Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
bút
Chủ đề:
Nhà văn Phạm Tín An Ninh
Tác giả:
Bảo Anh Trần
Tường Vi
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Đó
là trường hợp Phạm Tín An Ninh. Ông
sinh tại Vạn Giã, tỉnh Khánh Hòa. Mồ côi mẹ sớm, lúc mới 3 tuổi.
Ông chỉ có một người em gái tên là An Bình.
Thuở nhỏ ông học ở trường làng, tới
trường huyện, rồi chuyển vào thành phố Nha Trang học Trung học.
Sau khi đỗ Tú Tài, ông nhập ngũ vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức.
Tháng 3
năm 1965, ra trường, về một Sư Đoàn Bộ Binh, được cử giữ chức vụ
Trung Đội Trưởng Tác Chiến của một Tiểu Đoàn Lưu Động trong khu
Chiến Thuật.
I. Phạm Tín An Ninh viết nhiều truyện ngắn.
Nhưng thật ra đó lại là một truyện dài,
nếu ta nhìn vào từng nhân vật.
Một trường hợp tiêu biểu được kể lại,
là có một bé gái và một bé trai cùng sống trong một cô nhi viện.
Lớn lên cậu trai nhập ngũ, sau một thời gian trở thành một trung
sĩ. Hai người yêu nhau. Những bà soeur của cô nhi viện, biết họ
từ nhỏ, thương cả hai người, đứng ra tổ chức lễ đính hôn. Chàng
tên là Nguyễn Phú Hùng Em. Nàng tên là Thụy Khanh, Một trời hạnh
phúc đang mở ra. Sau đó chàng trung sĩ lại đi hành quân, rồi tử
trận.
Bẵng đi
rất lâu, Phạm Tín An Ninh không có tin tức gì nữa về vị hôn thê
của người trung sĩ đã hy sinh vì tổ quốc. Tháng 10/1972, tác giả
đi theo người bạn đến thăm một cô nhi viện... “chúng tôi được một
bà sœur ra tiếp và mời vào văn phòng uống trà. Anh bạn tôi thì đã
là người quen biết từ lâu, trong cách giao tiếp, anh được các
sœur xem như một ân nhân bảo trợ, chỉ có tôi là người lạ. Nhưng
khi chào tôi, sœur bảo thấy tôi giống một người thân quen nào đó.
Còn tôi, thì cũng mơ hồ như đã từng gặp người nữ tu này ở đâu
rồi.
Được giới
thiệu là sœur Anna, tôi biết đây chỉ là tên thánh của bà. Khi tôi
vừa ngồi xuống phía đối diện, sœur nhìn chăm chú vào cái bảng tên
của tôi trên nắp túi áo, bỗng mắt sœur như sáng lên:
– Có phải lúc trước Đại úy ở Tiểu Đoàn
3/44?
Tôi
khựng lại, ngạc nhiên:
– Dạ, đúng là trước kia có mấy năm tôi
ở tiểu đoàn này. Nhưng cách nay đã 6, 7 năm rồi!
– Đại úy còn nhớ trận Quảng Nhiêu. Hình
như Đại úy suýt chết trong trận ấy?
Tôi càng ngạc nhiên hơn, không hiểu tại
sao người nữ tu này biết rõ mình như thế. Tôi vừa trả lời vừa
nghĩ ngợi, thăm dò:
– Dạ đúng, nhưng sao sœur biết. Chuyện
đã xảy ra lâu lắm rồi mà. Sœur Anna không trả lời mà hỏi lại tôi:
– Đại úy thoát chết, nhưng người nằm hố
bên cạnh thì bị nguyên một quả đạn súng cối 60 hay 80 gì đó, phải
không?
Tôi
giật mình, từ ký ức hiện ra rất nhanh hình ảnh hãi hùng này, và
ngay lúc ấy, trước mắt tôi sœur Anna cũng phảng phất bóng dáng
của một người con gái khác...
Sau những cuộc hành quân dài hạn trong
rừng, mỗi lần đơn vị được về phố ít ngày hoặc đóng quân trong các
làng mạc nằm khu ngoại ô, chúng tôi lại thấy người con gái xinh
đẹp Thụy Khanh đến thăm và ở lại với người yêu.
Đó là một đôi tình nhân gắn bó, đẹp và
lãng mạn nhất mà bọn tôi chứng kiến, và có lẽ ai cũng thèm thuồng
có được một hạnh phúc như thế.
Một hôm, khoảng hai giờ sáng, khi tôi
đang ngủ chập chờn, bỗng một tiếng nổ chát chúa ngay bên cạnh,
mảnh đạn và bụi phủ đầy người, tôi bật dậy chụp vội cây súng chạy
ra hàng rào phòng thủ, nơi vọng gác có đặt khẩu đại liên. Rờ nắn
vội qua khắp người xem có thương tích gì không, tôi thở phào vì
không thấy dấu hiệu đau đớn nào, nhưng khi các trái sáng bắn lên,
nhìn bụi đỏ phủ đầy người tôi giật mình cứ ngỡ là máu. Địch quân
đã pháo kích chúng tôi hơn 10 quả bằng hai khẩu súng cối 61ly từ
hai địa điểm khác nhau. Pháo Binh đã phản pháo chính xác làm bọn
chúng câm họng. Khi tình hình ổn định, trở về hố, tôi bàng hoàng
nghe anh lính ô–đô báo là Trung sĩ Hùng Em đã chết. Anh đã lãnh
nguyên một quả đạn 61ly, rớt ngay sát bên cạnh, ruột đổ ra ngoài
và thân thể nhuộm đầy máu. Điều kỳ lạ, là anh lính ô–đô của tôi
nằm ngay một bên mà không hề hấn gì, chỉ có áo quần dính đầy máu
và thịt của người đồng đội xấu số.
***
Cuối cùng, miền Nam cũng mất. Tôi và cả
cha tôi đều bị tù đày khốn khổ. Cha tôi, tuổi già sức yếu, không
đủ sức để chịu đựng bao đòn thù tra tấn, hành hạ, nên đã chết
trong trại tù Đá Bàn vào tháng 6 năm 1976, còn tôi bị đày ải qua
nhiều trại tù, từ Nam ra Bắc. Sau gần tám năm tôi được thả về để
chứng kiến một quê hương nghèo khổ điêu tàn, vợ con nheo nhóc.
Tôi quyết định vượt biên, dù có phải chấp nhận bao hệ lụy khôn
lường. Tôi rủ vài người bạn tù cùng tổ chức vượt biển, trong số
này có một anh bạn nguyên là sĩ quan Hải quân có nhiều kinh
nghiệm hải hành. Nơi bọn tôi hẹn gặp gỡ là một cái quán nhỏ của
gia đình người bạn tù khác nằm gần khu Hòn Chồng. Một hôm, sau
khi bàn công việc và ăn uống xong, tôi bỗng nghĩ tới anh Trung sĩ
Hùng Em, khi nhớ ngôi mộ của anh cũng nằm gần nơi này. Tôi nhờ
anh bạn chở tôi đến đó. Vì nghĩa trang nhỏ, nên tôi dễ dàng tìm
ra ngôi mộ của anh Hùng Em. Điều làm tôi sửng sờ là ngôi mộ nằm
bên cạnh có tấm bia ghi đậm tên người quá cố: Sœur Anna Phan Thụy
Khanh, được Chúa gọi về ngày 15/3/1975. Tôi không biết vì sao cô
chết, chỉ còn nhớ thời gian này đã từng xảy ra cuộc di tản kinh
hoàng trên Tỉnh Lộ 7B.
Rõ ràng đây là một truyện dài, hết cả
một đời người. Thụy Khanh lớn lên từ cô nhi viện. Khi trưởng
thành, đính hôn với một người vốn ở cùng một cô nhi viện. Chàng
tử trận. Nàng trở thành một bà soeur, nuôi nấng những trẻ mồ côi
thuộc hệ sau, cũng là nạn nhân của Cộng sản, trong một cô nhi
viện khác ở Pleiku. Và qua đời!”
II. Phạm Tín An Ninh kể chuyện, thường
nhắc tới những hình ảnh của quê ông, hay những nơi đã đi qua.
Trong nửa đầu của thế kỷ 20, trẻ con đi
học đều thường thích lời của nhà văn Thanh Tịnh:
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài
đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng
tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi
quên thế nào được...
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương
thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường
làng dài và hẹp...”
Phạm Tín An Ninh cũng có cái xúc cảm
man mác như của Thanh Tịnh.
Ông viết:
Không biết ngày ấy ông Thanh Tịnh ở tận
nơi đâu, mà sao cái cảnh ngày đầu tiên ông đi học giống tôi như
đúc. Tôi cũng được mẹ nắm tay dẫn đi trên con đường làng Phú Hội,
cũng vào một buổi sáng có (một chút) sương thu và gió lạnh.
Một năm sau mẹ tôi qua đời, bỏ lại tôi
một mình đi trên con đường dài và hẹp đó với bóng dáng yêu dấu
của bà.
Văn tả
cảnh của Phạm Tín An Ninh, nhẹ nhàng khéo léo. Ông nhắc tới những
vật hay những thứ thường gặp, hoặc thường dùng hàng ngày. Thế
nhưng, khi xem tới, người đọc bỗng cảm thấy nao nao, vì những
hình ảnh ấy, cũng thấp thoáng đâu đó trong tuổi thơ của chính
mình. Một quả bưởi rụng. Cái nón lá. Con dế mèn. Tiếng hát ve
sầu. Cảnh hai người đèo nhau trên xe đạp...
Ta hãy xem vài đoạn trích tiêu biểu:
... Tuổi thơ ở nhà quê khá nhọc nhằn,
nhưng lại có biết bao kỷ niệm êm đềm của những ngày câu cá, tắm
sông, những trận bóng sôi nổi trước nhiều khán giả là đám con gái
cùng trường, mà trái banh chỉ là những trái bưởi rụng nhặt được
phía sau hè. (Ba Dòng Nước Mắt)
... Dù sao, tôi cũng xin cám ơn Cái Nón
Lá, đã cho thế hệ chúng tôi thật nhiều kỷ niệm, để mỗi lần hồi
tưởng về một quá khứ xa xăm, lại thấy trong lòng lâng lâng nỗi
nhớ. Không chỉ nhớ Cái Nón Lá có quai hồng, quai tím... hay mấy
mối tình học trò vụng dại, mà nhớ một thời mà cả... đất trời và
ai nấy cũng dễ thương.
(Chuyện Cái Nón Lá)
... Tiếng gáy của Dế và tiếng hát của
Ve Sầu nó gắn liền với suốt một thời cắp sách tới trường, mà dư
âm của nó vẫn theo đuổi mọi người cho tới giờ xuôi tay nhắm mắt.
Lớn lên một chút, chắc các bạn cũng đã
từng nghe hay thuộclòng bài hát “Thằng Cuội” của Lê Thương: “Có
con dế mèn suốt trong đêm khuya hát xẩm không tiền nên nghèo xác
xơ...”.
Dế đã
có mặt khắp nơi, tham dự vào những tuổi thơ diễm phúc cũng như
tủi cực. Hơn thế nữa, Dế còn có mặt trong văn chương, không những
nói về tuổi thơ, mà còn biểu tượng cho quê hương, cho bè bạn và
cho cả những niềm đau, nỗi nhớ.
(Con Dế)
Ông đã đi qua Đà Lạt.
Tôi đến Đà Lạt đúng vào một ngày mưa.
Mưa tầm tã. Ngồi trong nhà Thủy Tạ, nhìn những hạt mưa bay giăng
kín rừng thông, phủ mờ khu phố Hoà Bình, và rơi lả tả xuống mặt
Hồ Xuân Hương, tôi mơ hồ như những giọt nước mắt của người góa
phụ đã từng một thời nhan sắc.
(Đà Lạt Trời Mưa)
Ông vẫn thương nhớ Pleiku:
Thật lòng, tôi không có nhiều gắn bó
với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi nhiều
nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa – thực sự vĩnh viễn xa
– Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác
mình có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời
xin lỗi.
Tôi
chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách
ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông
nhà thơ đã ví von “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với tôi
dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là
chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái
tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng
mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.
Phạm Tín An Ninh học trường Trung học
Võ Tánh Nha Trang.
Hình dung đến thành phố Nha trang xưa,
nơi mà nếu không có biển sẽ không còn lãng mạn để người ta nhắc
nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ đi ít nhiều tiếc nuối của những
người Nha trang xa xứ. Bờ biển cát từng chôn giấu những hang động
tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của bao cuộc tình thơ mộng, nước biển
đã cuốn trôi đi, nhưng không thể xóa mất trong ký ức của nhiều
cặp tình nhân mà bây giờ tóc ai cũng bạc. Âm thanh những ngọn
sóng rì rào đã dệt nên những bài thơ, những bản tình ca từng làm
khuấy động bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn còn vang
vọng mãi.
(Chim Bay Về Biển)
... Ngày xưa, khi còn là cậu bé học
trò, tôi từng nghĩ trên thế gian này có lẽ không nơi nào thơ
mộng, hiền hòa và dễ thương bằng Nha Trang của tôi. Với tôi, nơi
ấy còn là xứ thần tiên nữa. Bởi khi buồn, chỉ cần đạp xe dọc theo
con đường Duy Tân lộng gió, nhìn biển trời mênh mông, nghe tiếng
sóng rì rào, là cảm thấy lòng mình như vừa được vuốt ve, âu yếm.
Ngôi trường Võ Tánh trên đường Bá Đa Lộc cũng nằm gần biển, nên
cả một thời đi học, nhờ mỗi ngày được vỗ về bằng âm thanh rạt rào
của biển và tình mến yêu của thầy, của bạn, mà tôi đã quên đi nỗi
buồn tuổi thơ bất hạnh, ngước mặt hăm hở nhìn bầu trời xanh bao
la với bao khát khao, ước vọng.
(Nha Trang – Chuyện Cũ)
... Đầu tháng 4/1975 Nha Trang đổi chủ
sau cơn hồng thủy. Gia đình tan tác. Cha tôi và tôi vào tù. Chỉ
một năm sau cha tôi chết, còn tôi thì bị lưu đày hơn tám năm từ
nam ra bắc. Ngày trở về, Nha Trang nghèo nàn xơ xác và buồn thảm
như còn phủ màu tang.
(Nha Trang – Chuyện Cũ)
... Nha Trang cũng chỉ còn trong tôi
như cổ tích, một nơi chốn thần tiên cho tôi cùng đám bạn bè thơ
dại, những thằng học trò của một thời quá đỗi dễ thương mà giờ
đây phần đông đã chết trong chiến tranh, tù ngục, vài thằng sống
sót thì cũng tản mác khắp muôn phương.
(Nha Trang – Chuyện Cũ)
... Anh bạn dẫn tôi về thăm quê. Từ Nha
Trang chúng tôi đi xe đò Khánh Hoà. Một trong những chiếc xe
Renault sơn mầu nửa xanh nửa trắng, quen thuộc một thời với đám
học trò từ Vạn Giã, Ninh Hoà vào Nha Trang đi học. Qua khỏi đèo
Rọ Tượng một lúc, xuống xe, anh bạn đèo tôi trên xe đạp về làng.
Đi dọc theo con đường đất, hai bên bát ngát những ruộng đồng, hun
hút phía xa xa, nằm ẩn hiện sau ngôi đình với bao tàn cây cổ thụ,
là làng Tam Ích. Cái làng quê đẹp như bức tranh vẽ và thần tiên
như trong cổ tích. Ngay cả cái tên của bạn tôi cũng mộc mạc dễ
thương như cánh đồng tôi vừa mới đi qua.
Làng Tam Ích hiền hoà, êm đềm với tiếng
gió đồng nội hoà cùng tiếng sóng rì rào tạo thành khúc nhạc huyền
dịu của đất trời, và hun đúc cái hiền lành thánh thiện trong tâm
hồn người bạn thời niên thiếu của tôi... Vậy mà chiến tranh cũng
đã một thời cướp đi cái yên bình đầm ấm của ngôi làng. (Người bạn
làng Tam Ích)
Đọc đến đây, hẳn ai cũng nhớ đến bản nhạc Làng Tôi của Chung Quân
với câu mở đầu “Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh... rồi
chuyển tới khúc Nhưng than ôi, có một chiều thu, lá thu rơi...”
Những tan tác, thê lương mà cái gọi là
Cách mạng mùa thu của đám Hồ Chí Minh gây ra, không chỉ giới hạn
tại làng của Chung Quân, hay tại làng Tam Ích, mà trùm lên khắp
mọi nơi.
Những
câu chuyện của Phạm Tín An Ninh kể lại cho ta thấy rõ những cảnh
tang thương này.
Sau khi vượt biển thoát và sống ở Na Uy
được mười năm, Ông về tìm ngôi mộ thân phụ bị chết trong trại cải
tạo Đá Bàn, chôn trong núi, và thăm bà Cô suốt cả một đời bảo bọc
ông.
Quê nội
tôi, cái làng Phú Hội một thời trù phú như cái tên gọi, bây giờ
sao mà cằn cỗi, điêu tàn. Khi bước vào cổng nhà nội, tôi xa lạ
đến thẫn thờ. Ngôi nhà ngày xưa rộng lớn, hồi còn nhỏ tôi đi còn
sợ lạc, sao bây giờ nhỏ nhoi, tiêu điều và hiu quạnh quá. Tôi
đứng giữa cái sân gạch mà ngày nào trời lụt, anh em tôi tha hồ
bơi lội như trong một dòng sông, bây giờ chỉ còn lại cái nền
loang lổ, phủ đầy những lá của cây xoài già héo úa, một thời xum
xuê làm “bóng mát thiên đường” để Cô cháu tôi ngồi đọc truyện cho
bà nội tôi nghe trong những buổi trưa hè. Cái hồ sen tỏa hương
thơm ngát ngày xưa, bây giờ là một cái ao cạn đầy cỏ dại. Chỉ còn
lại tiếng dế than rên rỉ. Không nghe con chó sủa. Nó là con vật
trung thành, không giống như một số người sau tháng tư năm nào,
phản suy phù thịnh. Có lẽ nó cũng buồn mà chết rồi sau cuộc đổi
đời của chủ. (Những Điều Mơ Ước)
Bà Huyện Thanh Quan, sau chỉ vài năm,
tại cố đô, mục kích “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài
bóng tịch dương”, mà thở dài ngao ngán. Một cảnh buồn rầu đứt
ruột.
Phạm Tín
An Ninh sau hàng chục năm, về nhà cũ, nhìn thấy sân gạch nền
loang lổ tiêu điều, ao cạn đầy cỏ dại hiu quạnh, ắt nát tim tuyệt
vọng. Một mối thê lương nghẹn thở.
III. Tại Miền Nam, Người dân của nước
Việt Nam Cộng Hòa vốn được sống trong thanh bình an lạc. Ai ai
cũng yêu quý nơi mình sống, dù đó là ở đồng bằng hay cao nguyên,
trên núi cao hay ngay giữa Sài Gòn, Chợ Lớn. Vì thế, khi Việt
cộng tấn công, muốn xâm lăng miền Nam, các thanh niên đã rất hăng
hái nhập ngũ để tru diệt kẻ thù. Kể cả những thanh niên người
Thượng hay người Việt gốc Hoa.
1. Một hình ảnh tiêu biểu của người
Thượng.
Y–Broc
Niê, là một thanh niên Thượng. Giỏi tiếng Pháp. Hay làm thơ bằng
tiếng Việt. Anh gia nhập Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, giữ chức
trung sĩ, Tiểu Đội Trưởng tác chiến, trong trung đội do Phạm Tín
An Ninh chỉ huy. Rất can trường khi đánh giặc, lập nhiều chiến
công. Sau được cử đi học khóa Sĩ Quan Thủ Đức. Ra trường, được
chuyển sang Không Quân, về một Phi Đoàn trực thăng.
Khi nước mất, Y–Broc bị tù. Sau khi
được thả, vượt biển thoát, rồi được định cư ở Na Uy, trước Phạm
Tín An Ninh 5 tháng. Hai người vẫn thường liên lạc với nhau.
Ba năm sau, Y–Broc lấy vợ là một cô
giáo Na–Uy. Một năm sau đó, cô giáo sinh được một đứa con gái.
Khi sắp đến lễ sinh nhật 3 tuổi của bé gái này, Phạm Tín An Ninh
điện thoại đến nhà Y–Broc để xin phép đến thăm. Lần nào cũng
không được gặp, chỉ có người vợ trả lời.
... Lần cuối cùng cô sụt sùi cho biết
là Y–Broc đã biến mất. Người em của anh cho biết là anh đã cùng
vài người bạn cùng buôn bản lúc xưa, định cư ở North Carolina bên
Mỹ, tìm đường trở về biên giới Việt Nam, tổ chức cho những người
Thượng nổi dậy chống chính quyền Cộng sản và cứu một số bạn bè
chiến hữu người Thượng bị truy bắt, phải vượt qua biên giới còn
đang ẩn trốn ở đâu đó. Cho mãi đến bây giờ vẫn không ai biêt tin
tức của Y–Broc. Chắc chắn là anh đã chết.
(Nhà Thơ Đi Lính)
2. Một trường hợp điển hình về người
Việt gốc Hoa
Ngồi cạnh Phạm Tín An Ninh trong cùng một lớp ở trung học là Lâm
Ni, bố là người Hoa, mẹ người Việt. Gia đình giầu có. Bố là chủ
một công ty xuất nhập cảng. Cậu ruột Lâm Ni là Chỉ Huy Phó Quân
Trường Đồng Đế. Sau khi đỗ Tú Tài I, lên đệ nhất, Phạm Tín An
Ninh không thấy Lâm Ni đâu.
... Tôi nghĩ chắc chàng ta rớt Tú Tài
1, nên sang trường khác học lại.
Tôi thoáng một chút bùi ngùi, khi nghĩ
là chẳng bao giờ còn gặp lại anh ta.
Ba năm sau tôi vào quân trường Thủ Đức.
Ra trường được chuyển ra một đơn vị tác chiến lưu động ở Ban Mê
Thuột, (mà lính tụi tôi thường gọi là xứ Buồn Muôn Thuở, hay là
Bụi Mù Trời) làm Trung Đội Trưởng.
Trong một cuộc hành quân phối hợp, tiếp
viện cho một chi đoàn thiết quân vận bị phục kích tại Quảng
Nhiêu, sau khi giải tỏa tình hình, tiểu đoàn tôi rút về, trung
đội tôi được lệnh ở lại tăng phái cho một đại đội Biệt Động Quân.
Thấy tôi có vẻ lo âu khi trung đội phải ở lại một mình giữa chiến
trường khói lửa chưa tan, ông Tiểu Đoàn Trưởng bảo:
– Chú mày yên chí, Đại đội Biệt Động
Quân này khá lắm, thằng Đại Đội Trưởng này đánh đấm có tiếng
trong binh chủng mũ nâu đó.
Khi dắt trung đội hơn hai chục thằng
lính, nửa kinh nửa thượng, đến trình diện đại đội Biệt Động quân,
tôi sửng sốt khi nhận ra ông Đại Đội Trưởng chính là Lâm Ni. Tôi
đứng nghiêm đưa tay chào:
– Tôi đem trung đội tới trình diện
Trung úy.
Lâm
Ni nhận ra tôi ngay. Anh ta hét lên:
– Có phải mày là thằng Ninh không? Đ.m.
Trung úy cái con khỉ, tao là Lâm Ni đây, mày không nhận ra sao?
Rồi anh ta ôm tôi quay mấy vòng.
Giải tỏa tình hình xong, trung đội của
tôi tiếp tục được đặt dưới quyền của Lâm Ni, nhận lệnh ở lại tìm
kiếm một số chiến binh thất lạc và giữ an ninh cho quân cụ lên
kéo mấy chiếc M–113 bị bắn cháy và hư hại về Ban Mê Thuột. Tối hôm
ấy Lâm Ni giữ trung đội tôi đóng quân chung với ban chỉ huy đại
đội của anh. Một điều chưa từng xảy ra cho một đơn vị tăng phái.
Hai đứa uống hết bi đông rượu đế, nhắc lại bao nhiêu kỷ niệm vui
buồn thời còn đi học. Anh nhớ từng tên thầy cô giáo và bạn bè lúc
trước. Anh ân hận đã phá phách nghịch ngợm làm buồn lòng thầy,
bạn. Anh bảo tôi, ngay sau khi rời Võ Tánh là anh đi lính ngay.
Anh thích đời quân ngũ và hy vọng nó sẽ làm thay đổi cuộc sống
của một thằng nhà giàu vô tích sự như anh. Khi biết anh chọn BĐQ,
cha mẹ anh giận và buồn lắm, nhờ ông cậu, bấy giờ làm lớn trong
Bộ Tổng Tham Mưu, rút anh về, nhưng anh nhất quyết chối từ.
Hai hôm sau chúng tôi có lệnh di chuyển
vị trí, và phải bung rộng ra phòng thủ. Lâm Ni cho trung đội tôi
xuống đóng trong một cái đồn bên chân cây cầu sắt (của một đơn vị
địa phương quân bỏ lại) để giữ cây cầu khỏi bị phá hoại trước khi
quân cụ lên kéo hết mấy chiếc thiết giáp bị hư. Cây cầu cách ngọn
đồi, nơi đặt ban chỉ huy của Lâm Ni khoảng hai cây số.
Gần hai giờ
sáng, trung đội tôi bất ngờ bị tấn công. Địch áp dụng chiến thuật
cổ điển tiền pháo hậu xung. Sau mấy loạt 82ly, chúng ào ạt tấn
công. Trung đội tôi có vài người bị thương sau đợt pháo kích đầu
tiên, nhưng tất cả đều chống trả mãnh liệt. Tôi chỉ kịp cầm ống
liên hợp máy PRC–25 báo cáo với Lâm Ni là đơn vị tôi bị tấn công
mạnh, cần ngay pháo binh và một lực lượng tiếp ứng, đánh từ phía
sau lưng địch. Lâm Ni bảo tôi cứ bình tĩnh yên tâm chiến đấu, anh
ta sẽ gọi pháo binh và gởi ngay một bộ phận tiếp ứng. Không ngờ
lực lượng địch khá đông. Chúng tôi bắn ngã tên này thì tên khác
lại xông lên. Chúng đã dùng bê–ta phá mấy lớp rào bên ngoài rồi
hô xung phong. Pháo binh ta cũng bắt đầu rót xuống bên ngoài.
Lúc này tôi chiến đấu hoàn toàn như một
khinh binh. Quả lựu đạn cuối cùng tôi vừa mới ném ra, cũng là lúc
một vài tên địch đã xâm nhập vào phía bên trong hàng rào phòng
thủ. Khi đạn đã cạn, chúng tôi chuẩn bị đánh cận chiến, thì nghe
được tiếng súng bạn khắp nơi bên ngoài và tiếng hò hét: Biệt Động
sát! Địch vội vàng tháo chạy, hai tên đặc công vào bên trong bị
chúng tôi bắt sống. Tạm thời kiểm tra đơn vị: 3 chết, 7 bị
thương. Chưa kịp gọi máy báo cáo, thì toán biệt động quân đầu
tiên vào bên trong, võng theo một thương binh. Nghe một sĩ quan
BĐQ gọi máy xin trực thăng tản thương khẩn cấp vì “Đại Bàng bị
thương nặng”, tôi giật mình chạy đến chiếc võng: Lâm Ni mặt đầy
máu và thở rất nhẹ. Tôi lay anh ta:
– Lâm Ni ơi, có làm sao không? Ninh
đây.
Dưới ánh
đèn pin yếu ớt, gương mặt anh ta xanh xao, mở hé mắt nhìn tôi.
Đôi môi rung động như muốn nói với tôi điều gì. Tôi đưa tay sờ
lên môi anh, như là tôi đã hiểu những gì anh muốn nói.
Vị Thiếu úy Biệt Đông Quân vỗ vai tôi:
– Đúng ra đâu có phải nhiệm vụ của
Trung úy, tôi bảo ông nên ở lại, vì chúng tôi chỉ đi có một trung
đội và toán thám báo, nhưng ông đã lệnh cho ông Đại Đội Phó ở lại
và ông trực tiếp dẫn đầu toán thám báo chạy bay tới đây, xông
ngay vào sau lưng địch mà đánh. Tội nghiệp chỉ có ông bị thương.
Trực thăng tản thương tới, tôi bế Lâm
Ni lên, nắm chặt tay anh trước khi máy bay cất cánh. Tôi bùi ngùi
lo lắng khi biết là anh đã vì tôi mà bị thương, cầu nguyện cho
anh qua khỏi hiểm nghèo.
Lần ấy anh còn sống, nhưng phải nằm
điều trị ở Quân Y Viện hết 4 tháng, còn để lại mấy vết sẹo trên
cổ, và vì bị thương ở thanh quản, nên giọng nói của anh bị khàn
đi. Sau đó đơn vị của anh có lệnh chuyển lên Pleime, Pleiku. Tôi
có liên lạc thăm anh vài lần trên hệ thống vô tuyến.
Bẵng đi một thời gian, đầu mùa hè 1972,
đơn vị tôi đang hành quân ở An Khê, thì có lệnh di chuyển về phi
trường Pleiku để được không vận toàn bộ lên Kontum. Chiến trường
đang tới hồi quyết liệt. Trong một lần chuyển quân hoán đổi vị
trí phía bắc Kontum tôi bất ngờ gặp lại Lâm Ni. Lúc này anh đã
mang lon Thiếu tá và nắm một tiểu đoàn BĐQ. Hai thằng chỉ kịp ôm
nhau chửi thề vài câu. Chưa kịp nói lời chia tay, thì mỗi thằng
đã mỗi ngả.
Đầu năm 1973, khi hiệp định Paris vừa ký xong, địch quân chưa trở
cờ. Hai bên tạm thời hưu chiến kiểu da beo. Các đơn vị tham chiến
được chuyển về các vị trí dưỡng quân. Tiểu Đoàn của Lâm Ni được
về Hàm Rồng. Đơn vị tôi thì về Đồi Đức Mẹ, Pleiku.
Đêm tiểu đoàn Lâm Ni làm lễ tái xuất
quân tại Hàm Rồng được tổ chức rất hùng tráng. Lâm Ni có mời tôi
đến dự. Buổi tiệc ra quân kết thúc bằng một chương trình văn nghệ
khá đặc sắc, do Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương từ Sài Gòn ra, phối
hợp với các toán văn nghệ tâm lý chiến Quân Đoàn II đảm trách.
Tôi ngồi hàng ghế đầu với Lâm Ni. Khi có một nữ ca sĩ từ Pleiku
lên hát bài Chiều Trên Phá Tam Giang, Lâm Ni rất cảm động. Cô tên
Giáng Tiên, có khuôn mặt khá xinh, phảng phất buồn, và giọng hát
trầm ấm thiết tha. Bài hát vừa chấm dứt, Lâm Ni bước lên nắm tay
cô cám ơn và bất ngờ cởi tặng cô chiếc đồng hồ Longine mới toanh
mà anh vừa mới mua từ Sài Gòn, khi được bảy ngày phép về thăm cha
mẹ anh.
Đêm đó
tôi ở lại với Lâm Ni. Anh kể là cha mẹ anh cứ năn nỉ anh đổi về
Sài Gòn. Ông bà sẽ lo cho anh về Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát hoặc bất cứ
nơi nào ở Sài Gòn, anh muốn. Ông bà cũng đưa anh đến thăm gia
đình một người Tàu, có cô con gái làm chủ một nhà hàng, mà ông bà
định hỏi cưới cho Anh. Ông bà nôn nóng có đứa cháu đích tôn nối
dõi. Nhưng anh chỉ im lặng. Rồi khi bị hỏi quá, anh hứa cho Anh
ba năm nữa. Anh bảo tôi, đời lính sống nay chết mai, vợ con làm
gì cho vướng chân vướng cẳng.
Mùa hè năm 1973, vết thương cũ tái
phát, tôi phải nằm điều trị hơn một tháng ở Quân Y Viện Pleiku.
Lâm Ni có ghé lại thăm tôi một lần vội vã, khi có dịp về Pleiku
họp hành quân. Khi chia tay, anh rút từ túi quần sau ra một xấp
tiền đưa cho tôi:
– Tiền ba tháng lương của tao, mày cầm
lấy mà gởi cho vợ con mày. Mày đông con. Tao độc thân, suốt cả
năm sống ở trong rừng, lỡ có chết, tiền không ai xài uổng lắm.
– Tôi từ chối, nhưng Anh nhét xấp tiền
vào dưới chiếc gối tôi nằm.
Sau đó tôi được theo học một khóa tham
mưu tại Long Bình. Mãn khóa, được điều về Phòng hành Quân QĐ II.
Lâm Ni thì vẫn nay đây mai đó, nhưng chúng tôi vẫn thường liên
lạc hỏi thăm tin tức nhau trên hệ thống vô tuyến. Một lần khi bay
bao vùng, biết anh vừa lên trung tá, tôi đáp xuống thăm, và mang
mừng anh ta chai Hennessy, loại rượu anh thích nhất. Anh bảo, Bộ
Chỉ Huy Biệt Động Quân dự định đưa anh ra nắm một Liên Đoàn ngoài
vùng 1 thay cho anh Liên Đoàn Trưởng vừa tử trận, nhưng tình hình
ở đây đang nguy ngập, nên anh chưa rời đơn vị được.
Tháng 3/1975, ngay sau khi Ban Mê Thuột
mất, tôi may mắn đuợc theo Bộ Tư Lệnh Tiền Phương. Nói là Tiền
Phương nhưng lại đóng ở Nha Trang và một đôi khi ở Khánh Dương.
Có lệnh bỏ Kontum và Pleiku. Tiểu Đoàn
Biệt Động Quân của Lâm Ni là một trong những đơn vị được chỉ định
đi đầu, mở đường cho đoàn quân di tản từ Pleiku xuống Tuy Hòa
theo tỉnh Lộ 7. Một kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch
sử chiến tranh Việt Nam, kéo theo sự sụp đổ cả miền Nam.
Tôi được chỉ định làm trưởng toán, dùng
một hợp đoàn trực thăng bay đi liên lạc và hướng dẫn những toán
quân thất lạc trong rừng. Ngày N+3, trong lúc chiến trường ác
liệt và tồi tệ nhất, tôi may mắn liên lạc được Lâm Ni trên tần số
không lục. Tôi tìm mấy bãi đáp tương đối an toàn, giục Lâm Ni đến
đó để tôi bốc. Nhưng anh ta từ chối, bảo là mặc dù tiểu đoàn của
anh bị tan tác, quân số chỉ còn gần một trung đội, nhưng anh
không thể bỏ anh em vào lúc này.
Không ngờ đó cũng là lần cuối cùng tôi
nghe giọng nói của Lâm Ni. Năm 1977, trong một trại cải tù ở Sơn
La, tôi gặp lại một sĩ quan của Lâm Ni lúc trước. Anh ta là sĩ
quan duy nhất trong đơn vị còn sống sót. Anh cho biết là khi bị
địch vây và kêu buông súng đầu hàng, Lâm Ni đã bắn tới viên đạn
cuối cùng. Anh tự sát bằng một quả lựu đạn loại tấn công, và đã
chết chung với một đám địch quân định vây bắt anh. (Chuyện Một
Người Bạn Học)
Câu chuyện thật cảm động. Liều mình cứu
bạn. Anh hùng vô cùng. Giữ tròn Trách nhiệm. Bảo toàn Danh dự. Hy
sinh cho Tổ quốc.
Trên đây là một trường hợp điển hình về
cách đối xử giữa các quân nhân thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Có người sẽ hỏi: Quân Lực này đối với
dân như thế nào.
Xin thưa: rất thân thiện, và chăm sóc
họ.
Có lần
Phạm Tín An Ninh dẫn đại đội vào một làng tiếp giáp với mật khu
Lê Hồng Phong của Việt cộng. Ban Chỉ Huy Đại đội đóng quân trong
một khu vườn của một ngôi nhà ngói cổ. Trong nhà có cậu bé 7, 8
tuổi, sống với mẹ và bà nội... Lính đối xử tốt, thằng bé rất
thích mấy anh lính.
Mấy hôm sau, ông cho một trung đội đi
phục kích.
...
Đúng như dự đoán, khi trời sắp tối, nghe tiếng mìn claymore và
nhiều tiếng súng nổ trong làng, tôi được anh Trung Đội Trưởng báo
cáo đã giết sạch đám du kich, từ bên kia rừng lội suối trở về
làng...
...
Sáng hôm sau, một số cán bộ chính quyền đến nơi để xác nhận và
giải quyết các tử thi. Anh cảnh sát cho tôi biết, trong số người
chết, có tên trưởng mũi công tác là con trai của bà chủ nhà tôi
đóng quân hôm trước.
Hơn 7 năm sau, chiến tranh gia tăng
khốc liệt. Phạm Tín An Ninh bấy giờ ở trong Bộ Chỉ Huy của Chiến
Đoàn đã giữ vững được Kontum trong mùa hè đỏ lửa 1972. Trong Đại
đội Trinh sát của Chiến Đoàn có một anh lính rất trẻ đã lập nhiều
chiến công.
... Thành tích xuất sắc nhất là khi anh tình nguyện một mình ôm
lựu đạn bò vào tiêu diệt cái chốt của địch gồm nhiều ổ súng phòng
không, nằm trong một hốc đá kiên cố trên đỉnh núi Chu Pao. Chính
cái chốt quỷ quái này đã gây cho các đơn vị ta nhiều thiệt hại và
đe dọa không nhỏ đối với các phi cơ đổ quân và chiến đấu hoạt
động trong vùng...
... Anh đã gục ngã ngay trên nắp hầm
địch cùng lúc tiêu diệt toàn bộ tổ đại liên của địch. Vì không có
phương tiện đưa thi hài anh về nguyên quán, hơn nữa anh chết
không toàn thây, không muốn cho thân nhân quá đau đớn khi nhìn
thấy, nên đơn vị đã làm lễ truy thăng và chôn cất anh tại nghĩa
địa Kontum...
... Tôi hỏi kỹ vị trí ngôi mộ và dặn lòng sẽ đến thăm nơi an nghỉ
của người lính trẻ can trường đáng mến này...
... Khi về lại đơn vị, tôi xin ban tài
chánh ứng trước nửa tháng lương. Trích ra một phần, bỏ vào bì
thơ, tôi tìm đến Đại đội Trinh sát gặp và biếu cho bà mẹ của
người lính trẻ vừa mới lẫm liệt hy sinh...
... Bà thoáng một chút xúc động ngạc
nhiên nhìn tôi nói lời cám ơn. Tôi nghĩ là bà không nhận ra tôi,
người đã chỉ huy cuộc hành quân năm xưa, và từng đóng quân ngay
trong vườn của nhà bà. (Chuyện Người Lính Trinh Sát)
Một câu hỏi được nêu lên: Bố là Việt
cộng, bị phục kích chết. Tại sao đứa con trai lại làm khai sanh
tăng thêm 3 tuổi, để được nhập ngũ. Hơn nữa lại xin vào Đại đội
Trinh sát, và luôn luôn xông pha vào chỗ nguy hiểm nhất để tru
diệt Việt cộng?
Xin thưa: Chỉ có một câu trả lời, là
chắc chắn lúc 8 tuổi cậu đã hàng ngày phải mục kích những tội ác
dã man mà Việt cộng, (trong đó có bố của cậu ta), đã gây ra cho
dân chúng tại làng hay quanh vùng cậu ở.
Và những ngày có Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa tới, sự thanh bình của đời sống mọi người ra sao. Cậu đã thấy
rõ thiện với ác, sự khác nhau giữa chính với tà, và quyết định
hành động như vậy. Theo lương tâm của mình.
IV. Tạo hoá sinh ra muôn loài, ấn định
cho mỗi sinh vật một khoảng thời gian sống. Loài rùa có thể sống
1000 năm. Chó 25 năm. Loài người được 100 năm.
Miền Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa,
là một nơi rất đáng sống. Bởi thế cho nên những quân nhân luôn
luôn tìm cách bảo vệ, duy trì vùng đất gồm những người cư xử với
nhau với phong thái đạo đức của 4000 năm Văn Hiến, và với bản
chất hồn nhiên, chân thật, dễ tính, thương và giúp đỡ người của
người dân quân Miền Nam.
Cho nên mỗi quân nhân tùy theo hoàn
cảnh của chiến trường, đã gom cả trăm năm mà tạo hóa dành cho,
đem ra sử dụng để giữ gìn tự do cho quê hương này. Họ có thể dùng
hết trong một hay vài trận đánh (như trường hợp người lính trinh
sát kể trên). Cũng có khi dùng một lần đã cạn, lại gắng thêm dùng
cho đến hết luôn (như câu chuyện Thiếu úy Quang dưới đây).
... Thiếu úy Quang bị địch bắt tại trận
Ngô Trang, phía Bắc Kontum, nhưng vì anh bị thương khá nặng, nên
địch quân bỏ anh lại trên đường áp giải tù binh ra Quảng Bình, họ
nghĩ là anh sẽ chết, nhưng anh đã may mắn được trực thăng bên ta
phát hiện cứu sống. Sau khi được điều trị lành vết thương, anh
xin trở lại đơn vị cũ tiếp tục chiến đấu.
... Thiếu úy Quang ra đi, để lại cho
người vợ trẻ bốn đứa con thơ. Cháu lớn nhất chín tuổi và đứa út
chưa tròn một tuổi.
... Bà Nguyễn Xuân Quang không còn cách
nào khác, rời bỏ ngôi nhà nhỏ bên khu trại gia binh Sông Mao, dắt
bốn đứa con thơ về tá túc nhà cha mẹ ở Phan Thiết. Khổ nỗi, bà
còn có người anh là một sĩ quan cấp tá tốt nghiệp (Khóa 16)
Trường Võ Bị Đà Lạt và hai cậu em đều là sĩ quan Thủ Đức, nên cha
mẹ bà cũng bị đuổi ra khỏi nhà. Bây giờ ông bà già phải cưu mang
cả cô con gái và bốn đứa cháu ngoại tuổi còn thơ dại. Ông bà, con
cháu cùng dắt díu nhau, bỏ thành phố Phan Thiết thân yêu, chạy về
vùng quê Chợ Lầu, dựng tạm căn nhà lá bên bờ sông Lũy, kiếm sống
qua ngày bằng khoai sắn tự trồng và cá lưới dưới dòng sông. Vậy
mà cuộc sống lang bạt ấy vẫn chưa một ngày yên ả. Những hành xử
và lời nói khắc nghiệt của những người bên thắng cuộc đã làm cho
bà Quang không còn con đường sống. Bà đã uống mấy chai thuốc rầy
để chết đau đớn trước mặt cha mẹ mình và bốn đứa con thơ. Bà xin
lỗi vì đã để lại cho cha mẹ già một gánh nặng, và xin lỗi các con
đã phải đành lòng bỏ con lại bơ vơ, bà không thể bắt các con phải
chết theo mình. Sau đó vài năm, đứa con trai lớn cũng đã uống
thuốc rầy theo mẹ. Đứa con trai thứ nhì, Nguyễn Thế Vinh, năm
1975 mới lên năm, bây giờ trở thành người phụ giúp đắc lực cho
ông ngoại trong cuộc mưu sinh đầy khốn khó. Nhưng đau đớn thay,
“họa vô đơn chí”, năm chín tuổi, khi chăn hai con bò của Hợp tác
xã, lấy mấy ký lúa phụ ông ngoại, Vinh bị té xuống đất từ trên
lưng bò. Cánh tay phải bị gãy. Do không có thuốc thang và băng bó
không đúng cách, cánh tay bị nhiễm trùng, hoại tử phải bị cắt bỏ
đến gần bả vai...
... Dù khốn khó, bữa no bữa đói, nhưng
Vinh không chịu bỏ học hành.
Bị tật nguyền, nhưng câu bé lên muời
vẫn thừa hưởng ý chí sắt đá của người cha để lại, Vinh vượt qua
tất cả khó khăn, làm đủ thứ nghề để học hành thành đạt, mặc dù
với cái lý lịch rất “đen”, Vinh không chút hy vọng gì mình có thể
ngoi lên trong một xã hội đang còn đầy dẫy những đố kỵ, hận thù.
(Những nén hương thắp muộn trên đỉnh Tiền đồn 5)
Phạm Tín An Ninh đã tìm mọi cách liên
lạc với những người còn sống, để tìm ra nơi Thiếu úy Quang hy
sinh trên Tiền Đồn 5 và nói cho Vinh biết.
... Cuối cùng thì Vinh cũng đã đến được
đỉnh Tiền Đồn 5, nơi mà xác thân Thiếu úy Quang, người cha thân
yêu của Vinh đã nằm lại đó từ 45 năm trước, giờ chắc cũng đã tan
cùng tro bụi.
... Cuộc chiến đã kết thúc – dù trong tột cùng bất công và tức
tưởi – nhưng mãi đến 45 năm sau, hơn nửa đời người, những người
con mới tìm đến được nơi cha mình đã hy sinh, xác thân vùi chôn ở
đó. Nhìn hình ảnh người con trai chỉ còn một cánh tay với những
nén nhang thắp muộn trên ngọn đồi hoang vắng, điêu tàn, từng xảy
ra bao trận chiến đẫm máu đồng đội, lòng tôi lắng xuống.
(Những
Nén Hương Thắp Muộn Trên Đỉnh Tiền đồn 5)
V. Nói về việc trước tác.
A. Trong Văn Học Sử Trung Hoa, có hai
tác giả, sau khi dự định viết sách, đã bỏ nhiều thời gian ra, để
hoàn tất.
1.
Bồ Tùng Linh (1640–1715)
Khi ông viết Liêu Trai Chí Dị, mỗi sáng
sớm ôm một vò rượu lớn, đặt ở bên đường người ta đi qua. Ai cao
hứng ngưng lại uống rươu tuỳ thích. Ông chuyện trò cùng họ để sưu
tập các truyện kể kỳ lạ, trải qua 20 năm nóng lạnh.
(Trích Bách
Khoa Thư Văn Hóa Cổ Điển Trung Quốc – Nguyễn Tôn Nhan)
2. Tư Mã Thiên, cũng đã phải bỏ ra 16 năm, lặn lội khắp nơi, thu thập những tài liệu về lịch sử, và những chi tiết về đời sống xã hội, để viết nên bộ Sử Ký.
Tượng Tư Mã
Thiên – Hán Thành
Phạm Tín An Ninh có điểm giống họ và có
điểm khác họ trong việc kể chuyện.
Hai tác giả kia, khi có quyết định phải
viết sách, đã bỏ ra nhiều thời gian cho việc này.
Phạm Tín An Ninh không có ý định viết
truyện gì cả, mặc dầu thưở nhỏ ông cũng có những xúc cảm nhẹ
nhàng, như cách nhà văn Thanh Tịnh đã mô tả.
Không có ý dùng bút mực, nhưng hoàn
cảnh đưa đẩy cũng đã khiến ông trải qua 18 năm mà sau này ngẫu
nhiên trở thành bối cảnh cho những chuyện ông kể lại: 10 năm đi
lính, 8 năm đi tù trong những trại tập trung của Việt cộng. Ông
đã đương nhiên mục kích những tàn ác của Việt cộng cũng như những
can trường giữ nước của quân lực VNCH cùng tình người trong nhũng
lúc khốn cùng đã là cơ duyên đưa ông đến ý định cầm bút.
Bồ Tùng Linh chỉ nhàn tản gom chuyện.
Bồ Tùng Linh và Phạm Tín An Ninh đều đã
viết về Dế. Và đặc biệt cho thấy sự hiền từ của hai người cha,
mặc dầu phải lo sinh kế cho gia đình, vẫn để ý đến cả những ao
ước hoặc sở thích thiêng liêng của con.
... Con Dế, còn để lại trong tôi một kỷ
niệm xót xa, mà cứ mỗi lần nhớ tới, tôi không làm sao ngăn được
dòng nước mắt. Ba tôi rất cưng tôi, một phần tôi không có mẹ.
... Một buổi trưa trời nắng gay gắt,
trên đường về nhà nội tôi, khi qua một khu nghĩa địa, nghe tiếng
mấy con Dế gáy trong mấy bụi cây bàn chải (loại cây mọc thành lùm
và có đầy gai), tôi lấy tay đập sau lưng ông và bảo ông dừng xe
lại bắt cho tôi mấy con Dế. Tội nghiệp ông cũng chiều thằng con
ngu ngốc, xuống lục lọi trong mấy bụi bàn chải gai góc cả nửa
giở, mà không thấy tăm hơi con Dế nào.
(Con Dế – Phạm Tín An Ninh)
Và phần trích dưới đây là của Bồ Tùng
Linh:
... Cát
Đệ là cậu bé tuổi 11 tuổi. Một hôm cùng cha đi bắt dế. Đi cả ngày
trời, không được con nào. Hai cha con trở về tay không nhưng cậu
bé rất vui, bởi vì hôm nay được cùng cha rong chơi mà nhất là cha
lại thành người bạn chơi tốt của cậu.
(Dế – Bồ Tùng Linh)
Cách nhau cả 400 năm, hai tác giả đã
giống nhau khi viết về sinh vật đẹp đẽ dễ thương này.
Đúng như cách người Pháp thường nói:
Les grands esprits se rencontrent. (Những tư tưởng lớn gặp nhau)
Tư mã Thiên, bị tù một cách oan uổng,
rồi bị thiến. Khi được thả, mới nẩy ý lưu lại văn tự.
Phạm Tín An Ninh, cũng khổ ải trong tay
kẻ thù. Lúc thoát được, bèn viết truyện.
Ông không cần gom gì cả. Đời ông đã
trải qua hoặc thấy được nhiều điều. Cần được kể lại để vinh danh
và trân trọng.
Hai câu chuyện nói về hoàn cảnh trớ
trêu.
... Mẹ
cô là cô giáo và cha là một sĩ quan cấp tá, bị mất tích tại Đà
Nẵng khi Vùng 1 di tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu.
Anh là con trai lớn của một người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô.
Chiếc thuyền nhỏ chở theo 47 người, ra khơi ba ngày thì gặp hai
chiếc ghe đánh cá của Thái Lan chặn lại. Cả bọn gần 20 tên mang
dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy hiếp. Anh tài công bị
giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh niên khỏe mạnh
có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục soát trên
tàu và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi rời
khỏi thuyền, chúng phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái.
Khi hai tên trong bọn kéo Kiều đi, người vị hôn phu của Kiều xông
đến định giật lại Kiều, bị chúng bắn bị thương rồi đạp xuống
biển, trước tiếng la khóc thất thanh của Kiều cùng những cô gái
khác.
Vừa mới
lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô gái bị chúng
bắt theo.
...
Cô Kiều bị hải tặc giam giữ ở một hoang đảo ngoài khơi Thái Lan
gần một năm, trước khi được một lực lượng tuần cảnh phối hợp với
hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang mang thai hơn năm tháng, sức
khoẻ rất yếu.
... Hai mươi lăm năm sau, cô tổ chức đám cưới cho con trai của
cô. Vị hôn phu của cô đã bị chính cha ruột của thằng bé giết chết
thảm thương rồi vất xác xuông biển.
(Hạnh Phúc Xót Xa)
Cảnh trớ trêu thứ hai.
... Cuộc hành quân kết thúc. Kiểm điểm
đơn vị, chỉ có một anh trung sĩ Kỳ bị thương vào giờ chót trong
lúc lục soát các hốc đá trong rừng, do trái lựu đạn nội hóa đám
địch quân hốt hoảng tung ra trước khi tháo chạy. Địch chết gần ba
mươi tên và khoảng mười tên bị bắt sống. Điều đặc biệt bất ngờ là
trong số ấy có một em bé khoảng chừng 2 – 3 tuổi, được tìm thấy
bên trong một hốc đá nằm ở bìa rừng sát biển. Bên ngoài có một số
tử thi của địch, cả nam lẫn nữ. Thằng bé bị thương nhẹ do một số
mảnh đạn M–79. Rất may là không nguy hiểm đến tính mạng. Nhiều vũ
khí bị tịch thu, trong đó có khẩu súng cối 60ly và hai khẩu
thượng liên Trung Cộng...
(44 năm sau, Phạm Tín An Ninh gặp lại
Kỳ, người trung đội phó của Ông, tại Đức Quốc. Chúng ta hãy xem
mẩu đối thoại giữa hai người:)
– Năm ấy, khi em bị thương trong trận
đổ bộ xuống một ngôi làng ven biển Phan Rang, có một thằng bé mới
3 tuổi cũng bị thương và được Duyên Đoàn tản thương về Dân Y Viện
Phan Rang với em, anh còn nhớ không?
Tôi suy nghĩ giây lát rồi trả lời:
– À, mình nhớ ra rồi. Chắc là con của
người dân nào đó, sợ quá bỏ chạy mà không kịp mang theo.
– Không, là con của một tay Việt cộng,
sau 1975 về làm một chức gì đó khá lớn trong tỉnh Ninh Thuận.
Thằng bé bị thương ngày ấy lại là con
của vợ chồng em. Con nuôi!
Chi tiết rõ thêm:
Khi được tản thương về Dân Y Viện Phan
Rang, không phải chỉ có Kỳ mà có cả thằng bé bị thương ấy nữa.
Nhận được tin báo, từ Đà Lạt bố mẹ và cả vợ Kỳ tức tốc chạy xuống
Phan Rang thăm và săn sóc cho Kỳ. Khi nghe kể lại chuyện thằng bé
bị thương cùng trận với Kỳ mà không biết cha mẹ của nó là ai, ông
bà đến thăm thằng bé. Thấy nó tội nghiệp dễ thương, ông bà xin
bệnh viện cho vợ chồng Kỳ nhận làm con nuôi. Ông bác sĩ giám đốc
bệnh viện mừng quá, vì đang lo lắng chưa biết phải giải quyết
tình trạng thằng bé này ra sao. Sau khi chữa lành vết thương,
bệnh viện làm giấy tờ giao thằng bé cho ông bà và vợ Kỳ. Khi làm
giấy khai sanh, theo đề nghị của vợ Kỳ, thằng bé được đặt tên là
Hà Văn Ngộ. Riêng Kỳ được chuyển tiếp ra QYV Nguyễn Huệ Nha Trang
để được giải phẫu lấy vài mảnh đạn trong vùng dưới bụng. Không
ngờ định mệnh đã an bài cho đứa bé ấy sau này trở thành đứa con
duy nhất của vợ chồng Kỳ. Vì do ảnh hưởng vết thương lần ấy, bác
sĩ giải phẫu cho biết là Kỳ không bao giờ có con mặc dù chuyện
chăn gối, tình dục vẫn bình thường.
Bé Ngộ lớn lên trong vòng tay yêu
thương của vợ chồng Kỳ cùng tấm lòng nhân hậu của bố mẹ Kỳ, mà nó
cứ ngỡ đó chính là bố mẹ và ông bà nội của nó...
B. Phạm Tín An Ninh nhìn thấy một số
đức tính tốt ở người phụ nữ, Ông kính phục họ.
Ông viết ra một cách rất biết ơn.
(Chuyện Cái Nón Lá; Người Con Gái Phú Hòa; Người Nữ Tu trong Cô
Nhi Viện Pleiku; Người Bán Sách Trên Bãi Biển Nha Trang...).
Tuy nhiên, có lúc ông cũng dí dỏm múa
bút:
“Thì ra
các cô gái Tuy Hòa, trông dễ thương mà thương thì không dễ lắm”
(Tuy Hòa – Thương ghét)
Xin mời xem:
1. Một trường hợp hi hữu, vừa vô phúc
vừa diễm phúc.
Một thằng bạn cùng học ba năm cuối cùng
ở trường Võ Tánh, to con, đẹp trai và học giỏi. Sau này cũng là
bạn lính. Ở tù hơn bảy năm nên bạn bè ai cũng nghĩ là nó đã đi
diện HO và đang nổi trôi nơi nào trên nước Mỹ, không ngờ còn gặp
lại nó ở Nha Trang.
Sau sáu tháng nó vào tù, cô vợ “Bắc Kỳ
nho nhỏ” mang ba đứa con (mà đứa lớn nhất mới vừa năm tuổi) giao
cho bà nội ở trên Thành, Diên Khánh, rồi sang sông... về đâu đó,
không bao giờ trở lại thăm con. Bà nội thì già, mấy đứa nhỏ bấu
víu vào ông chú, vừa tốt nghiệp kỹ sư Nông Lâm Súc, nhưng bởi có
ông anh là “ngụy đang cải tạo”, nên được chức phụ hồ cho một ông
thợ nề là bác họ. Trong lúc phụ hồ xây dựng một bệnh viện, anh
làm quen được một chị đầu bếp của bệnh viện. Không biết tài ăn
nói thế nào mà anh làm cô đầu bếp động lòng trắc ẩn, thương cảm
hoàn cảnh mấy đứa cháu dại không mẹ không cha. Cô sẵn sàng làm mẹ
nuôi. Với tất cả tiền bạc và tấm lòng, cô đã cưu mang ba đứa bé
còn hơn cả một người mẹ. Ba đứa nhỏ lớn lên cứ tưởng cô là mẹ.
Cái tình mẫu tử này sao mà hiếm hoi và bi tráng quá. Thì ra trong
cái thời nhá nhem tình nghĩa ấy vẫn còn có những tấm lòng hơn cả
chữ từ bi viết trong mấy ngôi chùa.
Bảy năm sau, thằng bạn tôi được thả về,
cúi mình trước người con gái lần đầu tiên gặp mặt để xin lạy một
lạy tạ ơn. Cô nắm tay ngăn lại. Đúng giây phút ấy, bốn mắt nhìn
nhau và cùng rơi lệ. Họ ôm nhau và yêu nhau rồi lấy nhau... Hôm
gặp chị, tôi tò mò hỏi lý do nào chị yêu và lấy thằng bạn khốn
cùng của tôi trong lúc chị còn con gái. Chị cho biết vì không thể
rời xa ba đứa nhỏ mà chị cứ tưởng là con ruột của chính mình.
Chính cái tình thương gắn bó mấy đứa nhỏ mà chị trở thành vợ của
ba nó. Còn tôi thì lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ duyên nợ của
đất trời.
Sau
này chị làm đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha Trang. Thằng
bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống trên Thành, vì với cái lý lịch
đen, không thể xin được cái hộ khẩu về thành phố. Còn chị vợ thì
tiếc cái hộ khẩu ở thành phố, mà không muốn chuyển lên Diên
Khánh. Mặc dù ban ngày làm ở Nha Trang nhưng tới tối là chị chạy
xe Honda về với chồng con.
Cũng chính vì cái “hộ khẩu” mỗi người
một nơi ấy, mà khi thằng bạn của tôi nộp đơn xin đi theo diện HO,
bị phái đoàn Mỹ từ chối, trả lại hồ sơ và sỉ vả một trận, vì nghĩ
chị vợ tốt bụng này chỉ là vợ giả, trả tiền cho nó để được bỏ
nước ra đi. Chuyện tình ngay mà lý gian ấy cũng đã làm vợ chồng
tốn kém và khốn khổ một thời. Sau mấy lần khiếu nại, cái ân sủng
cuối cùng là: chỉ có người cha và ba đứa con được ra đi vào đợt
cuối HO. Còn chị vợ sẽ vĩnh viễn không bao giờ được bước chân đến
Mỹ.
Bạn tôi
quyết định ở lại với người vợ ân tình, mà anh coi như ông trời đã
sai xuống dương trần này để gánh vác cho mấy cha con.
Bây giờ ba đứa con đã là người lớn.
Thằng bạn tôi ở nhà chăm sóc ngôi từ đường, nuôi mấy con heo và
nấu cơm cho con cho vợ. Chị ấy vẫn làm ở khách sạn dưới Nha
Trang.
Hôm đứa
con gái lớn lấy chồng, chị khuyên mãi thằng bạn tôi mới báo tin
cho bà mẹ ruột bạc tình, bây giờ đang lấy một ông chồng người
Thụy Sĩ. Bà ấy cũng vác bộ mặt đầy son phấn trở về. Nhưng đứa con
gái chỉ cho bà đến nhà hàng dự tiệc mà từ chối sự hiện diện của
bà trong hôn lễ. Con bé bảo rằng, bà chỉ là một cái máy đẻ ra
tôi, nhưng mẹ tôi chính là vợ của ba tôi bây giờ.
Tôi rót một ly rượu mừng cho cả cái vô
phúc lẫn cái diễm phúc của thằng bạn cũ, nhưng rót đến hai ly để
mời vợ nó. Một ly mừng và một ly để nói hộ giùm tôi lòng biết ơn
và ngưỡng mộ.
Tôi quay sang bảo thằng bạn:
– Dường như chính phủ Mỹ vừa cho mở lại
diện HO, mày thử nộp đơn lại xem sao.
Nó xua tay:
– Tao chẳng cần đi đâu nữa, vì ở đâu có
bà vợ tao đây là ở đó có thiên đường.
Tôi đùa:
– Mày nói còn hay hơn mấy ông linh mục
trong nhà thờ.
Tôi choàng tay ôm vợ chồng nó mà nước
mắt trào ra. Tôi nghĩ, nó vẫn còn tác phong của một thằng lính.
2. Phạm Tín An Ninh rất tín nghĩa,
trung hậu, nên thường gặp được may mắn.
Trong thời gian bị nhốt trong những
trại tập trung, có lần ông bị bệnh kiết lỵ, thừa chết thiếu sống.
Một người Việt Nam trung bình chỉ nặng từ 50–65 ký. Thiếu ăn
triền miên, lại tiêu ra máu trường kỳ, ông chỉ còn khoảng 30 ký.
Như vậy là căn bệnh hiểm nghèo này đã phá đi non nửa trọng lượng
cơ thể của ông. Một người bạn trong tù, vốn là một phi công trực
thăng, từng bị trọng thương trong trận chiến An Lộc. Anh bạn này
đã tìm cách giúp ông.
... Lân còn là một con người gan dạ,
liều lĩnh và còn chí tình với bạn bè.
Một lần trải qua một trận kiết lỵ kéo
dài, thuốc men không có, tôi chỉ còn khoảng ba mươi ký, kiệt sức
đứng không vững. Lơi dụng lúc đi lấy “phân xanh” (loại lá cây để
ủ thành phân bón), không có vệ binh canh giữ, Lân đã lén vào trại
heo của Hợp Tác Xã (cách trại khoảng vài trăm mét, mà trước đó
đám tù bọn tôi có đến vài lần làm chuồng cho họ) bắt một chú heo
con (heo sữa) mang về giấu ngoài khu vực tăng gia (nằm sát bên
hông trại), để hôm sau vùi vào hầm lửa (do tù đào và dùng các gốc
cây đốt lửa sưởi ấm) cho tôi ăn dần. Nhờ đó mà tôi sớm lấy lại
được sức.
(Cái Bóng Của Vị Thầy Tu)
Sau 8 năm, Phạm Tín An Ninh được thả.
Khi trở về, Ông vẫn còn người Vợ.
... Và tôi còn nợ nàng, nợ Ninh Hòa.
Mảnh đất hiền hòa đã cho tôi một người vợ chung tình, cùng tôi
qua bao cuộc biển dâu.
(Nợ Đời Một Nửa, Còn Một Nửa Nợ Ơn Em)
3. Nho học thường đề cập tới Văn dĩ tải
đạo, đó là chủ trương dùng văn để vận chuyển đi các triết lý, các
cách sống cùng các điều mọi người nên theo, để xã hội có được đạo
đức, tôn ti, trật tự.
Đọc sách của Phạm Tín An Ninh, ta thấy
đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trong cung cách những người đã từng
sổng ở Miền Nam, dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đối xử với nhau,
lúc đắc thế cũng như lúc thất thế.
Vì nước đã mất, mỗi người tan tác một
phương, sống ở những nước khác nhau, với những phong tục tập quán
khác đang ảnh hưởng lên, dùng Văn để tải đạo không được nữa.
Một câu hỏi được nêu lên: Như vậy Văn
trở thành vô dụng ư?
Xin thưa: Không phải thế.
Phạm Tín An Ninh đã dùng Văn, theo một
chủ trương khác, của Liễu Tông Nguyên (773–819), một Thi Nhân,
Văn Gia Kiệt Xuất đời Đường. Đó là Văn dĩ minh đạo. Minh có nghĩa
là làm sáng lên.
Và Phạm Tín An Ninh, chỉ kể chuyện
thôi, những chuyện thật, liên quan đến ông, dính dáng đến ông,
ông đã trải qua, hay nhìn thấy. Nhưng ông đã làm sáng lên được
cái Đạo gồm các sự hy sinh, tận tâm, chí khí, tròn trách nhiệm,
giữ danh dự, không vị kỷ, tận tình tận nghĩa, của những con người
sống theo cung cách và phong thái của hơn 4000 Văn Hiến đã tồn
tại cho đến ngày mất nước.
Một trong những điều thấy được thêm là
vấn đề Chính Danh, nghĩa là nói hay gọi cho đúng sự việc.
Tháng 5–1973. Thời gian này tôi đang
đảm trách một phần hành tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Trong lần đơn
vị tiếp nhận một số khá đông sĩ quan và hạ sĩ quan, tôi bất ngờ
nhận ra trong số những người đang xếp hàng trình diện ông Trung
Đoàn Trưởng có một người bạn học khá thân và một vị Giáo Sư thời
trung học ngày xưa. Thằng bạn mang cấp bậc Đại úy – tôi đã biết
từ trước, nhưng điều đặc biệt làm tôi ngạc nhiên là ông thầy chỉ
mang cấp bậc trung sĩ nhất. Thoáng có một chút ngờ vực, tôi bước
tới gần ông hơn để chắc chắn là trí nhớ của mình không tệ lắm...
... Hôm nay, ở một nơi chẳng một ai
muốn hẹn, tôi bất ngờ gặp thầy. Thầy lại mang đến cho tôi thêm
một điều khó hiểu: tại sao thầy chỉ là trung sĩ 1? Tôi khui hộp
bánh trong khẩu phần lương khô (Ration C) và làm ba ly cà phê “dã
chiến” mời thầy Huế và bạn Đỗ Bê uống mừng cuộc trùng phùng. Nghe
thầy cứ gọi thưa chúng tôi bằng cấp bậc, tôi ôm vai thầy:
– Bất cứ trong hoàn cảnh nào, hai thằng
chúng em cũng luôn là học trò của thầy. Xin thầy cứ gọi chúng em
là em như thưở nào, chỉ ngoại trừ khi phải đứng trước hàng quân.
Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng này, em rất thèm được nghe có người
gọi mình là em.
(Người Bạn Học và Ông Thầy Cũ)
Có lần, đang ở trong tù, Phạm Tín An
Ninh gặp lại cấp chỉ huy chót của mình.
Lần cuối cùng tôi gặp lại anh, khoảng
tháng 7 năm 1978 tại Nghĩa Lộ. Trong những người tù ốm o đang vác
những bó nứa, băng qua khu ruộng khô mà đám tù chúng tôi đang
“lao động”, bất ngờ tôi nhận ra anh, khi anh hỏi xin bọn tôi một
ngụm nước. Tôi ngỡ ngàng đứng nghiêm đưa tay lên chào:
– Đại Tá!
Anh nhìn lên, nhận ra tôi và nở nụ
cười:
– Mi ở
đây à? Chừ còn tá với tướng chi mi. Mi khỏe không?
Tôi đưa cho anh lon guigoz nước rồi nắm
lấy tay anh. Anh gầy hơn xưa nhiều, chỉ có nụ cười vẫn vậy, không
thay đổi. Chưa kịp hỏi anh ở trại nào và vợ con ra sao, thì tên
vệ binh hét: “không được quan hệ linh tinh, khẩn trương về trại”.
Tôi phụ đưa bó nứa lên vai anh. Bước đi, anh nói vọng lại một
câu:
– Mi nhớ
giữ gìn sức khỏe hỉ!
(Để Tưởng Niệm Một Người Anh)
Cách khiêm nhường trong hai thí dụ về
Chính Danh kể trên cho thấy sự khác nhau với một hiện tượng ở
miền Bắc. Giặc Hồ lúc nào cũng vỗ ngực đồm độp, như một con khỉ
đột (gorilla), tự xưng là bác. Nó thật ra chẳng có tư cách gì, mà
chỉ là một tên phản quốc, hại dân.
4. Phạm Tín An Ninh bản tính đôn hậu,
khiêm nhường. Nhưng khi nhắc tới đơn vị của mình, ông rất hãnh
diện.
...
Chính đơn vị tôi đã góp phần rất lớn để tạo nên một “Kontum Kiêu
Hùng”. Trong hơn mười năm cùng chiến đấu trong đơn vị Bộ Binh rất
đỗi tầm thường này, chúng tôi chưa hề một lần bại trận, nhưng rồi
cuối cùng, trong bất ngờ tất cả đành phải buông súng, tù tội, tức
tưởi, oan khiên.
Hai chữ tất cả trong dòng chót, rồi
những chữ tù tội, tức tưởi, oan khiên quả thật đã ập xuống miền
Nam.
Những
truyện ngắn ông đã viết liên quan đến nhiều người, quân cũng như
dân. Và về nhiều mặt, với mọi hoàn cảnh họ có thể đã phải chịu
đựng hay trải qua. Sau 30/4/1975, chữ thích hợp nhất để chỉ phần
còn lại của mỗi đời người là chữ Kiếp:
cái kiếp phải tù tội,
cái kiếp chịu oan khiên,
cái kiếp chết
tức tưởi.
Mỗi
người có thể phải chịu một cách, hay nhiều cách. Thời gian dài
ngắn khác nhau.
Có người thoát được cái chết của thân
xác, nhưng những ngày còn lại vất vưởng trên thế gian, vẫn có thể
bị triệu chứng của “Post traumatic stress disorder”. Hằng đêm cứ
thấy những nỗi khủng khiếp trở đi trở lại, bị thức giấc một cách
không cưỡng lại được. Họ hoá lo lắng triền miên, khủng hoảng tinh
thần. Có người không chịu nổi, xoay ra uống rượu hoặc chích ma
túy. Kết quả, thân sống cũng như thân chết.
Ngày mất nước, Miền Nam có 17 triệu
rưỡi người. Tất cả mọi người đều chịu thảm cảnh, thảm hình.
Truyện về kiếp của từng ấy người, gom cả lại, chẳng đã thành một
truyện dài ư?
Những chuyện Phạm Tín An Ninh kể, là những thí dụ điển hình. Nếu
không muốn nhớ tiêu đề của mỗi truyện, ta có thể hiểu tất cả chỉ
là những chương trong một truyện dài: “Miền Nam Trường Hận”.
Bảo Anh Trần Tường Vi
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Bảo Anh Trần chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, January 3, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang