Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
nhà văn đỗ trường & văn
học miền nam VN
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Đầu
năm 2022, tôi bất ngờ đọc được bài viết “Níu Một Đời,
Giữ Một Thời” của tác giả Ban Mai, một nhà văn trẻ
trong nước. Cô đang là giáo sư giảng dạy về Khoa Học Công Nghệ và
Hợp Tác Quốc Tế tại Trường Đại Học Qui Nhơn.
Mở đầu bài viết, tác giả đã vẽ lại bức
tranh đen tối, kinh hoàng sau ngày 30/4/75:
“...
phần lớn người Miền Nam làm việc
cho chính phủ Cộng Hòa đều bị tập trung cải tạo. Cuộc sống của
nhiều gia đình đảo lộn. Vì sau khi đổi đời, họ bị thất nghiệp,
nhiều người lâm vào cùng quẫn. Cảnh quan thành phố tiêu điều xơ
xác, thiếu lúa gạo khiến dân phải ăn độn bo bo và mì sợi. Trầm
trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không
còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thu
tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị
triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx. Tất cả
sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương
Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy
Hoàng năm 210 trước công nguyên...
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh
ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học
nghệ thuật Miền Nam vô cùng giá trị với nhiều thể loại ‘trăm hoa
đua nở’, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản,
theo kịp trào lưu thế giới...”
Và tác giả cho biết sự tình cờ được may
mắn tiếp cận với dòng văn chương miền Nam:
“Mùa hạ năm 2010, tôi tình cờ đọc bài
viết của nhà thơ Du Tử Lê giới thiệu về tác phẩm ‘Những cơn mưa
mùa Đông’ của tác giả Lữ Quỳnh do nxb Thư Ấn Quán ở Mỹ xuất bản,
thời gian này tôi đang tìm hiểu dòng văn chương Miền Nam nên liên
hệ, ngay lập tức nhà văn Trần Hoài Thư và Lữ Quỳnh trả lời, tôi
biết họ từ ngày ấy.
Bắt đầu từ đó, tôi tìm đọc dòng văn
chương Miền Nam Việt Nam do nxb Thư Ấn Quán phát hành, vì ngày
xưa trước năm 1975 tôi còn quá nhỏ chưa hiểu biết gì, tôi sinh ra
và lớn lên ở Quy Nhơn, thuộc Miền Nam Việt Nam vì vậy tôi không
muốn văn chương Miền Nam bị thất lạc và bôi xoá, tôi cần phải tìm
hiểu và phổ biến lại cho thế hệ trẻ ở trong nước biết.
Thật may mắn, mùa thu năm 2011 nhà thơ
Vũ Trọng Quang từ Sài Gòn photo cho tôi trọn bộ ‘Văn Miền Nam’ (4
tập) và 2 tập ‘Thơ Miền Nam thời chiến’ do Thư Ấn Quán phát hành
năm 2009. Cuốn sách mới nhất tôi được Trần Hoài Thư tặng là cuốn
‘Những tạp chí Văn học Miền Nam’ do ông sưu tầm và nhận định in
năm 2018, ông đã sưu tầm được 15 tạp chí đã từng xuất bản ở Miền
Nam Việt Nam gồm các tạp chí: Ý thức, Bách khoa, Văn, Sáng tạo,
Khởi hành, Vấn đề, Trình bày, Thời tập, Hiện đại, Văn nghệ, Nghệ
thuật, Mai, Văn học, Văn hóa nguyệt san, Tình thương.
Nhờ ông, tôi có được một cái nhìn khái
quát về diện mạo nền văn chương Miền Nam Việt Nam mà hiện nay ở
trong nước đã không còn nữa.
Nếu không có ông, làm sao tôi biết 462
tác giả trong 2 tập ‘Thơ Miền Nam trong thời chiến’, mà phần
nhiều là những người lính cầm bút đã chết, đó là ‘những trang thơ
được sưu tập từ một thời kỳ đen tối của quê hương, khởi điểm bằng
lệnh tổng động viên và chấm dứt bằng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tập sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những nhà phê bình
văn học, những người nghiên cứu văn học sử, và những ai chưa có
dịp tiếp cận với nền văn chương Miền Nam trong thời chiến tranh
để họ có cái nhìn rõ và đúng đắn hơn về một dòng văn chương tình
tự, tự do, khai phóng, sáng tạo và nhân bản.’”
Cuối bài, tác giả có nhiều lạc quan về
cái nhìn của một số trí thức trẻ trong nước và kêu gọi sự tiếp
tay của mọi người trong trách nhiệm “bảo tồn và chia sẻ Văn Học
Miền Nam cho đời sau”.
“Bên trong nước, mấy năm gần đây có
một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu
tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng
cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước
Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ
một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm
1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng
tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc
trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài thơ ‘Ta về’ của
Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính
nhân văn:
‘Ta
về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần
ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới
xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này’.
Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu
vui.
Tôi tin
rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương Miền Nam
(1954–1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà
trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong
tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và
không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của
nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia sẻ Văn học Miền Nam cho đời
sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người
yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam.”
Đọc bài viết của tác giả Ban Mai, tôi
bỗng nghĩ ngay đến một người khác, mà diện mạo của ông trong lĩnh
vực này lúc nào cũng sáng lên trong suy nghĩ và hy vọng của tôi:
Nhà văn Đỗ Trường.
Đỗ Trường người Nam Định, tốt nghiệp
Cao Đẳng Sư Phạm năm 1980. Sau thời gian theo học Khoa Anh Ngữ
tại Đại học Ngoại Ngữ Hà Nội, năm 1987 ông nghỉ học, đi buôn rồi
theo lao động xuất khẩu sang CHDC Đức. Sau khi bức tường Bá Linh
sụp đổ, ông ở lại và cùng cả gia đình định cư tại thành phố
Leipzip, CHLB Đức.
Tác phẩm đầu tay là tập truyện “Không
Bao Giờ Thành Sẹo” do Vipen xuất bản 2013. Sau đó là: “Về Miền Ký
Ức” (tạp bút), “Đất Nước Với Những Đường Cong”, “Không Thể Sống
Trong Im Lặng”, “Từ Hộ Chiếu Buồn Đến Đau Thương Hành” (xuất bản
năm 2019, là một tác phẩm đặc biệt nói về những khổ nạn mà chính
quyền CS Việt nam đã hành xử đối với ông, vì những bài viết của
ông), và mới nhất là “Men Còn Đọng Lại Đáy Vò”, viết về một số
tác giả tiêu biểu, những người lính cầm bút miền Nam (Nhân Ảnh
xuất bản năm 2022.) Ngoài ra, là một loạt các truyện ngắn, tùy
bút, ký sự, biên khảo được độc giả khắp nơi đón nhận khá nồng
nhiệt.
Sự
nghiệp văn chương chưa dày lắm, nhưng tên tuổi ông đã nổi bật cả
trong lẫn ngoài nước, bởi các bài nghiên cứu khá tường tận, với
những nhận định một cách khá công tâm, sâu sắc, tinh tế về nền
văn học Miền Nam, đặc biệt qua những tác giả vốn là những người
lính cầm bút trong và sau cuộc chiến.
Lần đầu tiên tôi biết và đặc biệt lưu ý
tới Đỗ Trường, cách nay hơn mười năm, khi đọc được bài viết
“Những Giải Văn Học Không Có Thật”. Ông phê phán (có thể gọi là
lên án) Hội Nhà Văn Việt Nam tại Hà Nội đã trao giải thưởng cho
tác phẩm Dị Hương của một tác giả trong nước:
“Ngắc
ngứ mãi, rồi tôi cũng đọc xong truyện ngắn Dị Hương của Sương
Nguyệt Minh. Quả thật, ngoài những pha làm tình mang dáng dấp từ
truyện Đồi Thông Hai Mộ, Gia Long Nguyễn Ánh hiện lên đậm tính
lục lâm thảo khấu với giọng văn kiếm hiệp phương Bắc. Còn lại tôi
không tìm được điều gì khác tác giả muốn chuyển tải đến người đọc.”
Để rồi ông nhận định thêm về “hiện
tượng” đa số các cây bút trong nước lúc ấy:
“Trong khi viết về chiến tranh, các cây
bút trong nước thật sự chưa có cái nhìn công bằng với những người
quân, cán của VNCH. Họ vẫn hiện lên đầy rẫy ở các tác phẩm với
những hình ảnh méo mó, với những tên gọi xếch mé. Gần đây nhất
tôi mới thấy các cây viết trong nước ca ngợi một người lính VNCH,
vì anh có công cùng với người lính Mỹ cất giữ cuốn nhật ký Đặng
Thùy Trâm, để hôm nay chúng ta mang ra phát động tuyên truyền.
Chúng ta hãy bình tâm đọc lại những vần thơ của nhà thơ Trần
Trung Đạo, anh là một thuyền nhân. Cũng viết về người lính, nhưng
anh không phân biệt đâu lính VNCH, hay là anh bộ đội....”
Sau này, qua nhiều bài giới thiệu, nhận
định, phê bình về một số tác giả và tác phẩm miền Nam của ông,
tôi dần dà có nhiều thiện cảm và đánh giá cao về khả năng văn
chương, đặc biệt ý thức về một nền văn học mà cá nhân ông trước
đây chưa từng biết qua, và chắc chắn khi còn ngồi trên ghế nhà
trường, đã từng bị đầu độc đó là loại “văn chương phản động”,
“văn chương đồi trụy” mà sau tháng 4/1975 chính quyền Cộng sản
tìm mọi cách hủy diệt, nhưng không thể.
Ông nghiên cứu và viết khá nhiều về
những tác giả, tác phẩm miền Nam. Một số tôi đã đọc được:
– Trần Trung Đạo – Tiếng Vọng Từ Bên
Kia Đại Dương
– Luân Hoán – Người Kể
Chuyện Bằng Thư
– Vũ Hữu Định – Đường Đi
Không Đến
– Vũ Hoàng Chương – Lạc Loài
Trong Cõi Nhân Sinh
– Đinh Hùng – Con
Đường Thi Ca Độc Đạo
– Hòa Thượng Thích
Như Điển – Chân Dung Một Nhà Văn
– Du Tử
Lê – Đời Lưu Vong Chưa Tận Tuyệt Với Linh Hồn
– Phạm Tín An Ninh – Con Đường Giải Oan Cho Một Cuộc Bể Dâu
– Cao Xuân Huy – Người Vẫn Không Thể Thoát Ra Khỏi Cuộc Chiến
– Tô Thùy Yên – Tiếng Thơ Lầm Than Hào
Kiệt Từ Một Thời Khủng Khiếp, Một Vận Phân Ly
– Nguyễn Đức Sơn – Chập Chờn Trong Cõi
Hư Vô
– Thảo Trường – Những Mảng Ghép
Của Chiến Tranh
– Duyên Anh – Từ Cảm Xúc
Cho Đến Tận Cùng Của Con Chữ
– Trần Hoài
Thư – Người Ngồi Vá Lại Những Linh Hồn...
– Trần Hoài Thư Với Những Vần Thơ Lúc Nửa Đêm
– Nguyễn Bắc Sơn – Một Đặc Phẩm Của Thi Ca Miền Nam
– Phạm Ngọc Lư – Người Vẫn Giữ Lửa Cho
Văn Học Miền Nam – Tùy Anh – Từ Tháng Tư Buồn Đến Nỗi Đau Biệt Xứ
– Phan Nhật Nam – Hè Vẫn Còn Đỏ Lửa
– Nguyễn Tất Nhiên – Một Trường Thiên Kịch Bản Bi Ai
– Cao Đăng Khánh – “Lửa Ngoài Giới Hạn” Chúng Không Tạ Từ
– Nguyễn Nho Sa Mạc – Một Ngôi Sao Xẹt Qua Bầu Trời Thi Ca
– Lữ Quỳnh – Chiếc Cán Cân Của Văn Học Miền Nam
– Song Vũ – Người Vẫn Chưa Thể Bước Ra Khỏi Cuộc Chiến
– Trạch Gầm – Một Giọng Thơ Độc Đáo –
Cung Trầm Tưởng – Từ Chuyện Tình Lãng Mạn Đến Hồn Thơ (Thế Sự)
Lưu Đày.
Đặc
biệt, trong bài “Văn Học Miền Nam – Một Góc Nhìn” được viết ngày
16/11/2021, nhà văn Đỗ Trường đã có cái nhìn rất sâu sắc về Văn
Học Miền Nam, đặc biệt hai khía cạnh Hiện Thực và Nhân Bản. Xin
trích đoạn một số tiêu biểu:
...
tuy bị bức tử, song cũng như âm nhạc, sức sống của nền văn
học ấy vẫn mãnh liệt lắm. Nó không chỉ âm thầm đi sâu vào lòng
người ở ngay đó, mà còn sinh sôi nảy nở ngoài cương thổ, nơi có
mấy triệu người Việt nữa kìa!
... có được sức sống lâu dài ấy, cũng
bởi Văn học miền Nam chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo. Hai giá trị cơ bản của văn học này, dường như ta rất ít
gặp ở những tác phẩm ngoài Bắc trong cùng giai đoạn chiến tranh
1954–1975, bởi tính tuyên truyền đã bóp nghẹt những giá trị ấy.
Dù miền Bắc có rất nhiều nhà văn tài năng.
... dù bị đánh tráo khái niệm, hay
khoác cho một chiếc áo, một tên gọi mới, thì thực chất Văn học
miền Nam không hề bị méo mó, đổi thay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
bài viết này, tôi chỉ đi sâu vào cái giá trị hiện thực, và nhân
đạo của Văn học miền Nam (trong chiến tranh) dưới ngòi bút của
những nhà văn người lính mà thôi.
... Có thể nói, chiến tranh tuy tàn
khốc, nhưng đã sản sinh ra một loạt các nhà văn, nhà thơ tài năng
xuất thân từ những người lính: Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Thảo
Trường, Tô Thùy Yên, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Phan
Nhật Nam, Nguyên Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Trần Dzạ Lữ...
Những tác phẩm còn nguyên mùi khói thuốc, vang tiếng đạn bom của
họ như một luồng gió mới làm thức tỉnh, và giải tỏa sự bế tắc của
Văn thơ miền Nam đang gà gật lúc đó. Và những tác phẩm ấy gắn
liền với hiện thực của xã hội, sự tàn khốc chiến tranh, cũng như
thân phận người lính.
... Có thể nói, những nhà văn miền Nam
(1954–1975) không chịu ảnh hưởng, chi phối bởi bất kể thế lực,
đảng phái nào. Cái tôi, và tự do tư tưởng, sáng tạo của họ đã
được coi trọng, phát triển. Với tư tưởng như vậy, nên nền Văn học
miền Nam được hình thành bởi những giá trị hiện thực, và nhân đạo
là điều hiển nhiên. Với tôi đó chính là một nền văn học đích
thực.
... Nếu
không có thơ văn đích thực, thì chúng ta và các thế hệ sau này
chắc chắn sẽ không hiểu sự thật về bản chất của cuộc chiến này,
cũng như tâm trạng người lính với những năm tháng tang thương đó.
Văn học như một chiếc cầu nối lịch sử đến với con người vậy. Và
chính những nhà văn người lính đã nối những nhịp cầu ấy. Thật
vậy, giữa sự sống và chết rất mỏng manh nơi chiến trường, vậy mà
ta vẫn thấy tính nhân bản của con người chợt hiện lên... Và cái
tình người ấy, dường như xuyên suốt trang thơ của người lính.
Trong bài “Phạm Ngọc Lư, Người Vẫn Giữ
Lửa Cho Nền Văn Học Miền Nam”, (khi đang ngồi đọc Văn thơ miền
Nam 1954–1975, tác giả chợt nhớ đến nhà thơ Phạm Ngọc Lư, sống
trong nước, gốc giáo chức (theo lệnh động viên nhập ngũ vào khóa
5/68 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, nhưng chỉ một thời gian ngắn, được
biệt phái trở lại ngành giáo dục), sau 1975 dù phải sống đời lang
bạt khốn cùng, nhưng vẫn tiếp tục sáng tác những bài thơ (hành)
đầy khí khái miền Nam, nhà văn Đỗ Trường đã viết:
“...
Từ độ ‘đất trời dị biệt, gió mây
bất đồng’ thì nền Văn học miền Nam bị khai tử. Và tròn bốn mươi
năm, tưởng chừng nó cũng đã chìm vào lãng quên. Nhưng nhìn lại,
dường như dòng văn học ấy vẫn nảy nở, âm thầm chảy trong lòng đất
Việt. Có thể nói, ngay sau biến cố 1975 dòng chảy đó tự chẻ ra
như những nhánh sông luân lạc... rồi tìm về, tụ lại đó đây. Tuy
chưa thể cháy lên, nhưng nó đã cùng với những nhà thơ, nhà văn
hải ngoại làm ấm lại phần nào cho nền Văn học miền Nam.
Nếu được phép đi tìm những khuôn mặt
cho Văn học miền Nam còn ở lại trong nước, chắc chắn thi sĩ tôi
nghĩ đến trước nhất phải là Phạm Ngọc Lư. Tuy viết không nhiều,
nhưng cốt cách Con Người cũng như hồn vía văn thơ của ông trong
một cái xã hội dối trá lọc lừa, không phải ai cũng giữ được.”
Không chỉ viết về những tác giả, tác
phẩm của Văn Học Miền Nam, nhà văn Đỗ Trường cũng đã viết về một
số nhà văn nhà thơ tiêu biểu miền Bắc. Ông ca ngợi tài năng, sự
thành công và cả thái độ “phản tỉnh” của họ, nhưng cũng đã thẳng
thắn phê phán những trường hợp sai lầm, tiêu cực:
– Trong bài “Vài
Suy Nghĩ Về Hậu Báo Văn Nghệ Và Nỗi Buồn Chiến Tranh Của Nguyên
Ngọc” có một đoạn nhà
văn Đỗ Trường viết:
“Đọc
‘Hậu Báo Văn Nghệ Và Nỗi Buồn Chiến Tranh’ của nhà văn Nguyên
Ngọc, tuy rất khoái, nhưng tôi cảm thấy còn chút lăn tăn. Bởi,
không chỉ Nguyên Ngọc, mà một số nhà văn trong nước vẫn còn luyến
tiếc cái Trường viết văn Nguyễn Du. Một cái trường, dường như có
tác dụng hợp thức hóa bằng cấp cho các bác vừa từ chiến trường
trở về thì đúng hơn. Chứ các bác đã thừa biết, có cái trường quái
nào đào tạo được nhà văn, nhà thơ đâu. Do vậy, không những giải
tán cái trường này, mà các bác nên giải tán luôn cái Hội nhà văn,
cái Văn Nghệ Quân Đội, cũng như các trường báo chí tuyên truyền,
trường luật pháp cùng các đoàn, trường nghệ thuật quân đội đỡ
gánh nặng thuế má của người dân.
... Tôi đồng ý với Nguyên Ngọc về sự
đánh giá cao Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh. Tuy nhiên, cuốn
sách này còn không ít những đoạn Bảo Ninh lên gân, và bốc phét
hơi bị nghĩa lộ, chứ không toàn bích như Nguyên Ngọc đã viết.
Cách nay vừa tròn hai mươi năm(1993),
tôi có về Hà Nội, gặp được ông em họ vừa ở tù ra vì can tội là
lính thám kích, quân đội VNCH. Tôi có đưa cho hắn cuốn Nỗi Buồn
Chiến Tranh. Đọc xong, hắn bảo, ông Bảo Ninh viết hoàn toàn sai
về người lính VNCH. Như câu chuyện bốn người lính thám kích bị
bắt, tác giả viết một cách không đúng sự thật. Từ cách mô tả hành
động đến thuật lại những mẩu đối thoại của những người lính thám
kích này.
Lính
thám kích được chọn, hầu hết còn trẻ, gan dạ và có bản lãnh. Họ
không thể nào quá hèn hạ, van xin như Bảo Ninh kể. Nếu có xin tha
đi nữa, thì cách nói và những lời nói ấy, nhất định không phải
của họ. Điều này hắn khẳng định không thể có. Người lính thám
kích đã được giáo dục về nhân cách, ngay sau khi đã được tuyển
chọn. Trong nhiệm vụ đặc biệt, những toán thám kích cần phải
tránh nổ súng, tránh bị phát hiện, trừ trường hợp, tự vệ, bất khả
kháng. Cho nên, không thể có trường hợp phát hiện, bắt ba cô gái,
rồi dẫn đi nhởn nhơ như vậy, để nhóm của Kiên tóm được. Hơn nữa,
trong trường hợp đã bị bắt, trước sự sống chết, không thằng nào
ngu xuẩn, nói giọng trêu cợt: Ba nhỏ đó trình quý anh, tụi này
làm thịt cúng hà bá rồi... Mấy nhỏ la khóc quá trời...
Hắn cũng cho rằng, cuốn truyện còn
nhiều cảnh tưởng tượng quá mức, như trường hợp, một đám lính, làm
thịt con xà niêng, nhưng sau khi cạo lông mới phát hiện ra đó là
một người đàn bà.
Tôi viết lại lời hắn theo trí nhớ của
mình. Và còn nhiều lời nặng nề khác của hắn về Nỗi Buồn Chiến
Tranh, nhưng tôi xin phép không chép ra đây. Hắn ra người thiên
cổ đã lâu. Vài dòng như một chút tưởng niệm đến hắn và những
người lính cả hai miền Nam–Bắc đã hy sinh trong cuộc chiến vừa
qua.”
Trong bài “Hữu Loan – Tài Năng Và Sự
Mâu Thuẫn Trong Tư Tưởng Cũng Như Thi Ca”, (viết nhân 10 năm ngày
mất của thi sĩ Hữu Loan), nhà văn Đỗ Trường đã đưa ra một vài chi
tiết mà gần như hầu hết trong chúng ta chưa được biết về tác giả
bài thơ nổi tiếng “Màu Tím Hoa Sim” này:
“Khó hiểu, và bất ngờ hơn nữa, trong
cùng một thời điểm Hữu Loan viết bài ngợi ca: Chế Độ Ta, khác hẳn
với sự châm biếm, đả kích ở bài: Cũng Những Thằng Nịnh Hót. Sự
mâu thuẫn, nhức nhối này, làm cho người đọc một cảm giác ‘Cây gỗ
vuông chành chạnh’ Hữu Loan, dường như còn một khuôn mặt khác
nữa:
...
Chế độ ta
Đến đâu
Mặt trời theo
Đến đấy
Chế độ ta
Đã dạy
Cho mặt trời
Công bình...
Chế độ ta
Không còn hành khất
Không còn người ăn
sương
Nhân loại cần lao
Lớp lớp
Lên đường
Mặc áo muôn màu
Hát muôn thứ tiếng
Tay nắm tay thân mến
‘Ta giữ hòa bình
Cho chế độ ta đây...’
Có thể nói, Hữu Loan có cái nhìn méo mó
về Hà Nội và Sài Gòn, cũng như cuộc di cư của hơn một triệu
đồng bào miền Bắc (sau 1954), khi ông viết bài Đêm vào tháng
5/1956. Quả thực, dưới cái tư tưởng, quan điểm phiến diện như vậy
của Hữu Loan, Hà Nội trước kia, và Sài Gòn hôm nay (1956), hiện
lên trong thơ như một thứ ung nhọt, giang mai cùng mã tấu. Sự đĩ
điếm, bỉ ổi ấy, càng rõ nét hơn dưới phép so sánh của ông:
‘Đêm
Hà Nội
Ngày nay
Như em nhỏ nằm tròn
Ru trong nôi chế độ’.
Cái khía cạnh, và sự ru ngủ này, trong
thơ Hữu Loan, dường như ít được các nhà nghiên cứu, và phê bình
nhắc đến:
...
Hốt hoảng gọi nhau
Không kịp vớ áo quần
Những đêm Hà Nội
ngày xưa
Lõa lồ
Mình đầy ung độc
Đã xuống tàu đêm
Vào Sài Gòn
Tất cả
Những đêm Sài Gòn
Ngày nay
Đêm giang mai
Tẩu mã
Đang mưng
Cấp cứu gấp vạn lần
Những đêm xưa Hà Nội
‘10$ 1 cốc cà–phê
100$ 1 con gái...’
Quảng cáo đóng đầy
Ngực đêm
Như áo ngủ Sài Gòn
Đêm Hà Nội
Ngày nay
Như em nhỏ nằm tròn
Ru trong nôi chế độ
Những đèn dài đại lộ
Như những tràng hoa đêm
Nở long lanh
Trong giấc ngủ
Bình yên.”
Sau 1954, những thi sĩ, nhà văn cùng
thời như, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, hay Nguyễn Tuân... đều phải
đảo bút, úp mặt quay lưng vì cuộc sống là điều dễ hiểu. Song với
Hữu Loan một nhà thơ thẳng thắn, và can trường là một điều thật
khó lý giải. Do vậy, cần lắm một sự nghiên cứu của các bậc tiền
bối từ trong nước ra đến hải ngoại, để làm sáng tỏ một cách chân
thật nhất về nhà thơ tài năng, đáng kính Hữu Loan.
Và một trong nhiều trường hợp thay đổi
tư duy ngược lại: nhà thơ Đinh Thị Thu Vân (trong Hội Văn Nghệ
Long An)
“...
ngay từ những ngày đầu cầm bút Đinh Thị Thu Vân đã hồ hởi, reo
vui: ‘Tháng Tư ơi xin đẹp mãi tâm hồn.’. Và Ba mươi tháng Tư đến,
nhà thơ như cởi bỏ dĩ vãng, gột rửa được tâm hồn. Lời tự thú ấy
đã được Đinh Thị Thu Vân viết thành thi phẩm: Nếu không có ngày
Ba mươi tháng Tư, rất đồng điệu với khí thế hừng hực của những
ngày sau 30/4/1975. Quả thực, nó chẳng khác gì một bản kiểm thảo
trước chi bộ đảng đoàn vậy.”
“...
Nếu không có ngày Ba mươi tháng
Tư
Em giờ vẫn như thuở nào, sợ tay mình
lấm đất
Sẽ không biết tự khuyên mình
những lời nghiêm khắc nhất
Không một lần
dám sống hy sinh
Và giữa dòng người
cuộc sống gấp bon chen
Em đâu biết tin
ai một điều gì tuyệt đối
Em sẽ đến với
tình yêu bằng nửa trái tim yếu đuối
Còn
nửa tim kia đành giữ lại... để nghi ngờ
Sẽ... rất nhiều, anh hiểu phải không
anh
Ngày tháng trước em là con ốc nhỏ
Con ốc đa nghi cuộn mình trong lớp vỏ
Sống vô tình mà ngỡ sống thông minh...”
Nếu “Nếu không có ngày Ba mươi tháng
Tư” là lời tự thú, để rũ bỏ quá khứ, gột rửa tâm hồn, thì đến với
“Saigon Đau” lại là sự tìm về dĩ vãng, trong cái tiếc nuối và nỗi
đau mất mát của Đinh Thị Thu Vân. Có thể nói, “Saigon Đau” là bài
thơ tiêu biểu, và rõ nét nhất cái mâu thuẫn tư tưởng trên những
trang viết của Đinh Thị Thu Vân. Và nó cũng là một trong những
bài thơ viết về thế sự xã hội hay nhất, mà tôi được đọc. Thật
vậy, nỗi đau và sự luyến tiếc đó, dường như không phải của riêng
nhà thơ, mà nó đưa đến, và nhận được sự đồng cảm của rất nhiều
người. Vẫn những lời thơ tự sự, Sài Gòn Đau như một mũi khoan
xoáy vào lòng người đọc. Nhất là những kẻ buộc phải rời xa quê.
Ta hãy đọc lại những trích đoạn có lời thơ dân dã, song rất đẹp
dưới đây để thấy rõ, (và so sánh) cái mâu thuẫn tư tưởng, cũng
như cái tôi, và chất trữ tình trong thơ thế sự xã hội của Đinh
Thị Thu Vân:
“em
yêu Sài Gòn, vì nơi đó có một người đau
một người mất những vàng son quá khứ...
Sài Gòn của anh
một thời Công Lý
một thời Tự Do
Sài Gòn của một thời
Thương xá
em bước qua, ngơ ngẩn mắt quê
mùa...
không có tình yêu, Sài Gòn như
đất trống
như câu thơ lạc vận chẳng neo
hồn!
không giữ lại dáng hình xưa được
nữa
Sài Gòn đau ngơ ngác buổi em về
anh ở đâu những ngày cây lá đổ
có đợi
chờ bàn tay nắm sẻ chia?...”
– Một vài nhận xét về Đỗ Trường từ
những nhà văn thành danh trong và ngoài nước:
– Trong bài viết về tác phẩm “Từ Hộ
Chiếu Buồn Đến Đau Thương Hành” của tác giả Đỗ Trường, nhà thơ
Trần Trung Đạo đã có nhận xét:
“Nhà văn Đỗ Trường cảm nhận giá trị văn
chương và hoàn cảnh của tác phẩm bằng trái tim trong sáng hơn là
tình cảm riêng tư, quen biết trước. Anh không viết theo cách ‘mặc
áo thụng vái nhau’. Cảm xúc dâng lên sau khi đọc một bài thơ, một
truyện ngắn anh bắt gặp đâu đó, và như thế anh ngồi xuống viết.
Anh có thể không biết và cũng không quá cần phải biết ngay tác
giả của bài thơ, bài văn mà anh đang phân tích là ai, tầm cỡ nào,
còn sống hay đã chết, miền Nam hay miền Bắc, Cộng sản hay Quốc
gia.
Trong
không gian mênh mông không hố hầm ngăn cách của tâm hồn anh, họ
là những con người có trái tim Việt Nam như anh và cùng rung môt
nhịp xót xa hay hy vọng với anh.
Với nhà văn Đỗ Trường, giá trị của tác
phẩm làm nên tên tuổi chứ không phải tên tuổi làm nên giá trị tác
phẩm.”
– Trong
bài viết “Thân Phận Bút Mực Trong Con Chữ Đỗ Trường”, nhà văn
Trần Mạnh Hảo đã có những nhận xét khá độc đáo:
“Đỗ Trường viết văn bí mật như người đi
vào một thành phố bị chiếm. Chao ôi, những trang giấy trắng này
đã bị sự dối trá chiếm đóng từ muôn nơi, trong đó có quê hương
của ông tàn tạ những chân trời. Ông hân hoan trao sự thật lòng
mình cho trang giấy như người vợ đêm tân hôn trao cho chồng sự
trinh trắng cả tâm hồn và thể xác...”
– Đặc biệt và mãnh liệt hơn, trong bài
viết ngày 28/8/2017, dưới cái tựa: “Đỗ Trường – Kẻ Không Khoan
Nhượng Với ‘Bầy Sâu Đang Khiêng Nước Việt Đi Chôn’”, được đăng
trên RFA, nhà văn Võ Thị Hảo sau khi nhận định về tài năng và khí
tiết của Đỗ Trường, đã kết luận như sau:
“Người Việt ở Đức và mọi nơi trên thế
giới rất cần thêm những người viết mang nhân cách chính trực như
Đỗ Trường. Ngay tại Đức quốc, ai ngờ lại quá hiếm hoi những người
viết như vậy. Chúng ta cần biết bao những người dám nói và viết
lên sự thật để tẩy rửa sự tanh tưởi của những cơ hội và nhạt đạo
tâm hồn.
Không
cần nổi danh, Đỗ Trường viết vậy là chỉ để tự cứu rỗi chính mình.
Nhưng nhân cách viết da diết vì sự thật và cộng đồng ấy đã cần
mẫn ngày ngày gắng gỏi cho một sự nghiệp lớn và vì thế anh thành
danh ngoài mong muốn.
Bằng những gắng gỏi, góp gió thành bão
của mỗi người, sẽ tới một ngày, Việt Nam...”
– LỜI KẾT:
Bài viết này, ngoài việc giới thiệu đến
độc giả diện mạo đặc biệt đáng quí của một nhà văn sinh ra và lớn
lên từ miền Bắc trong giai đoạn chiến tranh, cũng để thay cho lời
cám ơn gởi đến nhà văn Đỗ
Trường, người đã “chuyên chở văn học miền Nam, đặc biệt những
người lính cầm bút miền Nam, vượt qua vũng lầy của cuộc chiến”
do chế độ CS man rợ đã cố tình hủy diệt sau tháng 4/1975, để mang
đến cho mọi người Việt Nam, đặc biệt những thế hệ hậu sinh trong
nước, giá trị đích thực và vĩnh cửu của nó.
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, September 15,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang