Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy bút
Chủ đề:
Thuở Học trò
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thời học trung học,
tôi có người bạn thân, không những tướng tá mà cả cái tên cũng
đẹp: Phan Ái Minh. Hai đứa học chung trường. Minh học Ban B và
trước tôi một lớp, còn tôi dốt toán nên học Ban C. Vì vậy mà bạn
còn là “ông thầy” kèm toán cho tôi. Nhà Minh ở trên Thành (Diên
Khánh), cách thành phố Nha Trang, nơi có ngôi trường Võ Tánh của
bọn tôi hơn mười cây số. Minh cùng người anh thuê căn nhà nhỏ
trong một con hẻm ở gần đình Phương Sài để trọ học. Mỗi chiều Thứ
Sáu, sau khi tan trường, hai anh em đạp xe về thăm nhà đến chiều
Chủ Nhật lại ca bài đường trường xa trở lại Nha Trang, mang theo
thức ăn cho một tuần sau đó. Tôi cũng từ một vùng quê khác vào
Nha Trang học, ở nhà ông chú, một tiệm buôn giữa trung tâm thành
phố. Để tránh ồn ào và khỏi bị sai vặt, tôi thường đạp xe lên nhà
Minh vừa chơi vừa học. Có khi tôi ngủ lại hoặc cuối tuần theo anh
em Minh về thăm quê bên kia Cổ Thành Diên Khánh.
Minh luôn hãnh diện khoe với bọn tôi về
quê hương “Cổ Thành”. Anh thường gọi đó là “la Citadelle” và gần
như thuộc lòng sử tích: “được chúa Nguyễn Phúc Ánh xây từ thế kỷ
17 và lần lượt do các ông Nguyễn Văn Thành và Võ Tánh trấn thủ.
Võ Tánh là một dũng tướng bất khuất, sau này đã tự thiêu tuẫn
tiết trước khi thành Bình Định lọt vào tay tướng Trần Quang Diệu
của Tây Sơn. Có lẽ vì vậy mà ngôi trường trung học lớn nhất miền
duyên hải của chúng ta mang tên Võ Tánh, để nêu gương sĩ khí cho
đám học trò.” Minh còn đọc đi đọc lại bài thơ của công chúa Ngọc
Du khóc phu quân tướng công Võ Tánh, làm bọn tôi thuộc nằm lòng
cho đến mãi bây giờ:
Những tưởng ra tay giúp nước nhà
Ai dè binh địa nổi phong ba.
Xót người
vị quốc liều thân ngọc,
Khiến thiếp cô
phòng ủ mặt hoa.
Gối mộng mơ màng duyên
nợ cũ,
Đài mây xiêu lạc phách hồn xa.
Lửa trung đốt đỏ gương hào kiệt,
Nóng
ruột thuyền quyên giọt lệ sa!
Có lẽ chính quê hương Cổ Thành và hình
ảnh dũng tướng Võ Tánh in rất đậm trong trí óc và tâm hồn Minh từ
thuở ấu thơ, đã hun đúc trong Minh một mẫu người lý tưởng sau
này.
Vào những mùa
thi, căn nhà trọ khá oi bức và đèn điện không đủ sáng, bọn tôi
thường rủ nhau đạp xe xuống bờ biển, nơi có các trụ đèn tỏa sáng,
vừa học bài vừa nhìn biển trời mênh mông mà xây mộng tương lai.
Có lần Minh bảo “sau này nhất định tao sẽ chọn binh nghiệp để đọ
sức cùng nắng mưa và tha hồ xông pha trận mạc”. Tôi cười đùa:
“Mày nói hay như đang hát tuồng Thuyền Ra Cửa Biển!” (lúc ấy gánh
hát Thanh Minh Thanh Nga đang diễn vở tuồng này tại rạp Minh Châu
– Nha Trang).
Là bạn, nhưng dường như tất cả mọi thứ trên đời ông trời đã dành
cho Minh nhiều hơn tôi: đẹp trai hơn, to con hơn, võ nghệ, đàn
hát và nhất là học hành cũng giỏi hơn. Chơi đàn và đọc sách là
hai món tiêu khiển của Minh. Anh đọc rất nhiều sách, từ truyện
Tam Quốc Chí đến Đệ Nhị Thế Chiến, từ các sách nghiên cứu Khoa
Học đến Thiên Văn Học. Trí nhớ của Minh rất tốt, anh nhớ từng chi
tiết và làm bọn tôi mê mẩn mỗi lần ngồi nghe anh kể lại. Ngoài ra
Minh rất tư cách, tính tình bộc trực, thẳng thắn. Một lần có tay
“anh chị” ở đầu hẻm hiểu lầm, tưởng tôi làm ngã cái xe gắn máy
của y, lớn tiếng ăn hiếp, Minh bênh vực tôi, ôn tồn nói điều phải
trái, nhưng gã kia hung hăng ra tay trước, Minh không đánh lại,
chỉ đỡ vài đòn mà hắn đã té nhào không đứng lên được. Minh đưa
tay kéo hắn lên và phủi bụi đất bám trên mặt hắn. Thấy Minh võ
nghệ cao cường, có khí phách và lòng hào hiệp, hắn ta phục, bắt
tay xin làm bạn, đãi bọn tôi một chầu phở Hợp Lợi. Sau lần ấy,
tôi mới biết bạn tôi “văn võ song toàn”.
Cứ đến mùa Hè, tôi đạp xe lên quê Minh
ở chơi một vài tuần. Nhà Minh ở gần con sông chảy uốn khúc qua
một vài khu xóm làng và ruộng đồng tĩnh mịch. Ban đêm, tôi theo
Minh và đám bạn bè, ra cắm lều, đàn hát, câu cá và ngủ lại bên bờ
sông. Khung cảnh êm đềm thơ mộng. Đêm mùa Hè, trời trong vắt, bọn
tôi thường đua nhau đếm thử có bao nhiêu vì sao, tìm trong các
dải ngân hà, xem nơi nào có cái cầu Ô Thước của Ngưu Lang Chức
Nữ. Minh biết tên khá nhiều các ngôi sao, và lúc ấy Minh đã dạy
bọn tôi biết cách nhìn sao trời để định hướng và dự đoán cả thời
tiết nữa. Minh còn giải thích về các thiên hà, tinh tú trong vũ
trụ mênh mông, có những vì sao mang cái tên kèm theo một huyền
thoại, rồi kể cho bọn tôi nghe truyện Les Étoiles của nhà văn
Alphonse Daudet mà thầy Cung Giũ Nguyên có nói qua trong giờ Văn
Học Sử Pháp. Có những vì sao sáng lấp lánh, bọn tôi đua nhau
giành lấy. Ai “xí” được ngôi sao nào lóe lên trước nhất sẽ được
đặt tên mình và tên một cô bạn học trò đã từng khuấy động trái
tim. Trong bọn, Minh là người tìm được cho mình nhiều ngôi sao
nhất. Nhưng có một điều lạ, là ngôi sao nào anh giành được và đặt
tên mình, đều lóe sáng lên, nhấp nháy vài lần rồi bỗng dưng vụt
tắt, biến mất trên bầu trời, giữa hằng hà tinh tú khác. Nằm chờ
mãi không thấy hiện lên, Minh bèn phân tích hiện tượng này, nhưng
rồi cả anh và bọn tôi đều xuýt xoa nuối tiếc.
Ngày ấy, chúng tôi đều con nhà nghèo lo
đi học, chưa có người yêu và cũng không dám mơ tưởng tới chuyện
yêu đương, nhưng dường như trong trái tim khờ khạo của đứa nào
cũng phảng phất bóng hình một cô bạn học trò cùng lớp hoặc chung
trường. Trong những lần tâm tình, hay lúc đặt tên cho những vì
sao, Minh cũng thường nhắc tên một cô học trò cùng quê, học sau
Minh hai lớp. Cô bé có làn da trắng, đôi môi mọng đỏ, hiền hậu dễ
thương, mà bọn tôi đã gặp một đôi lần.
Xong tú tài, đang học ở Đại Học Khoa
Học Sài Gòn thì Minh tình nguyện vào Khóa 20 Võ Bị. Con đường võ
nghiệp mà Minh đã từng nhiều lần tâm tình với đám bạn bè là anh
sẽ chọn, mặc dù với khả năng, anh còn có thể tiến xa trên đường
học vấn. Bạn bè có người khuyên Minh vào Trường Hải Quân ở ngay
Nha Trang để được gần nhà và sau này trong các chuyến hải hành
tha hồ ngắm sao trời mà đặt tên cho người tình trong mộng. Nhưng
Minh nhất quyết chọn Trường Võ Bị. Lúc ấy tôi thầm nghĩ, một
người có khả năng, phong độ và tư cách như Minh, lại được đào tạo
bởi một quân trường danh tiếng, chắc chắn sẽ trở thành một sĩ
quan, một cấp chỉ huy đảm lược và mẫu mực sau này.
Đúng vào một ngày Giáng Sinh, đám bạn
bè chúng tôi tiễn Minh lên Đà Lạt. Cùng nhập học Khóa 20VB với
Minh còn có một số các anh cựu học sinh xuất sắc khác của trường
Võ Tánh: Phạm Cang, Hoàng Văn An, Hồ Đắc Tùng, Cao Đình Phú,
Quách Giám, Võ Anh Tuấn, Nguyễn Công Lắm, v.v. Chia tay Minh, bọn
tôi cũng mỗi thằng mỗi ngã. Sau đó hơn tám tháng, tôi và hai
thằng bạn khác vào quân trường Thủ Đức.
Những ngày đầu năm 1965, khi chúng tôi
đang thực tập hành quân cuối khóa tại bãi tập bên bờ sông Đồng
Nai, thì nghe các sĩ quan cán bộ và anh em SVSQ bàn tán về trận
chiến Bình Giã rất khốc liệt. Tiểu Đoàn 30, 33 BĐQ và nhất là
Tiểu Đoàn 4 TQLC bị tổn thất rất nặng nề. Cả tiểu đoàn trưởng,
tiểu đoàn phó, y sĩ trưởng và gần 20 sĩ quan khác đã hy sinh.
Chúng tôi bàng hoàng khi biết được trong số các sĩ quan tử trận
có ba thiếu úy tân khoa vừa mới tốt nhiệp Khóa 19VB Đà Lạt, 1 BĐQ
(Nguyễn Thái Quan) và 2 TQLC (Võ Thành Kháng, Nguyễn Văn Hùng).
Họ đã hy sinh ngay trong trận đánh đầu đời, chỉ sau hơn hai tuần
trình diện đơn vị. Đặc biệt trong số này có vị thủ khoa Võ Thành
Kháng. Người sĩ quan tân khoa ưu tú đã bắn bốn mũi tên đi bốn
phương trời trong ngày lễ ra trường, và mang theo rất nhiều hào
quang cho con đường binh nghiệp. Bọn tôi không ai quen biết anh
Võ Thành Kháng cũng như các anh cùng khóa 19 VB vừa tử trận,
nhưng tất cả đều ngậm ngùi tiếc thương những sĩ quan rất trẻ,
chọn binh nghiệp bảo vệ giang sơn, nhưng vừa được đào tạo văn võ
song toàn mà đã hy sinh khi chưa kịp thi thố tài năng, chưa có cơ
hội để “đem hết sở tồn làm sở dụng”, mà nếu còn sống chắc chắn sẽ
trở thành những cấp chỉ huy tài giỏi sau này. Khi ấy, bỗng dưng
tôi nhớ tới Phan Ái Minh, người bạn thân tài hoa của tôi đang
theo học Khóa 20 Đà Lạt, và tất nhiên cũng thoáng một chút âu lo
cho số phận của chính mình. Cuộc chiến đang có dấu hiệu bắt đầu
khốc liệt.
Một
sự kiện trùng hợp đặc biệt khác làm tôi không thể nào quên. Người
kể cho chúng tôi nghe chi tiết trận Bình Giã và danh tánh các sĩ
quan hy sinh trong trận chiến khốc liệt này là anh Dương Văn
Chánh, người bạn cùng trung đội SVSQ Thủ Đức với tôi. Nhờ có
người thân quen ở TQLC nên anh biết rõ từng chi tiết một. Chánh
đang học ở đại học luật khoa thì nhận lệnh động viên. Tướng tá
phong trần, nước da sạm đen, giọng nói khàn khàn, đôi mắt sáng,
tính tình hiền lành và trầm ngâm, ít nói. Ra trường, anh là một
trong số rất ít (hình như chỉ có bốn người) được chọn về binh
chủng Nhảy Dù. Sau ngày mãn khóa, khi chúng tôi đã ra đơn vị và
tham dự nhiều cuộc hành quân, thì Dương Văn Chánh vẫn còn đang
học nhảy dù. Vậy mà đến giữa tháng 6/65, tôi bất ngờ được tin
Chánh vừa hy sinh trong trận Đồng Xoài. Có lẽ đó cũng là trận
đánh đầu đời của Chánh. Và cũng khi ấy, chúng tôi mới biết Chánh
được bổ sung về Tiểu Đoàn 7 thuộc Chiến Đoàn 2 ND mà vị Chiến
Đoàn Trưởng, Trung tá Trương Quang Ân, là anh rể của Chánh. (Ba
năm sau ông là Chuẩn tướng Tư Lệnh Sư Đoàn của tôi).
Là một sĩ quan trừ bị, khi bước chân
vào quân trường, Chánh không phải là người chọn binh nghiệp,
nhưng với một người có nhiều khả năng và cá tính như Chánh, nhất
định phải là một người lính can trường, được hầu hết bạn bè cùng
khóa kỳ vọng trở thành một cấp chỉ huy tài giỏi sau này, nhưng
anh đã hy sinh quá sớm. Cái chết của Chánh làm tôi lại nhớ đến
bầu trời tuổi thơ ngày xưa của bọn tôi ở quê Minh, bên kia Cổ
Thành Diên Khánh và mơ hồ như nhìn thấy một vì sao nữa vừa mới
lóe lên rồi vụt tắt!
Khi đang hành quân ở Phú Yên, tôi nhận
được thư Minh báo tin anh chuẩn bị làm lễ ra trường. Minh bảo sẽ
cố gắng để được đi Nhày Dù hay TQLC, còn nếu ra Bộ Binh thì sẽ
chọn về Sư Đoàn 23 để được gần tôi cùng một số bạn bè khác cho
vui.
Tôi vào
quân trường Thủ Đức sau hơn nửa năm nhưng lại ra đơn vị trước
Minh. Vì thời gian học ở Võ Bị lúc ấy gấp ba lần ở Thủ Đức. Hơn
nữa, đặc biệt so với các khóa trước, Khóa 20 VB, sau khi tốt
nghiệp, còn phải theo học khóa Rừng Núi Sình Lầy tại TTHL/BĐQ Dục
Mỹ thêm 42 ngày.
Khoảng đầu tháng 2 năm 1966, hình như
ngay sau Tết nguyên đán, tôi rất vui mừng được tin Minh bổ sung
về cùng Trung Đoàn với tôi. Minh về Tiểu Đoàn 4, còn tôi đang ở
Tiểu Đoàn 3. Lúc ấy, đơn vị tôi đang hành quân ở Di Linh (Lâm
Đồng) còn tiểu đoàn của Minh thì hành quân ở Lạc An (Khánh Hòa).
Hai đứa hẹn gặp nhau sau cuộc hành quân, uống một chầu mừng cho
cuộc trùng phùng. Nhưng rồi cuộc hẹn đã không thành và tôi không
bao giờ có cơ hội để được gặp lại Minh, người bạn đa tài mà tôi
hằng mến mộ cả một thời đi học.
Cuộc hành quân dài hạn ở Di Linh vừa
kết thúc, tiểu đoàn tôi không trở lại Nha Trang như dự trù mà lại
nhận lệnh di chuyển đến Phan Thiết, tăng phái cho TK Bình Thuận,
phối hợp với một đơn vị Thiết Kỵ của Hoa Kỳ, hành quân giải tỏa
mật khu Lê Hồng Phong. Một mật khu rộng lớn và địa thế hiểm trở
bị Cộng quân chiếm cứ khá lâu. Tại tuyến xuất phát, tôi được anh
sĩ quan truyền tin Tiểu Đoàn, cùng quê với Minh, cho biết Phan Ái
Minh đã hy sinh tại Lạc An trước đó hai ngày, khi đang điều động
trung đội tiến chiếm mục tiêu. Tôi bàng hoàng, xót xa khi vừa mất
một người bạn mà mình hằng mến phục, quân đội cũng vừa mất đi một
sĩ quan ưu tú, mà nếu còn sống chắc chắn sẽ trở thành một cấp chỉ
huy tài giỏi. Tôi mang hình ảnh của Minh theo suốt cuộc hành quân
cam go hôm ấy. Cuộc hành quân kết thúc toàn thắng. Tôi nghĩ, có
thể hình ảnh của Minh đã tạo thêm sức mạnh cho tôi để đơn vị tôi
có được chiến thắng vẻ vang này.
Mấy đêm liền sau đó, tôi nằm trằn trọc
nghĩ tới Minh, nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Nhớ những đêm
cùng Minh và đám bạn bè nằm bên bờ con sông quê dưới bầu trời
lung linh những vì sao, mầu nhiệm. Bỗng tôi giật mình khi nghĩ
tới một điều kỳ lạ: các vì sao mà Minh đã chọn để đặt tên mình,
tất cả chỉ vừa lóe sáng lên rồi vụt tắt. Và nhớ tới người con gái
nào đó, được Minh trầm trồ tha thiết đặt tên, không biết nếu nghe
được câu chuyện thơ mộng này lòng cô có nhiều xúc động? Tôi (và
chắc có cả Minh nữa) thầm cầu mong cho cô được tròn hạnh phúc sau
này.
Khóa 20VB
được bổ sung về đơn vị tôi còn có các anh Vũ Phúc Sinh, Hoàng Văn
An, Cao Đình Phú, Bùi Hữu Kiệt, Dương Đình Chính, Hồ Đắc Tùng,
sau này đều là những cấp chỉ huy giỏi. Anh Vũ Phúc Sinh, người
cùng về TĐ 4 với Minh, đã được đặc cách lên trung úy chỉ 9 tháng
sau ngày ra đơn vị, Anh Hoàng Văn An là sĩ quan đẹp trai nhất
Trung Đoàn, tính tình vui vẻ, cương trực, được mọi người từ quan
tới lính yêu thương. Rất tiếc là các anh đã thuyên chuyển, rời
khỏi đơn vị khá sớm, sau khi nắm đại đội và đánh thắng vài trận,
để lại bao luyến thương và tiếc nuối cho tất cả mọi người. Dương
Đình Chính đã tử trận (mất tích) tại chiến trường Kontum đầu năm
1973, khi vừa lên nắm Tiểu Đoàn 1. Bùi Hữu Kiệt thuyên chuyển về
TK Ninh Thuận, nắm một tiểu đoàn ĐPQ và hy sinh tại Bình Định
cuối năm 1972 khi dắt tiểu đoàn tăng cường cho mặt trận này.
Người cuối cùng còn ở lại đơn vị là anh Hồ Đắc Tùng, sau này là
một tiểu đoàn trưởng đã đóng góp nhiều chiến công trong chiến
thắng Kontum mùa Hè 1972.
Khóa 20 VB đã có rất nhiều cấp chỉ huy
lỗi lạc ở các quân, binh chủng, làm rạng danh quân lực. Một số đã
thăng tiến rất nhanh, giữ các chức vụ trung đoàn trưởng BB, liên
đoàn phó BĐQ. Sau này khi biết được một số trong những tên tuổi
của Khóa 20 VB từng nổi danh trên các chiến trường: các anh Hoàng
Mão, Lại Thế Thiết, Huỳnh Bá An, Vương Mộng Long, Phạm Cang,
Quách Vĩnh Trường, Nguyễn Thái Bửu, Trương Phúc, Đoàn Minh
Phương, Trương Dưỡng, Nguyễn Văn Măng, Phạm Văn Tiền... tôi luôn
nghĩ đến Phan Ái Minh, người bạn đa tài của tôi, và nhớ tới những
vì sao sớm vụt tắt trên bầu trời tuổi thơ của chúng tôi thuở
trước.
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Tat Thang Vu chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, February 27, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang