Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
TẾT
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận
ra vợ chồng người bạn
trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được
mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn
lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn
mỏng hơn sợi tóc.
Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật
Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu
đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn
nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới
Miên–Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán,
nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn
cho Tiểu Khu Quảng Đức. Tiểu đoàn (–) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa,
một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định
cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành
một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng
cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người
Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ
quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang
cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến
trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người
Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.
Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung
quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh
sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà
ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô.
Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói
đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ
huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp
giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ
là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên
tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí
có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ
còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư
thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối
tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi
Khu.
Phía dưới
chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu
học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn rỉ sét phủ đầy bụi
đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều
đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.
Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm
trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn
thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát
khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một
người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân
đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn
tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào
mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh,
nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu
trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại
làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là
người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò
cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy
trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi
giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ
anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “Con Đường Mang Tên Em”, bài
ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường
năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời
còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học
trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to,
xanh biếc. Cô bé khoảng 14–15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc
rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày
ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được
hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng
tôi trong ký ức.
Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ,
vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh.
Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu
cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú
lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng
những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến
xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy,
tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ
sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu
Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ
học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy,
hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ
đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi
trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng
tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù
lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên
được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm
một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm. Tháng
ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết
nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán.
Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng
nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học
sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học
chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì
và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại
thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác
khá chênh lệch nhau.
Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận
hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca
hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho
anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.
Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng
gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu
nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với đôi mắt
to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò
anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên
thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê–đê và vài tập quán khá lạ
lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành
chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả,
tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.
Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy
giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẻ
bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước
đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong
phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng
cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của
tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò
có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho
tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ
quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cám ơn
rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm
rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm
khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế
hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm
trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm
ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của
tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng
hai khẩu súng cối 82ly, bắn đi từ hai hướng. Tôi đã may mắn, kịp
thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng,
nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội
tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản
pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác
vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi
giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình.
Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung
tóe.
Tôi kể
cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào
quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo,
công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng.
Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho
cô bé, nói nhỏ lời cám ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò
suốt ngày hôm ấy.
Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có
lệnh rời khỏi Kiến Đức, đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu
đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt
Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi
chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang
tặng anh tấm poncho–light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một
anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám
học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng
tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi
cũng rất bận với đồng đội của mình.
Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo
An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba
thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn
ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa
điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L–19 bao
vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung dội trên chiếc
xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính
thiện chiến, can đảm, giầu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm
chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L–19 để hướng dẫn
đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy
mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau
khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi
giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi
trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về
bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu
Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò
người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả
hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng.
Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp
xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay
Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi
mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái
của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi
phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân
băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương
binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng
lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn,
chiến trường, và ranh giới giữa sống – chết nhiều khi còn mỏng
hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu
khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy
giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi
cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như
mặt nước hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn
sóng mãi trong lòng. Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân
ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận
được tấm carte–postal, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai
người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm
tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân
tình xuống giường bệnh của tôi.
Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần
phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại
trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên
cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những
năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê
Thuột, tôi lại nhận sự vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt
một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn
yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn
(đặc tránh hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít
nhiều tới khóa học vừa qua.)
Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được
điều động về Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác, cả trung
đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn
Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến
Đoàn, mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam–bốt. Bộ Chỉ
Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân
mang tên “Bình–Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều
thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh
khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại
Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia
là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính
bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh
cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi
mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít
mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi
xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống
chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp
rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ
được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng
điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một
tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng
ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm
cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn
cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo
của trường.
Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi
biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay
bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu,
“bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái
poncho–light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí
mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói
với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi
phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ
nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi
mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy động trái tim tôi. Tôi cười mà
thấy lòng man mác!
Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra
Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy
giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn
thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp
lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết
tới điều gì.
Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng
tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng,
có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng.
Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin
trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một
clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của
Dăk–Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn
gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng
khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Dăk–Nông (Tỉnh
Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính
quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức
xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời
khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn
áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại
hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016,
khi đường ống từ nhà máy Aluminum Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco
Trung cộng bị vỡ khiến 9.63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm
nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của
dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ
khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những
người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy,
bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi
bỗng giật mình. Đôi mắt đập mạnh vào tâm não làm tim tôi đau
buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé
học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi
hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần
thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt
nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị
thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên
màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ
khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt
ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó
tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ
thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi
nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin
cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều
ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại
nhau ở chốn bình an vĩnh cửu.
Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ
còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ
và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao
giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi
biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt
của mùa Xuân.
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Patrick WILLAY chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, January 29, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang