Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
Ghi
Chủ đề:
lính
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Ngày đầu tháng 3/2015, trong không khí ảm đạm
của cơn mưa xuân, đông đảo những người lính già, đủ mọi quân binh
chủng, có mặt tại nhà quàn nghĩa trang Peek Family trong thành
phố Westminster (California), để chào tiễn biệt vị Niên trưởng –
vị Chỉ huy trưởng – vị Tư Lệnh – ngày trước. Nổi lên giữa màu đen
tang lễ, là những bộ quân phục trắng với bê–rê đỏ của Thiếu Sinh
Quân, worsted [viền chỉ len] màu vàng trang trọng của những
SVSQ Trường VBQGVN và những Kỵ Binh Thiết Giáp với mũ nồi đen.
Bên quan tài, cũng có lá cờ Tướng với
một sao trắng trên nền đỏ, đứng hai bên không phải là những sĩ
quan đồng cấp mà hầu hết là những niên đệ, đàn em, uy nghiêm
trong thế thao diễn nghỉ. Một buổi lễ phủ kỳ khá trang trọng, dù
không đủ lễ nghi quân cách, không có ban quân nhạc với tiếng kèn
khai quân hiệu thuở nào, nhưng đủ để thể hiện được lòng kính
trọng đối với một vị tướng đã có nhiều công trạng với đất nước.
Tang lễ của cựu Tướng Lý Tòng Bá, người
đã chọn binh nghiệp từ thời niên thiếu ở trường Thiếu Sinh Quân,
tốt nghiệp thủ khoa từ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, sau này trở
thành Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh và cuối cùng là Tư Lệnh Sư
Đoàn Bộ Binh, mà có thời được nhiều người biết đến với danh hiệu
“Người hùng Kontum” khi ông là Tư Lệnh Sư Đoàn 23BB, đánh thắng
các sư đoàn nổi tiếng của Cộng quân, giữ vững thành phố Kontum,
địa đầu Tây Nguyên trong suốt “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972”.
Đến trước linh cữu, đứng nghiêm đưa
tay lên chào ông lần cuối, ngoài danh nghĩa là một người lính,
tôi còn là một thuộc cấp của ông tại Sư Đoàn này. Đã có mặt tại
chiến trường Kontum trong suốt trận chiến, và thường có cơ hội
gặp ông. Cả những lúc bị ông la rầy hay được ông khen thưởng.
Cũng như tôi, có lẽ những người lính có
mặt trong tang lễ hôm nay, chào kính và tiễn biệt ông, trong cái
tình “huynh đệ”, với lòng kính trọng dành cho một người anh, một
ông thầy khả kính hơn là một thuộc cấp đối với một ông tướng. Bởi
cái khoảng cách “quân giai” ấy trên thực tế đã không còn tồn tại.
Có thể có một số không mấy đồng tình với ông về đôi điều ông làm,
ông tuyên bố, hay đứng chung với nhân vật này nhân vật khác trong
vài tổ chức sau ngày ông sang Mỹ, hay một vài tấm ảnh do Cộng sản
dàn dựng, nhằm tuyên truyền bôi nhọ ông, nhưng chắc chắn tất cả
đều kính trọng ông từng là một tướng lãnh VNCH, đã ghi nhiều
chiến công trong cuộc chiến chống Cộng sản bảo vệ miền Nam Việt
Nam. Nhiều người còn dành cho ông sự thương cảm, bởi ông là vị
tướng không bỏ rơi thuộc cấp, chiến đấu tới giờ phút cuối cùng,
bị địch quân bắt sống ngay trước giờ thứ 25 cuộc chiến, bị tù đày
nghiệt ngã đến 13 năm, và nằm xuống khi không còn chút uy quyền
hay ân sủng nào của quân đội hay quốc gia.
Trong cái không khí trang trọng thấm
đẫm tình huynh đệ ấy, tự dưng tôi thấy lòng xúc động lẫn chút
ngậm ngùi, khi liên tưởng tới sự ra đi và tang lễ của một vị
Tướng Tư Lệnh khác, có nhiều điều giống ông, chỉ khác là vị tướng
kia đã chết tại chiến trường khi miền Nam còn có quân lực và
chính quyền. Và tang lễ của ông tất nhiên được tổ chức rất uy
nghi trang trọng, với đầy đủ lễ nghi dành cho một tướng lãnh.
Điều đặc biệt hơn, phu nhân của ông, nguyên là một nữ sĩ quan
trong Binh chủng Nhảy Dù, đã chết cùng ông, nên tang lễ đã được
cử hành chung.
Trong hơn mười năm cuối cùng của miền
Nam, cũng là thời gian tôi phục vụ tại Sư Đoàn 23BB, có hai vị Tư
Lệnh nổi danh, đã tạo nên hai chiến thắng lẫy lừng: Tết Mậu Thân
1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Đó là Tướng Trương Quang Ân và Tướng
Lý Tòng Bá. Hai vị có nhiều điểm giống nhau trong lúc khởi đầu,
nhưng kết thúc khác nhau ở cuối cuộc đời binh nghiệp.
Cả hai đều xuất thân từ những Thiếu
Sinh Quân ưu tú và sau đó là Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Một
trùng hợp đặc biệt lý thú khác, cả hai vị đều tốt nghiệp thủ
khoa. Tướng Trương Quang Ân tốt nghiệp thủ khoa Khóa 7 (Ngô
Quyền) và Tướng Lý Tòng Bá thủ khoa Khóa 6 (Đinh Bộ Lĩnh).
Tướng Trương Quang Ân chọn Binh chủng
Nhảy Dù, ông đã đạt nhiều thành tích nổi bật trong học tập, chỉ
huy, và chiến trận. Ngoài vị trí thủ khoa từ trường VBLQĐL, ông
còn đậu thủ khoa tất cả các khóa tham mưu mà ông theo học, trong
nước cũng như quốc tế, (đặc biệt đầu năm 1965, thủ khoa Khóa Chỉ
Huy & Tham Mưu Cao Cấp tại trường Fort Leavenworth, Kansas – Hoa
Kỳ, mà khóa sinh hầu hết là sĩ quan từ các quốc gia đồng minh, kể
cả Mỹ). Ông đã tạo nhiều chiến công hiển hách từ khi còn nắm giữ
các chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng (TĐ8ND), Chiến Đoàn Trưởng (CĐ2ND)
Nhảy Dù. Với những thành tích ấy, ông đã vượt qua người niên
trưởng Thủ Khoa Khóa 6 cũng rất tài ba, nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn
23BB vào ngày 24/11/1966 và được thăng cấp đặc cách Chuẩn Tướng
vào ngày 19/6/1968, trước niên trưởng Lý Tòng Bá của mình đúng
bốn năm.
Trong
trận Mậu Thân, vào khoảng 1:30g sáng ngày mồng một Tết, Cộng quân
bất ngờ tấn công vào thành phố Ban Mê Thuột (nơi đặt bản doanh
BTL/SĐ23BB), với toàn bộ Trung Đoàn 33 được tăng cường 2 Tiểu
Đoàn 301 và 401 cơ động tỉnh cùng 4 đại đội địa phương. Địch quân
đã xâm nhập vào một số khu vực hành chánh và trại gia binh. Tư
lệnh Sư Đoàn Trương Quang Ân điều động hai Tiểu Đoàn 1, 2 và Đại
Đội Trinh Sát của Trung Đoàn 45 đang hành quân bên ngoài, bất
thần đánh từ sau lưng địch và làm vòng đai bao vây. Ông cũng trực
tiếp điều động hai chi đoàn của Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh phản công từ
bên trong, tạo địch quân trong thế gọng kềm. Lực lượng địch bị
chia cắt và tiêu diệt gần như toàn bộ. Xe của ông bị bắn cháy
phía sau, nhưng ông rất bình tĩnh và can đảm, nhảy xuống xe thoát
nạn, tiếp tục điều quân và tạo nên chiến thắng vẻ vang. Ban Mê
Thuột hoàn toàn được giải tỏa, Trung đoàn 33 và các đơn vị địa
phương, du kích của địch bị đánh tan tác, để lại 924 xác trên
trận địa và 143 bị bắt sống.
Cũng trong thời điểm ấy, tại Bình
Thuận, một tỉnh cũng nằm trong lãnh thổ trách nhiệm của Khu 23
Chiến Thuật mà ông kiêm nhiệm Tư lệnh, Trung Đoàn 44 BB đang hành
quân tại khu Vĩnh Hảo, Tuy Phong, cách thị xã Phan Thiết hơn 100
cây số, nhận lệnh trực tiếp từ Tướng Vĩnh Lộc, Tư Lệnh Quân Đoàn
II, di chuyển khẩn cấp vào giải vây thành phố Phan Thiết, bị Cộng
quân tấn công và đã xâm nhập một số cơ sở. Trung Đoàn 44 và Chi
Đoàn 4/8 TK tăng phái đã chiến đấu rất dũng cảm trong một vị thế
cam go, bất lợi, cuối cùng đã đánh bật các đơn vị Cộng quân ra
khỏi thành phố. Sau đó Tiểu Đoàn 3/44 và Chi Đoàn 4/8 TK được một
đại đội bộ binh tùng thiết, chia làm 2 cánh truy kích và tiêu
diệt một số lớn địch quân trên đường rút lui, tháo chạy. Giao các
vùng tái chiểm lại cho TK Bình Thuận, BCH/Trung Đoàn 44 di chuyển
về Trinh Tường, ngoại ô thành phố, chuẩn bị trở về vùng hành quân
cũ.
Nhưng ba
tuần sau, Cộng quân lại điều động một số lực lượng khác từ các
tỉnh Bình Tuy, Ninh Thuận, tấn công đợt thứ nhì vào thành phố
Phan Thiết. Lần này, chúng tung các toán đặc công tinh nhuệ đánh
thẳng vào tòa tỉnh và chiếm lao xá bằng mọi giá, nhằm giải thoát
những tù binh CS bị giam giữ, mặc dù trước đó Tiểu Khu Bình Thuận
đã nhanh chóng chuyển số tù binh nguy hiểm đến một địa điểm an
toàn khác.
Trong tình hình nguy ngập, vị Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng,
Trung tá Nguyễn Khắc Tuân, vì một lý do nào đó bay lên BTL Quân
Đoàn (Pleiku) chưa về kịp. Chỉ có Thiếu tá Trần Văn Chà, Tiểu Khu
Phó (nguyên là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/45) có mặt tại Tiểu
Khu. Tướng Trương Quang Ân (khi ấy còn Đại tá) vừa tạm xong trận
chiến Ban Mê Thuột, liền bay xuống Phan Thiết. Khi biết vị Tỉnh
Trưởng/Tiểu Khu Trưởng không có mặt, ông tuyên bố tạm thời kiêm
nhiệm chức vụ Tiểu Khu Trưởng Bình Thuận kể từ giờ phút ấy, và
tức khắc trực tiếp chỉ huy cuộc phản công. Đích thân ông đã ban
kế hoạch, điều quân, và hướng dẫn một đại đội của Tiều Đoàn 3/44,
chia từng toán nhỏ, trang bị nhiều lựu đạn tấn công và hơi cay,
đánh từ nhiều hướng vào khu vực lao xá (nằm không xa tòa tỉnh)
do sơ hở của một đơn vị bố phòng thuộc TK/Bình Thuận, bị Cộng
quân xâm nhập, thả một số tù binh.
Một trận chiến thật cam go, nhưng dưới
sự điều động trực tiếp của ông, chỉ hơn 2 tiếng đồng hồ sau, quân
ta đã đánh bật Cộng quân ra ngoài và tiêu diệt toàn bộ các toán
đặc công cố thủ trong bờ thành lao xá. Cùng lúc ấy, Tiểu Đoàn
3/44 của Thiếu tá Mai Lang Luông cũng đánh đuổi địch quân ra khỏi
khu vực trường Thánh Tâm, lực lượng Cảnh sát phòng thủ mặt hướng
Đông, dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Hồ Đức Nhị, một vị trưởng ty
gan dạ và mưu lược, cũng đánh bật lực lượng địch cuối cùng ra
khỏi vòng đai thành phố. Tiểu Đoàn 4/44 của Thiếu tá Vũ Công
Khanh truy kích tiêu diệt những tên địch cuối cùng trên đường
tháo chạy. Ngay sau khi trận chiến vừa kết thúc, Tư Lệnh Trương
Quang Ân, đã quyết định thăng cấp tại mặt trận và gắn lon trung
tá cho Thiếu tá Võ Khâm, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44BB, do
chính ông bổ nhiệm.
Với tài năng lãnh đạo, chỉ huy và tạo
nên các chiến thắng lẫy lừng, ông được thăng cấp đặc cách lên
Chuẩn tướng vào ngày Quân Lực 19/6/1968.
Ngày 8/9/1968, ông cùng phu nhân
bay lên Quảng Đức để thăm viếng và ủy lạo binh sĩ. Lúc 10:30g
sáng, sau khi rời khỏi tiền đồn Đức Lập, chiếc trực thăng H–34
chở vợ chồng ông và tùy tùng bị rớt. Ông bà đã hy sinh cùng với
Đại tá Cố Vấn Trưởng, hai phi công và các sĩ quan Việt–Mỹ tháp
tùng.
Ông nổi tiêng là một vị tướng nghiêm khắc, nhưng rất
cương trực, thanh liêm. Khi ông và phu nhân hy sinh, ngôi nhà nhỏ
của ông bà trong cư xá Lê Đại Hành, chỉ vừa đủ chỗ cho 2 chiếc
quan tài, và theo báo chí, trong sổ tiết kiệm vỏn vẹn có 50,000
đồng.
Sáng ngày 10/9/1968, tang lễ của ông và phu nhân
được cử hành vô cùng trọng thể, với sự hiện diện đông đủ của các
cấp lãnh đạo chính quyền và quân đội: Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu, Phó TT Nguyễn Cao Kỳ, Thủ tướng Trần Văn Hương, Đại tướng
Cao Văn Viên, Đại tướng Creigton W. Abrams, Tổng Tư Lênh Quân Lực
Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, các vị Chủ Tịch Thượng và Hạ Viện,
cùng rất nhiều tổng, bộ trưởng và tướng lãnh. Ông được truy thăng
thiếu tướng và truy tặng Đệ Tam Đẳng BQHC kèm anh dũng bội tinh
với nhành dương liễu. Phu nhân ông cũng được truy tặng Đệ Ngũ
Đẳng BQHC. Luân phiên túc trực hai bên quan tài của ông là các vị
thiếu tướng, chuẩn tướng và đại tá, hai bên quan tài của bà là
những sĩ quan nữ quân nhân. Đám tang được dẫn đầu bởi hai toán
dàn chào danh dự của Binh chủng Nhảy Dù, đứng trên xe trong tư
thế bắt súng chào, đông đảo đại diện các quân binh chủng và nhiều
tướng lãnh tháp tùng. Dù phải di chuyển dưới cơn mưa tầm tã, đám
tang vẫn giữ sự uy nghiêm và đúng lễ nghi quân cách. Ông bà được
an táng tại Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi, Sài Gòn (khi ấy chưa có
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa)
Cuối tháng 1 năm 1972, Đại
tá Lý Tòng Bá về nắm chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23BB, thay thế Chuẩn
tướng Võ Văn Cảnh. Tướng Cảnh là người ở Sư Đoàn khá lâu và đóng
góp nhiều chiến công cho đại đơn vị này. Từ chức vụ Trung Đoàn
Trưởng Trung Đoàn 45, và sau đó là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, ông đã
được đề bạt vào chức vụ Tư Lệnh thay thế Tướng Trương Quang Ân tử
nạn.
Khi Đại tá Lý Tòng Bá về Sư Đoàn, nhiều nguồn dư luận
đã làm một số sĩ quan mất thiện cảm nơi ông. Nhiều người nghĩ
rằng ông là “người” của John Paul Vann, một người dân sự (trung
tá đã giải ngũ) nhưng lại làm Cố Vấn Trưởng cho Tướng Tư Lệnh
Quân Đoàn II/QK2. Ông ta có tài, gan dạ, liều lĩnh, nhưng bản
tánh nóng nảy bốc đồng và khá kênh kiệu, nhiều người không thích.
Báo chí gọi ông là “phù thủy mắt xanh”, và cho biết là ông đã đề
nghị (sau đó là áp lực) Trung tướng Ngô Dzu, Tư lệnh Quân Đoàn,
phải thay thế hai vị Tư Lệnh Sư Đoàn. Đồng thời đề bạt Đại tá Lê
Minh Đảo thay thế Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh trong chức vụ TL/SĐ23BB
và Đại tá Lý Tòng Bá thay thế Thiếu tướng Lê Ngọc Triển, trong
chức vụ TL/SĐ22BB. Riêng Đại tá Lý Tòng Bá còn được báo chí cho
biết là em bà con với người vợ Việt Nam của John Paul Vann. Điều
này đã xôn xao trên báo chí và gây khó khăn không ít cho Tướng
Ngô Dzu. Cuối cùng, với sự đồng tình của TT Nguyễn Văn Thiệu và
Đại tướng Cao Văn Viên, Tướng Ngô Dzu đã chấp nhận thay thế hai
vị Tư Lệnh Sư Đoàn, nhưng chỉ có Đại tá Lý Tòng Bá nhận Sư Đoàn
23BB. Riêng Sư Đoàn 22BB, Đại tá Lê Đức Đạt, Tư lệnh Phó lên thay
tướng Triển. Đại tá Đạt là niên trưởng (Khóa 5 – Hoàng Diệu) của
Tướng Bá từ trường Võ Bị và cùng Khóa Cao Cấp Thiết Giáp tại
trường Saumur, Pháp năm 1955). Tướng Bá cũng đã từng làm việc
dưới quyền (cấp phó) của Đại tá Lê Đức Đạt khi hai ông còn ở
Trung Đoàn 2 TG và TTHL Cơ Giới Bảo An/Vũng Tàu. Vì lý do tế nhị
này, nên ông cũng không muốn nhận Sư Đoàn 22BB, khi Đại tá Đạt
đang là Tư Lệnh Phó.
Vào khoảng 2:00g sáng ngày 24/4/1972,
chỉ gần hai tháng sau ngày nhận chức Tư Lệnh, Đại tá Đạt hy sinh
tại chiến trường Tân Cảnh, khi BTL/SĐ22BB bị đại quân CS tràn
ngập bằng chiến xa T–54 và đặc công sau những trận địa pháo nặng
nề và sử dụng hỏa tiễn Sagger AT–3 để làm tê liệt các chiến xa và
sức chiến đấu của lực lượng trú phòng. Dư luận trong đơn vị cũng
như báo chí cho rằng Đại tá Đạt bị John Paul Vann ganh ghét và
không yểm trợ B–52 cho Sư Đoàn 22BB, khi luôn tìm cách bác bỏ tin
tức có sự xuất hiện chiến xa địch do BTL/SĐ22BB báo cáo lên Quân
Đoàn, nên đã mang đến sự thất bại nặng nề cùng cái chết oan khuất
của vị tư lệnh.
Khi thấy tình hình vô vọng, Đại tá Kaplan,
Cố vấn trưởng Sư Đoàn, đã liên lạc khẩn cấp yêu cầu Cố vấn trưởng
Quân Đoàn bay lên cứu ông và toán cố vấn. Khoảng 4:00g sáng, ông
John Paul Vann đích thân lái trực thăng trinh sát OH–58 Kiowa đáp
xuống một bãi đáp rất nhỏ bên cạnh bãi mìn để bốc Đại tá Kaplan
và các quân nhân trong toán Cố Vấn Mỹ. Trước khi trực thăng đáp
xuống, Đại tá Kaplan đã đến báo cho Đại tá Lê Đức Đạt và yêu cầu
ông cùng lên trực thăng ứng cứu của ông John Paul Vann nhưng Đại
tá Đạt đã từ chối. Vị Tư lệnh SĐ22BB đã biết rõ tình hình rất bi
đát, nhưng ông vẫn không yêu cầu Trung tướng Ngô Dzu cho trực
thăng bay lên cứu. Ông ra lệnh cho tất cả các quân nhân còn lại
trong căn cứ tìm cách thoát ra ngoài trước khi trời sáng. Khi bắt
tay vĩnh biệt Đại tá Tôn Thất Hùng và các sĩ quan, ông nói với
mọi người: “Là Tư lệnh, tôi phải ở lại với Tân Cảnh” (theo lời kể
của Đại tá Hùng sau khi sống sót trở về, nhờ những người Thượng
cứu giúp). Người ta đã hỏi nhau, nếu Đại tá Lý Tòng Bá nhận chức
vụ Tư Lệnh SĐ22BB, liệu cục diện có đổi thay? Sư Đoàn 22 có phải
thảm bại để Đại tá Lê Đức Đạt đã hy sinh oan uổng?
Sau khi
SĐ22BB bị thảm bại ở Tân Cảnh, Sư Đoàn 23BB của Đại tá Lý Tòng Bá
nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên Kontum để kịp thời ngăn chặn một
lực lượng địch hùng hậu (cấp quân đoàn) của Mặt Trận B3 do Tướng
CS Hoàng Minh Thảo chỉ huy, tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy
Kontum và làm chủ Tây Nguyên. Lúc này việc di chuyển trên Quốc Lộ
14 từ Pleiku lên Kontum đã rất khó khăn vì Cộng quân đã dùng một
tiểu đoàn đặt những cái chốt rất kiên cố trên đỉnh núi Chu Pao
với rất nhiều ổ súng đại liên, đại bác 75ly, hỏa tiễn chống
chiến xa và phòng không. Đại tá Bá đến Kontum với Trung Đoàn 45,
Trung Đoàn 53, và một chi đoàn chiến xa M–41 thuộc Thiết Đoàn
8/KB. Khi đoàn quân của Trung Đoàn 45 bị nghẽn lại ở Chu Pao, bị
thiệt hại mà không thể nào tiến lên được. với sở trường và kinh
nghiệm của một sĩ quan Thiết Giáp kỳ cựu, Đại tá Bá đã sử dụng
Chi Đoàn 1/8 Chiến Xa (M–41), được một đại đội của Tiểu Đoàn 4/45
tùng thiết, theo vết xe be leo lên đỉnh núi để bất thần tiêu diệt
đè bẹp các chốt kháng cự của Cộng quân, ngay sau khi hai chiếc
trực thăng võ trang của Phi Đoàn Thần Tượng 215, chỉ huy bởi
Trung úy Vĩnh Hiếu, rất thông minh và gan dạ, bay sát mục tiêu,
sử dụng hỏa tiễn đầu nổ đinh (fletchettes), tác xạ chính xác vào
các chốt kiên cố trong các hầm núi đá, hỗ trợ hữu hiệu cho quân
bạn. Một trận chiến khó tưởng tượng nhưng đã thành công với sự
chỉ huy tài ba và gan dạ của anh Chi Đoàn Trưởng trẻ tuổi, Đại
úy Lê Quang Vinh.
Đến Kontum, việc đầu tiên là ông yêu
cầu được hoàn trả các đơn vị tăng phái gồm Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù,
Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân và một số đơn vị còn lại của Sư Đoàn
22BB, để được lấy lại Trung Đoàn 44 BB, đang hành quân ở An Khê,
do Quân Đoàn sử dụng làm lực lượng trừ bị và bảo vệ BTL/Quân
Đoàn. Theo ông, Trung Đoàn 44 là đơn vị thiện chiến nhất của Sư
Đoàn, và với những đơn vị cơ hữu sẽ dễ dàng cho ông hơn về mặt
chỉ huy. Hơn nữa các đơn vị tăng phái, dù thuộc các binh chủng
thiện chiến, nhưng đã quá mệt mỏi và tinh thần giao động sau sự
kiện Tân Cảnh và Căn cứ Charlie. Ngay từ quyết định đầu tiên này
đã là một quyết định rất sáng suốt của vị Tư Lệnh Chiến Trường.
Vì chỉ sau 24 tiếng đồng hồ được không vận xuống Kontum để trám
vào tuyến phòng thủ Tây Bắc, cách thị xã Kontum 4 cây số, thay
thế cho Liên Đoàn 6 BĐQ và một đơn vị của SĐ22BB, lúc gần 5:00g
sáng ngày 15/5/1972, Trung Đoàn 44 BB đã mở đầu bằng một chiến
thắng thật lẫy lừng, đánh bại lực lượng của Sư Đoàn 320 CS cùng
một tiểu đoàn xe tăng T–54, từ Tân Cảnh tràn xuống tấn công trực
diện vào tuyến phòng thủ của Trung Đoàn. Năm xe tăng bị bắn cháy,
hai chiếc bị bắt sống với tên đại đội trưởng. Địch tháo chạy
ngược về hướng Bắc, bị các oanh tạc cơ thuộc Phi Đoàn 530–Thái
Dương (Pleiku) và sau đó là B–52 dội bom tiêu diệt. Sau trận này,
địch quân bị loại khỏi vòng chiến hai Trung Đoàn 48 và 64 thuộc
Sư Đoàn 320 và 15 chiến xa T–54 của Trung Đoàn 2 TG.
Ngay
sáng hôm ấy, khi khói lửa chưa tan, Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn,
vừa mới nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II thay Tướng Ngô Dzu, bay
lên Kontum và cùng Đại tá Lý Tòng Bá, dùng chiến xa M–113 di
chuyển đến tận trận địa, mừng chiến thắng, khen ngợi Trung Đoàn
44BB và gắn lon đại tá cho Trung tá Trần Quang Tiến, Trung Đoàn
Trưởng. Bốn anh tiểu đoàn trưởng cũng được lệnh vinh thăng mỗi
người một cấp.
Đúng một tuần lễ, sau chiến thắng đầu tiên,
vào ngày 21/5/1972, toàn bộ Trung Đoàn 44 được điều về “dưỡng
quân” trong vòng đai thành phố, cũng là tuyến phòng thủ cho
BTL/Sư Đoàn. BCH/Trung Đoàn đóng trong thành Dakpha, nằm ngay
phía sau và chỉ cách Bệnh Viện 2 Dã Chiến một lớp hàng rào phòng
thủ, (phi trường Kontum nằm hướng nam khoảng 600 mét), được bảo
vệ bởi Đại Đội 44 Trinh Sát, cũng là lực lượng trừ bị. Tiểu Đoàn
3 và 4/44 phòng thủ vòng đai phía Đông, bên cánh phải BCH/Trung
Đoàn. Riêng hai Tiều Đoàn 1 và 2/44 do Thiếu tá Ngô Văn Xuân,
Trung Đoàn Phó chỉ huy, phòng thủ vòng đai phía Nam, bên bờ sông
Dakbla. Nhưng chỉ hai ngày sau, theo yêu cầu của John Paul Vann,
Cố Vấn QĐ, Đại tá Bá ra lệnh cho Thiếu tá Xuân cùng hai Tiểu Đoàn
1 và 2/44, tổ chức thành một chiến đoàn đặc nhiệm, trang bị súng
cá nhân và lựu đạn, tham dự một cuộc hành quân hậu địch, mà chính
cá nhân ông cũng thấy quá mạo hiểm. Sau khi B–52 đánh 2 box vào
khuya hôm ấy, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm được trực thăng vận đổ xuống
phía Bắc, sau lưng phòng tuyến địch từ 10–15km. để bất ngờ mở một
cuộc càn quét địch từ Bắc xuống Nam, lấy QL–14 làm chuẩn hướng về
Kontum.
Nhờ kế hoạch đánh lừa địch cùng với kinh nghiệm
tuyệt vời của các phi công thuộc Phi Đoàn Lạc Long 229, cuộc đổ
quân an toàn và hoàn tất lúc 9:00g sáng. Nhưng ngay sau khi rời
bãi đáp, lực lượng ta liên tiếp đụng độ các toán hậu cần, thông
tin liên lạc của địch. Bọn chúng đang gánh cơm đi tiếp tế và
giăng giây điện thoại. Đến khoảng 12:00g trưa, khi còn cách thị
xã Kontum khoảng 10 cây số, sau khi nhìn thấy khói lửa ngộp trời
ở hướng thành phố cùng tiếng pháo nổ dồn dập không dứt, Thiếu tá
Xuân nhận lệnh của Đại tá Bá, bằng mọi cách, ngay cả việc phải
đạp trên đầu địch, để đưa lực lượng trở về BTL gấp.
Những
trận đánh tốc chiến xảy ra, phải đạp qua phòng tuyến hung hiểm
của địch nằm đối diện với Trung Đoàn 45. Cuối cùng như một phép
mầu, Chiến Đoàn đã có mặt tại Kontum sau 4 tiếng đồng hồ, chỉ có
một thiếu úy và 13 binh sĩ hy sinh, 5 thương binh đã mang về
được. Đại tá Bá ra đón đơn vị tại tuyến phòng thủ với nỗi vui
mừng và xúc động. Tiểu Đoàn 1/44 được giữ lại phòng thủ BTL/SĐ,
Tiểu Đoàn 2/44 về lại tuyến phòng thủ bên kia bờ sông, khu vực
Phương Hòa. Thiếu tá Xuân trở về BCH Trung Đoàn. Ngày hôm ấy,
Cộng quân đã pháo kích liên tục vào thành phố hơn hai ngàn quả
đạn pháo đủ loại. Căn cứ BTL/SĐ bị hư hại nặng nề, nhưng rất may,
chỉ có một hạ sĩ quan chết và vài binh sĩ bị thương.
Sáng
ngày 23/5, Tướng Hoàng Minh Thảo tung hai Sư Đoàn 2 và 10 cùng
một đại đội chiến xa gồm T–54 và T–59 tấn công vào phòng tuyến
phía Đông thị xã. Lần này Hoàng Minh Thảo áp dụng chiến thuật “nở
hoa” với kinh nghiệm từ trận đánh Tân Cảnh, mà chúng vừa thu được
kết quả ngoài sự mong đợi. Không đụng vào các tuyến đầu mà tìm
cách thâm nhập đánh sâu vào vào đầu não của ta, Bộ Tư lệnh Sư
Đoàn. Chúng chọn một tiểu đoàn của Sư Đoàn 3 Sao vàng được tăng
cường một Đại Đội Chiến Xa gồm các xe tăng T–54 và T–59, làm nỗ
lực chính xâm nhập vào Bệnh Viện 2 Dã Chiến (đã di tản thương
binh), nằm phía trước cách thành Dakpha chỉ một hàng rào phòng
thủ, nơi đặt BCH Trung Đoàn 44. Thành Dakpha nguyên là bản doanh
của BTL/Biệt Khu 24 nên chúng tưởng lầm Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23BB
đang đóng ở đây. Một lần nữa Trung Đoàn 44BB chứng tỏ sự dũng cảm
và thiện chiến của mình. Khi đợt tiền pháo vừa dứt, ba chiếc xe
tăng T–54 đầu tiên ủi vào lớp hàng rào phòng thủ để tấn công vào
BCH Trung Đoàn, chỉ cách hàng rào chừng 50 mét, Đại Đội 44 Trinh
Sát của Trung úy Đoàn Quang Mạnh (Đại Đội Phó tạm thay thế Đại
úy Phan Công Minh vừa bị thương còn nằm trong quân y viện) dùng
M–72 chống tăng và XM–202 lân tinh chống biển người đồng loạt
trực xạ vào toán xe tăng và bộ binh địch. Địch hốt hoảng bỏ chạy,
hai chiếc tăng bị bắn cháy, trong đó có xe chỉ huy của tên đại
đội trưởng. Lục trong xác chết của tên này (Đại úy Vinh), trước
ngực có đeo một chiếc túi bằng da đựng bản đồ, một quyển sổ nhật
ký và một lá cờ đỏ sao vàng có thêu bốn chữ “Đơn Vị Anh Hùng”.
Sau đó, Phòng 2 Sư Đoàn xác nhận chính tên này đã chỉ huy đại đội
chiến xa đánh chiếm căn cứ Tân Cảnh của Sư Đoàn 22BB mới đây. Đại
Đội 44 Trinh Sát chia từng toán nhỏ, tìm cách vượt qua hàng rào
phòng thủ, men theo các vách nhà bệnh viện để tiệu diệt các xe
tăng địch còn lại và hướng dẫn phi cơ oanh tạc. Tất cả tăng và bộ
binh địch đều bị tiêu diệt.
Đại tá Lý Tòng Bá có mặt tại
BCH/Trung Đoàn khi chiến trận còn đang tiếp diễn khốc liệt. Ông
đựợc Đại tá Tiến, Trung Đoàn trưởng trao cho tập sổ tay và lá cờ
của tên Đại Đội trưởng xe tăng CS. Ông đến bắt tay khen thưởng,
ôm Trung úy Mạnh và một số chiến sĩ Trinh Sát, rút tiền trong
túi ra tặng những chiến sĩ vừa bắn hạ xe tăng địch. Thái độ của
ông đã làm nức lòng thuộc cấp.
Một đơn vị khác của địch
xâm nhập vào trại Ngọc Hồi, khu gia binh và hậu cứ của Thiết
Giáp, đánh vào sườn phải BCH/Trung Đoàn, bị Tiểu Đoàn 3/44 của
Thiếu tá Hồ Đắc Tùng đánh bật ra ngoài, sau đó hướng dẫn phi pháo
tiêu diệt. Pháo Đội Pháo Binh 155ly trú đóng phía sau BCH/Trung
Đoàn đã phải hạ tất cả nòng súng trực xạ liên tục, tiêu diệt địch
quân từng đợt dàn hàng ngang tấn công trước mặt. Một đại đội địch
chiếm được kho quân tiếp vụ và giành nhau ăn những hộp trái cây
ngọt. Do đang đói nên hầu hết bị say, bị lính quân y thuộc Đại
Đội Quân Y của Y sĩ Đại úy Nguyễn Văn Oánh bắt sống, một số đông
đưa tay đầu hàng, xin được hồi chánh.
Một lực lượng địch
hùng hậu khác đánh vào thành phố và chiếm được Tòa Giám Mục
Kontum. Tiểu Đoàn 4/44 của Thiếu tá Võ Anh Tài và sau đó Tiểu
Đoàn 2/44 của Thiếu tá Nguyễn Xuân Phán, được đích thân Đại tá Lý
Tòng Bá chỉ định tăng cường bao vây, giải tỏa khu vực, không sử
dụng phi pháo, bằng mọi cách phải chiếm lại khu nhà thờ và Tòa
Giám Mục trong tình trạng không bị hư hại. Trận chiến khá cam go
này kéo dài gần hai ngày, cuối cùng Tiểu Đoàn 2 và 4/44 đã tiêu
diệt những tên địch cuối cùng và chiếm lại Tòa Giám Mục.
Ngày 30/5/1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến Kontum mừng chiến
thắng. Khi trực thăng của ông vừa đáp xuống BTL trong căn cứ
B–12, Cộng quân đã “dàn chào” bằng mấy loạt pháo kích. Ông tươi
cười bình tĩnh, từ chối khi Đại tá Bùi Hữu Khiêm TMT/SĐ đưa cho
ông chiếc áo giáp. Tổng thống đã tuyên dương công trạng Sư Đoàn
23BB, gắn sao Chuẩn tướng thăng cấp đặc cách tại măt trận cho Tư
Lệnh Lý Tòng Bá, và cấp bậc thiếu tá cho Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa
1/8 KB. Đây chỉ là tượng trưng, sau đó còn nhiều quân nhân có
công khác được thăng cấp đặc cách, trong đó có Thiếu tá Ngô Văn
Xuân, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 44BB, là người chỉ huy trực tiếp
hai cuộc phản công và cuộc đánh hậu địch rất ngoạn mục. Trong
cuộc tổng kết thành tích Mùa Hè 1972, Sư Đoàn 23BB được Bộ TTM
xếp hạng nhất (trước Sư Đoàn 1BB: hạng 2, và Sư Đoàn Nhảy Dù:
hạng 3) với phần thưởng 8,600,000– đồng. Thành tích tạo chiến
thắng lớn, nhưng thiệt hại nhẹ nhất về cả nhân mạng lẫn phần đất
bảo vệ.
Chiến
thắng vẻ vang này tất nhiên thuộc công trạng tất cả chiến binh
các cấp của Sư Đoàn 23BB, đặc biệt là Trung Đoàn 44BB, Chi Đoàn
1/8 Thiết Kỵ, và các đơn vị Không Quân yểm trợ (gồm các Phi đoàn
trực thăng Lạc Long 229, Sơn Dương 235, Thần Tượng 215, Phi Đoàn
khu trục Thái Dương 530, và các Phi đoàn quan sát Sao Mai 114,
Bắc Đẩu 118). Tuy nhiên B–52 của Hoa Kỳ đã góp phần không nhỏ
trong việc tiêu diệt phần lớn lực lượng địch tham chiến hoặc đang
ẩn nấp làm trừ bị. Nói một cách công bình hơn, một Sư Đoàn 23BB
(không đủ Thiết Đoàn Kỵ Binh và các Tiểu Đoàn Pháo Binh cơ hữu)
không thể đánh thắng và làm tê liệt 3 Sư Đoàn của Cộng quân,
(được tăng cường 1 trung đoàn đặc công, 2 trung đoàn pháo, 1
trung đoàn xe tăng và 6 tiểu đoàn phòng không), nếu không có các
đơn vị Không Quân VNCH, và đặc biệt B–52 của Hoa Kỳ.
Với công trạng này, vị Tư Lệnh Sư Đoàn
23BB kiêm Tư Lệnh Mặt Trận Kontum, Lý Tòng Bá, rất xứng đáng để
được vinh danh, được báo chí và dân chúng gọi là “Người Hùng
Kontum”.
Một
nhân vật rất quan trọng khác có tính cách quyết định chiến thắng
Kontum, phải kể ông John Paul Vann, Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn II.
Ông luôn có mặt bên cạnh TL Lý Tòng Bá, đặc biệt vào những thời
điểm cam go nguy hiểm nhất. Ông thường xuyên bay từ Pleiku lên
ngủ đêm ở BTL/SĐ. Ngoài việc gây tin tưởng cho Tướng Bá cũng như
quân sĩ, ông còn bàn thảo tỷ mỷ các kế hoạch phòng thủ, phản công
và đặc biệt đáp ứng những yêu cầu của Tướng Bá, dành quyền ưu
tiên sử dụng tối đa B–52 cho mặt trận Kontum.
Mặc dù Tướng Lý Tòng Bá luôn minh định
ông không phải là người “nhà” của John Paul Vann. Giữa ông và ông
Vann chỉ quen biết và tôn trọng nhau từ khi ông Vann là Trung tá
Cố Vấn cho Sư Đoàn 7BB, thời Tướng Huỳnh Văn Cao là Tư Lệnh, và
khi ấy ông Bá là Đại Đội trưởng ĐĐ7 Cơ Giới M–113. sau đó là
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 2 Thiết Giáp thống thuộc Sư Đoàn
này, (mặc dù trước đó ông Bá rất bất bình John Paul Vann về việc
nhận xét và tuyên bố sai lạc trên báo chí Mỹ về Trận Ấp Bắc, mà
ĐĐ 7–M113 của ông đã rất anh dũng chiến đấu, đạt nhiều thắng lợi
thay vì thất bại như ông Vann và vài ký giả người Mỹ khác đã rêu
rao tạo cho CS có cớ để tuyên truyền. Sau này John Paul Vann đã
nhận ra sai lầm và nhiều lần xin lỗi ông Bá).
Tuy nhiên, qua nhiều sự kiện, người ta
thấy ông Vann đã đối xử rất đặc biệt với Tướng Lý Tòng Bá. Khi
nhận chức vụ Tư lệnh Sư Đoàn 23BB, ông Bá không thích người Cố
Vấn Mỹ, Đại tá Robert Kellar. Vann liền thay thế Đại tá Kellar
bằng Đại Tá John Truby, nhưng Đại tá Lý Tòng Bá muốn người làm Cố
Vấn cho mình phải là Đại Tá R.M. Rhotenberry, người đã từng làm
cố vấn bên cạnh ông vào những năm 65–66, khi ông làm Tỉnh
trưởng/Tiểu Khu trưởng Bình Dương, mà ông rất tâm đắc. Đại tá
Rhotenberry mãn nhiệm kỳ phục vụ tại Việt Nam và về Mỹ đã lâu,
vậy mà John Paul Vann tìm mọi cách đưa ông trở lại Việt Nam để
làm Cố Vấn cho Đại tá Lý Tòng Bá. Ông nhận lệnh lên đường khẩn
cấp và đến Kontum chỉ 5 ngày trước cuộc tổng tấn công của quân
Cộng sản.
Cũng
vì giữ lời hẹn ở lại đêm tại Kontum với Tướng Bá, vào buổi chiều
sắp tối ngày 9/6/1972, từ BTL/QĐ II (thành Pleime–Pleiku) ông
Vann tự lái trực thăng bay lên Kontum, nhưng khi còn cách Kontum
10 phút bay, gần khu vực Chu Pao, máy bay bị (bắn?) rớt. Ông đã
chết với 2 quân nhân tùy tùng.
Ông là vị dân sự duy nhất được cử làm
Cố Vấn Quân Đoàn. Người Mỹ gọi ông là ông tướng dân sự (civil
general), những sĩ quan Mỹ dưới quyền ông và một số sĩ quan Việt
Nam vẫn gọi ông là “Sir General!”.
Sư Đoàn 23BB có hai vị tư lệnh nổi danh
vì đã tạo những chiến thắng vẻ vang nhất. Tuy nhiên với tình
hình chiến tranh ngày một leo thang (sau khi Cộng sản lợi dụng
việc Mỹ rút quân về nước và cắt giảm tối đa mọi viện trợ quân sự
cho VNCH, đã ngày đêm xua đại quân và chiến xa các loại vào chiến
trường miền Nam), chiến thắng Kontum của Tướng Lý Tòng Bá, có
tính lớn lao, nổi tiếng hơn là những chiến thắng trước đó của Sư
Đoàn thời Tướng Trương Quang Ân làm tư lệnh.
Tướng Trương Quang Ân đã hy sinh tại
chiến trường vào tháng 8/1968. Cuộc đời và cái chết của ông đã
tạo nhiều huyền thoại, được mọi người hết lòng ngưỡng mộ. Đám
tang của ông được cử hành vô cùng trọng thể. Có thể nói là một
trong số đám tang trọng thể nhất trong hàng tướng lãnh tử trận.
Tướng Lý Tòng Bá thì không bị chết,
nhưng bị bắt tại chiến trường, ngay trước giờ thứ 25 của cuộc
chiến, khi ông đang làm Tư Lệnh Sư Đoàn 25BB. Điều đáng buồn hơn
là ông bị bắt bởi một đám du kích. Tướng Bá không rời đơn vị,
không bỏ rơi đồng đội, chiến đấu tới giờ phút cuối cùng khi nhiều
thượng cấp của ông đã đào tẩu. Ông bị tù đày, sỉ nhục, khốn khổ
hơn 13 năm và sau đó sang Mỹ theo diện H.O., để bắt đầu cuộc sống
tha phương lưu lạc, với bao điều nhiễu nhương cay đắng.
Không có đủ từ ngữ tốt đẹp để nói lên
lòng kính trọng và ngưỡng mộ đối với những vị tướng lãnh và những
người lính đã tự sát trước giờ nước mất nhà tan. Không có gì cao
cả hơn khi lấy cái chết để chứng minh trung liệt với tiền nhân và
tổ quốc. Nhưng có những trường hợp mà sự sống sót cũng là một can
đảm không kém, cũng rất đáng được kính phục. Cái sống của những
vị anh hùng chưa kịp chết hoặc không thể chọn cái chết bởi còn
ràng buộc bao trách nhiệm thiêng liêng khác, để rồi bị giết như
Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Đại tá Đặng Phương Thành, Trung tá Võ Vàng...
hoặc bị tù đày, khốn khổ và cả việc nhục mạ phỉ báng, không chỉ
của địch mà của cả một số cá biệt, những đồng đội, những người
cùng chiến tuyến, chỉ vì đôi điều bất như ý, bởi một con người
thì không phải là thánh nhân để được sự vẹn toàn.
Xin cám ơn những cựu Thiếu Sinh Quân,
những cựu SVSQ Võ Bị, những chiến hữu Thiết Giáp cùng tất cả mọi
người đã đứng ra tổ chức và tham dự phủ kỳ, tang lễ cho Tướng Lý
Tòng Bá. Với những lễ nghi tượng trưng, nhưng là niềm vinh dự
cuối cùng, rất xứng đáng, dành cho cá nhân ông và cho cả gia
đình.
Xin đứng
nghiêm chào vĩnh biệt. Xin Tướng Tư Lệnh của chúng tôi yên nghỉ.
Những trách móc giận hờn của Tướng Quân đối với một vài cấp lãnh
đạo, chỉ huy “bất tài, thối nát”, những ngày tháng nhục nhằn dâu
biển, cùng dư âm của bom đạn chiến trường sẽ vĩnh viễn không còn
theo Tướng quân về cõi vô cùng.
Phạm Tín An Ninh
(một người lính Sư Đoàn 23BB)
Nguồn:
https://phamtinanninh.com/?p=2910
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nvt chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, September 22,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang