờ nhìn Ngộ thật lâu, đôi mắt
sáng lên. Có lẽ ông không ngờ đứa con thất lạc, ông bỏ lại chiến
trường từ lúc mới 3 tuổi, không hề được ông nuôi nấng, bây giờ
lại là một thanh niên tuấn tú, thành đạt, và hiền lành đức hạnh,
khác hẳn đứa con trai của ông với bà vợ Bắc kỳ, mà ông đã từng
cưng chiều, lo lắng. Ông chắp hai tay cúi gập mình trước bà chị
của em như muốn tỏ lòng biết ơn người đã dưỡng dục Ngộ. Bỗng ông
bật khóc và cố lấy hết sức tàn ôm chầm lấy Ngộ. Ngộ ngạc nhiên
nhưng cứ để yên, giữ lấy hai cánh tay để ông gục đầu lên vai
mình. Khá lâu, không nói một lời gì, cũng không còn nghe tiếng
khóc. Khi cảm thấy có điều bất thường, Ngộ bảo bà cô và vợ nó phụ
đỡ ông ta nằm xuống. Mọi người hoảng hốt khi thấy ông đã tắt thở
từ lúc nào.
Cháu Ngộ phụ ông bác sĩ làm hô hấp nhân tạo. Sau một lúc, cả hai
đều lắc đầu, bảo ông ta đã chết.
Cả anh ý tá rồi ông bác sĩ vuốt mắt ông
để phủ lên di thể tấm ra trắng, nhưng mắt ông vẫn mở trừng. Nghe
lời bà chị em, cháu Ngộ đưa tay vuốt, mắt ông nhắm lại. Rồi đột
nhiên mặt ông trở nên hồng hào và trên miệng như vừa mới mỉm một
nụ cười.
Không
có ai đến thăm ông ta. Các đồng chí một thời của ông có lẽ vì sợ
liên lụy nên cũng đã tránh xa ông. Cháu Ngộ đứng ra nhận lo chi
phí cho việc chôn cất và xây phần mộ cho ông. Đám tang thật buồn.
Cũng chỉ có vợ chồng Ngộ và bà chị em tiễn ông đến nơi an nghỉ
cuối cùng. Em nghĩ chắc ông yên lòng ra đi khi đã được nhìn thấy
mặt đứa con trai lạc nhau khi mới vừa 3 tuổi, giờ là một thanh
niên thành đạt. Và vợ chồng em cũng yên tâm, xem như cháu Ngộ đã
thực sự đoạn tuyệt một gốc gác đau lòng.”
Nhìn tấm ảnh của ông, Kỳ gởi kèm theo
điện thư (tấm ảnh đặt trước quan tài, có lẽ chụp đã lâu, lúc ông
ta còn đang quyền lực), tôi thấy thấp thoáng khuôn mặt của Ngộ.
Không biết vợ chồng Ngộ có nhận ra điều này không, hay có thể đó
chỉ là ảo ảnh được ráp nối từ những mảng liên tưởng mơ hồ của
tôi. Nhưng điều này bây giờ đâu còn có ý nghĩa gì khi Ngộ đã thực
sự bước ra khỏi đám mây mù quá khứ. Tất cả như đã cuốn theo dòng
nước chảy qua cầu.
Phạm Tín An Ninh
Nguồn:
trang web PHẠM TÍN AN NINH
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by cathy chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, October 5,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang