Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký
Chủ đề:
Na–Uy
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Như vậy là tôi sẽ phải rời xa Na–Uy, đất nước đã cưu mang
tôi và sẽ còn mãi in đậm những dấu chân tôi trong cả một quãng
đời hơn 30 năm lưu lạc. Cũng như tâm trạng của những ngày tìm
cách vượt biên, rời khỏi Việt Nam, nơi chôn nhau cắt rốn, câu hỏi
này đã làm tôi ưu tư trằn trọc nhiều đêm, như sắp phải cắt đi một
phần máu thịt ràng buộc với chính sự sống của mình.
Sau bậc trung học ở Na–Uy, bốn đứa con
lần lượt được học bổng sang Mỹ du học từ năm 1990. Có việc làm
sau khi tốt nghiệp, nên ba cháu đã chọn ở lại đây lập nghiệp và
trở thành công dân Mỹ, mong muốn bảo lãnh cha mẹ, khi về hưu,
sang sống với các cháu những năm cuối đời, và với khí hậu ấm áp
của vùng biển Cali sẽ làm người già đỡ căn bệnh đau nhức các khớp
xương khi mùa đông Bắc Âu mang cái lạnh trở về. Mấy năm nay, sau
khi về hưu, chúng tôi cũng chỉ sang Cali ở với các con sáu tháng
mùa đông, còn sáu tháng mùa hè về lại với Na–Uy. Vậy mà trong
những ngày mùa đông nắng ấm Cali, tôi vẫn da diết nhớ về Na–Uy
với cả khung trời ngập đầy tuyết trắng, những hàng cây trước nhà,
vào đêm Giáng Sinh, đóng băng, trở thành những cây thủy tinh lung
linh dưới ánh đèn đường. Tôi nhớ cả cái không khí yên bình tĩnh
mịch và những người bản xứ láng giềng tốt bụng. Nhiều lúc tôi
ngồi bất động, thả hồn về Na–Uy, tìm lại từng dấu chân lưu lạc
của mình.
Hơn
ba mươi năm trước, khi phải đành lòng bỏ lại quê hương, bao nhiêu
người thân và mồ mả cha mẹ ông bà, ra đi trên chiếc thuyền đánh
cá mong manh, cũng như rất nhiều người, tôi không hề nghĩ là mình
sẽ đến một đất nước xa lạ có tên Na–uy. Cái tên Norway, Norvège,
tôi chỉ nhớ loáng thoáng qua phim The Vikings mà tôi đã xem qua
lúc còn đi học, và cái giải Nobel Hòa Bình năm 1973 trao lầm cho
Kissinger – Lê Đức Thọ, đã từng gây cho tôi cái ác cảm với đất
nước xa xăm lạ lẫm này. Đặc biệt, năm 1978, khi đang ở tù ngoài
Yên Bái, nhân một ngày lễ lớn của Cộng sản, tổ tù chúng tôi được
phát một hộp thịt cá voi. Thấy ngoài hộp thiếc có ghi “Made in
Norway”, bọn tôi càng ghét thêm cái tên này, vì nghĩ đó là một
quốc gia thân Cộng.
Chiếc thuyền nhỏ chở theo 52 người, gần
một nửa là đàn bà và con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Cả
bầu trời phủ kín mây đen. Những ngọn sóng bạc đầu từ trên cao phủ
xuống, như muốn nuốt chửng con thuyền nhỏ mong manh. Mệnh số 52
con người chỉ còn biết phó thác cho trời nước mênh mông. Bóng tối
tử thần bủa vây khắp phía. Con thuyền bây giờ như cánh bướm nhỏ
rơi giữa dòng thác lũ, chìm xuống ngoi lên tả tơi, thoi thóp.
Chưa khi nào con người lại quá nhỏ bé và bất lực trước thiên
nhiên như lúc này đây. Người điều khiển chiếc thuyền là anh bạn
tù, một sĩ quan Hải Quân trước 75. Dù từng làm hạm trưởng, giàu
kinh nghiệm hải hành, nhưng bây giờ chỉ còn biết cố giữ cho chiếc
thuyền không nằm ngang để bị sóng đánh vỡ. Khả năng đó trong lúc
này đã là một điều tuyệt vời, nhưng lại quá nhỏ nhoi trước sức
mạnh của phong ba. Đám thanh niên thi nhau tát nước tràn vào liên
tục có lúc gần ngập cả con thuyền. Chỉ sau một ngày đêm, tất cả
đều mệt lả, đuối sức. Mọi người chỉ còn biết nhắm mắt, miệng lâm
râm lời cầu nguyện. Bất ngờ có người hét lên và chỉ ra phía trước
mặt. Tất cả nhốn nháo nhìn về hướng ấy. Một cái gì to lớn màu đỏ
chói chập chờn xuất hiện giữa trùng khơi sóng gió. Mới đầu chỉ
thấy mấy cái bồn lớn, tưởng như những cây trụ cao to trong một
ngôi chùa vĩ đại, cho mọi người cái cảm giác như đang ở trên một
thế giới nào đó, huyễn hoặc, mơ hồ. Khi nhận ra chiếc tàu thật
lớn, ai cũng thầm nghĩ là có điều gì màu nhiệm được Thượng Đế gởi
đến để cứu vớt chúng tôi trong cơn khốn nguy tuyệt vọng.
Chiếc tàu mang cái tên với vài mẫu tự
rất lạ (Høegh). Có người nghĩ là chữ Nga. Nhưng trong hoàn cảnh
này dù là tàu nước nào, cũng phải sống trước đã. Nhưng khi chúng
tôi cố gắng cho thuyền đến gần tàu, thì họ lại tránh ra xa. Bao
lần như vậy làm chúng tôi thất vọng và thầm oán trách. Nhưng cuối
cùng chiếc tàu ngừng hẳn lại, hụ còi làm dấu hiệu cho thuyền
chúng tôi chạy đến. Khi chiếc thuyền con cặp vào thành tàu cao
chót vót, một số thủy thủ trên tàu thòng những chiếc thang dây và
đu mình xuống để bồng những đứa con nít hoặc cõng trên vai những
người đàn bà yếu mệt lên tàu. Một số khác, có cả vài người đàn
bà, đứng trên thành tàu, đưa tay đón lấy từng người. Chúng tôi đã
nhận ra đây phải là những con người từ tâm, đến từ một quốc gia
giàu lòng nhân đạo.
Tôi và anh bạn Hải Quân là hai người
cuối cùng lên tàu. Khi nói chuyện với vị thuyền phó, được biết
chiếc tàu này thuộc Vương Quốc Na–Uy (Kingdom Of Norway) và đang
trên hải trình công tác chở dầu từ Nhật sang Singapore. Và cơn
bão chỉ mới bắt đầu. Trận bão chính khuya nay mới tới. Nếu tàu
không vớt, chắc chắn chúng tôi không thể nào sống sót qua đêm
nay. Ông cũng cho biết sở dĩ ông không cho chiếc thuyền nhỏ của
chúng tôi lại gần khi tàu lớn đang chạy, vì lo ngại thuyền sẽ bị
nhận chìm bởi sóng từ chiếc tàu lớn tạo ra, nên ông phải cho tàu
dừng hẳn lại trước khi cho chúng tôi cặp vào.
Chúng tôi đem tặng cho ông thuyền
trưởng chiếc hải bàn, nói lời cám ơn và để làm kỷ niệm. Ông đưa
hai chúng tôi ra sàn tàu để chứng kiến và từ biệt chiếc thuyền
con, khi ông cho nhận chìm bằng cách cho rú mạnh máy tàu. Đứng
nghiêm đưa tay chào vĩnh biệt, lòng chúng tôi thật bùi ngùi, khi
nghĩ là chiếc thuyền mong manh ấy đã đưa chúng tôi vượt bao sóng
gió, từng chạm mặt với tử thần, nhưng cuối cùng tất cả chúng tôi
đã được an bình để tới bến bờ, còn chiếc thuyền thì lại bị nhận
chìm vào đáy của đại dương. Và cũng kể từ giờ phút ấy, hai tiếng
Na–Uy gắn liền với phần đời còn lại của chúng tôi.
Sau khi tắm rửa xong, đám đàn ông con trai thì được phát cho
những bộ quần áo kaki màu vàng của thủy thủ, phụ nữ thì những
chiếc áo blue trắng của các cô y tá. Còn đám con nít thì được áo
thun đủ màu và quần short. Chúng tôi được đưa xuống các phòng ngủ
nghỉ ngơi, và chiều hôm đó được ăn một bữa cơm Tây thịnh soạn. Vị
thuyền trưởng cho biết là sẽ đưa chúng tôi sang gởi tại trại tị
nạn Singapore, và cho mỗi người được gởi ba cái điện tín về ba
địa chỉ khác nhau để báo tin cho gia đình. Ông còn cho biết thêm,
trước đây chiếc tàu này do ông làm hạm trưởng cũng đã từng cứu
vớt bốn chiếc thuyền tỵ nạn từ Việt Nam. Đọc danh sách những
thuyền nhân trong bốn chiếc thuyền này, hầu hết phát xuất từ miền
Tây, chúng tôi không nhận ra có người quen biết.
Hai ngày đêm trên tàu với chúng tôi là
cả một thiên đường. Mặc dù bên ngoài, cơn bão cấp sáu nhiều lúc
làm con tàu lắc lư, nhưng trên tàu chúng tôi cảm thấy thật yên ả
hạnh phúc. Chúng tôi được bác sĩ khám bệnh, cấp thuốc, ăn uống
thịnh soạn. Đám con nít có quà, bắt đầu đừa giỡn, vui chơi.
Đêm cuối cùng, ông thuyền trưởng mong
muốn có một buổi cơm chung với tất cả thủy thủ trên tàu cùng
những người tỵ nạn. Chúng tôi thành lập một tổ nhà bếp. Họ cung
cấp mọi thực phẩm theo yêu cầu. Một bữa ăn với thực đơn hoàn toàn
Việt Nam. Vừa thích thú vừa cảm động.
Sau hơn hai ngày đêm, tàu cặp vào cảng
Singapore. Tất cả thủy thủ đoàn đứng thành hai hàng dài từ đài
chỉ huy xuống tận cầu tàu, bắt tay và ôm từng người chúng tôi
tiễn biệt. Nhiều người đã bật khóc. Tôi vừa cảm động vừa đau đớn
trong lòng. Cảm động vì phải chia tay những ân nhân của mình,
nhưng đau đớn vì nghĩ họ là những người xa lạ, không cùng ngôn
ngữ, màu da màu tóc, mà đã cứu vớt, hết lòng yêu thương lo lắng
cho chúng tôi, trong lúc những người anh em cùng một nhà lại
thẳng tay đàn áp hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng,
đến nỗi phải đánh đổi cả mạng sống để bỏ nước ra đi. Nếu không có
chiếc tàu Na–Uy này cứu vớt, chắc chắn 52 người chúng tôi đã bỏ
mình trên biển khơi, cũng giống như hàng trăm ngàn người bất hạnh
khác, không một ai hay biết.
Chúng tôi được gởi vào trại tị nạn
Hawkins Road, một doanh trại cũ của quân đội Anh tại Singapore.
Tòa đại sứ Na–Uy tại đây đến thăm nom, chăm sóc và gởi hai cô
giáo thiện nguyện đến để sinh hoạt và dạy ngôn ngữ Na–Uy. Sau ba
tháng, chúng tôi được chuyển sang trại chuyển tiếp Bataan ở Phi
Luật Tân. Trại chia ra 9 Vùng. Riêng Vùng I được dành cho những
người được tàu Na–uy vớt, và hầu hết sẽ đi định cư tại Na–Uy. Ông
Đại sứ Na–Uy tại Phi Luật Tân thường xuyên đến thăm nom giúp đỡ
chúng tôi. Có lẽ không có một vị đại sứ nào hiền lành, phúc hậu,
và bình dị như ông đại sứ Na–Uy này. Một toán cô thầy giáo được
chọn lọc, từ Na–Uy sang để dạy tiếng Na–Uy cũng như hướng dẫn
chúng tôi về lịch sử, địa lý, văn hóa, tập quán và nhiều hiểu
biết khác về xã hội và đất nước này. Một số người tỵ nạn được
chọn ra, học riêng thêm một số giờ, để làm phụ giảng và thông
dịch. Tôi là một trong vài người may mắn được chọn.
Sau tám tháng, chúng tôi lần lượt được
đưa sang định cư chính thức tại Na–Uy. Gia đình tôi lúc ấy có 10
người, gồm vợ chồng tôi, 6 đứa con và 2 đứa cháu, đến phi trường
Fornebu Oslo vào buổi chiều cuối hè. Trời nắng đẹp. Chúng tôi
được hai người đàn bà thuộc văn phòng Thư ký Tỵ nạn và Phòng Xã
Hội kommune Skedsmo, địa hạt nơi tôi đến định cư, đón chúng tôi
tại khu nhận hành lý của phi trường. Khi bước ra cổng, tôi được
một số phóng viên báo chí và đài truyền hình phỏng vấn. Hai người
đàn bà mời gia đình chúng tôi đến ăn tại một nhà hàng Tàu.
Khi về đến nhà, bất ngờ chúng tôi thấy
các phóng viên lúc nãy đang chờ trước cổng. Căn nhà rộng, loại
rekkehus (townhouse) hai tầng, có cả sân trước sân sau được trồng
hoa và lát cỏ, trang bị đầy đủ nội thất, có cả một TV mới và
trong tủ lạnh đầy đủ thức ăn nước uống. Các phóng viên mời chúng
tôi vào phòng khách, vừa uống cà phê vừa để họ quay phim, chụp
hình và phỏng vấn. Họ hỏi về nhiều đề tài, đặc biệt là chiến
tranh Việt Nam và chuyện tù đày, khổ ải của người miền Nam sau
ngày VNCH thất thủ vào tay Cộng sản, cùng cảm tưởng khi đến
Na–Uy. Với mớ vốn liếng tiếng Na–Uy và cả tiếng Anh ít ỏi, tôi cố
gắng trình bày và chỉ hy vọng họ hiểu được những điều chính yếu
mà mình muốn nói. Trước khi từ giã, mọi người đều cảm động ôm lấy
chúng tôi cùng với những lời chúc tốt lành cho một đời sống mới.
Tôi rất ngạc nhiên, khi bà Trưởng Phòng Tỵ Nạn đưa chúng tôi một
xâu chìa khóa, và trao cho chúng tôi tờ giấy chủ quyền ngôi nhà,
mà bà cho biết kommune đã đứng ra mượn tiền mua trước, và họ sẽ
trả mọi thứ tiền cho đến khi nào chúng tôi đi làm và có khả năng
tự trả được. (Vì họ được mượn từ quỹ gia cư của chính phủ nên
tiền lời rất thấp).
Buổi tối, cơm nước xong, cả nhà quây
quần trước cái TV. Thằng con trai lớn ra điều mới học được văn
minh, bấm tới bấm lui tìm đài. Cả đám bất ngờ nhìn thấy dung nhan
của mình trên màn ảnh. Thì ra chương trình phóng sự. Họ đang kể
về gia đình chúng tôi: “những công dân mới của Na Uy, mà ông bố
đã từng ở tù nhiều năm, giống nhiều người Na Uy bị nhốt trong các
trại cải tạo của Đức quốc xã, cái thời Hitler làm mưa làm gió ở
Âu Châu, và đã can đảm dắt theo mấy đứa con nhỏ vượt đại dương
trên một chiếc thuyền đánh cá mong manh”.
Nghe họ ca ngợi mình mà tôi xấu hổ. Dù
gì tôi cũng là kẻ bỏ nước tha phương, với họ ít nhiều gì cũng là
một cành tầm gởi. Còn chuyện vượt biển, vượt biên, đến bước đường
cùng thì ai cũng phải liều mạng thế thôi, chứ có hàng triệu người
còn can đảm gấp vạn lần tôi. Nhiều người đi bằng đường bộ, trèo
núi, băng rừng, lội suối, bơi sông, qua Cam Bốt, Thái Lan, sống
chết với bọn hải tặc, để vài năm sau mới đến được Singapore. Và
dĩ nhiên đã có biết bao nhiêu người chẳng bao giờ tới bến.
Khi cả nhà ngủ vùi sau hai ngày di
chuyển mệt nhọc (từ trại Bataan đến Manila và từ Manila đến
Na–Uy), tôi một mình xuống ngồi ở phòng khách, suy nghĩ thật
nhiều về những tháng ngày sắp tới, ưu tư cho chính bản thân mình
và nhất là đám con nhỏ dại, sẽ lớn lên và chấp nhận xứ sở xa lạ
này như một quê hương mới. Nước mắt tôi bỗng trào ra khi nghĩ đến
quê nhà, hồi tưởng một quá khứ có quá nhiều biến đổi thăng trầm
và mất mát, dù đã xa khuất sau lưng, nhưng chắc chắn mãi mãi
không thể nào mờ nhạt. Tôi cũng nghĩ tới thân phận của những
người bạn tù còn ở lại, rồi cuộc đời sẽ không biết ra sao. Thầm
cầu mong cho họ sẽ gặp được nhiều may mắn.
Hôm nay, cả gia đình tôi đang ở trên
một đất nước tận vùng Bắc Âu xa lạ để gầy dựng lại cuộc đời. Các
đứa con thơ dại sẽ lớn lên ở đây. Tất cả sẽ bắt đầu học ngôn ngữ
mới, tập quán mới. Tôi thực sự đã mất quê hương. Tất cả, nếu có
còn chỉ nằm sâu một nơi nào trong tâm tưởng. Nhưng chúng tôi may
mắn được đất nước này mở rộng vòng tay, để được nhận nơi đây làm
quê hương mới. Cái diễm phúc ấy hy vọng sẽ xoa dịu vết thương còn
đang đau đớn trong lòng, mà tôi biết sẽ mãi mãi không bao giờ
lành được.
Sáng hôm sau, bà trưởng phòng tỵ nạn trở lại thăm chúng tôi, dắt
theo hai người đàn bà khác, mà bà giới thiệu là đến từ phòng giáo
dục và phòng xã hội Thị Xã. Hai người sẽ đến thăm gia đình tôi
thường xuyên trong hai tuần, để lo việc học hành cho các con, đưa
chúng tôi đi khám bệnh, làm răng và sắm sửa thêm những gia dụng
theo nhu cầu. Bà đưa tôi đến một ngân hàng gần nhà, mở cho tôi
một trương mục, bỏ vào đó tiền ăn và mọi khoản chi tiêu dành cho
gia đình chúng tôi trong hai tháng đầu. Sau đó, bà sẽ gởi tiếp,
nhưng bà dặn bất cứ khi nào cần cứ ra rút tiền. Và nếu tiền hết
vì bà chưa kịp gởi vào, ngân hàng này sẽ phải ứng trước theo giao
ước của bà.
Thêm một điều rất may mắn cho tôi. Thời gian ở trại tị nạn, tôi
đã được các thầy cô giáo dạy riêng thêm ngôn ngữ Na–Uy để giúp
làm phụ giảng và thông dịch, nên khi sang Na–Uy tôi đã có một ít
vốn liếng tiếng Na–Uy, dù chưa thông thạo lắm. Ngày đầu tiên khi
chúng tôi cùng một số gia đình tỵ nạn khác được bà Trưởng Phòng
Tỵ Nạn đưa đến Phòng Cảnh Sát Ngoại Kiều Thị Xã để được phỏng vấn
làm thủ tục di trú. Vào giờ chót người thông dịch không đến được,
nên tôi đã tình nguyện đứng ra giúp. Không ngờ đó lại là một cơ
hội cho tôi sau này.
Tôi được giới thiệu theo học khóa “Ngôn
ngữ Mùa Hè” tại Đại Học Oslo. Sau đó được làm thông dịch cho Văn
Phòng Xã Hội và Phòng Cảnh Sát, và được gởi theo học một khóa tài
chánh kế toán trong 13 tháng, mà đa số học viên là những công
chức hoặc nhân viên của các phòng sở, công ty gởi đến. Biết thân
phận là người tị nạn, nên tôi cố gắng hết sức để theo kịp, nên
khi mãn khóa nhận được chứng chỉ với số điểm ưu hạng.
Khi cả nhà đang hái dâu ở vùng Drammen,
vừa tiêu khiển vừa kiếm thêm tiền gởi về Việt Nam giúp cha mẹ vợ,
bà cô, cùng một số bạn tù ngày trước, tôi nhận được thư của
kommune thu nhận tôi làm việc tại Kommune Kasseren (Phòng Tài
Chánh Thị Xã) trong một năm. Công việc thật nhàn nhã, nên tôi
được phép đi làm thông dịch thêm theo yêu cầu của các cơ quan
khác và được nhận thêm tiền trả riêng. Đặc biệt việc di chuyển
đều được dùng Taxi do cơ quan ấy đài thọ. Có những ngày chẳng có
việc gì làm, tôi lại ngồi đọc sách để học thêm ngôn ngữ mới. Sau
một năm, tôi nộp đơn xin theo học và làm trong ngành Ngân hàng
Bưu Điện (Postbanken) cho đến ngày về hưu.
Đến Na–Uy tôi mới biết đây là một Vương
quốc có dân số chỉ hơn bốn triệu rưỡi, nhưng đời sống khá cao và
giàu lòng nhân đạo. Gia đình tôi được chăm lo đủ thứ. Tiền phụ
cấp hằng tháng quá đầy đủ. Với chúng tôi có thể nói là thừa thãi.
Ngay sau khi học xong, tôi được việc làm. Khi đi học vẫn được
nhận đủ lương lại còn thêm phụ cấp. Vợ tôi được đi học thêm ngôn
ngữ tại một trường trung học dành cho người lớn và sau đó học
nghề tại trung tâm huấn nghệ dành cho người tỵ nạn, và ngay sau
khi học xong cũng nhận được việc làm chuyên môn về điện tử tại
Siemens, một công ty lớn của Đức. Lương bổng hằng tháng của hai
vợ chồng cộng lại chỉ hơn một nửa số tiến trợ cấp trước kia.
Phòng Xã Hội có nhã ý giúp chúng tôi thêm vì có đông con, nhưng
chúng tôi từ chối vì thấy đã đủ trả mọi chi phí cho đời sống gia
đình. Điều thú vị hơn, đất nước này gồm rừng núi, sông hồ thơ
mộng và quanh năm tĩnh mịch, thích hợp với những người cần sự yên
tĩnh để chữa nhiều vết thương trong lòng còn đang đau đớn như
tôi.
Mùa đông
đầu tiên, khi tuyết bắt đầu rơi trắng bầu trời, chúng tôi được
cấp áo quần, dụng cụ trượt tuyết, và có người đến dạy các con tôi
trượt tuyết. Sau một năm, trong một kỳ thi dành cho tuổi thiếu
niên, cậu con trai út của tôi được lãnh cúp hạng nhất, trở thành
cậu bé trượt tuyết có tiếng trong vùng. Sau đó, chúng tôi còn
được biết thêm, Na–uy là quốc gia thường chiếm nhiều huy chương
vàng nhất tại các Thế Vận Hội Mùa Đông.
Định cư được hơn ba năm. Lúc kinh tế
gia đình và việc học hành của mấy đứa con tạm ổn định, hơn nữa
các con đã lớn cần một ngôi nhà rộng rãi có đủ phòng ốc hơn,
chúng tôi quyết định mua một ngôi nhà lớn nằm dưới thung lũng nhỏ
Harabakken, bên bờ sông Nitelva yên tĩnh, bên kia sông là cánh
đồng cỏ mênh mông tiếp giáp với núi rừng. Cái khung cảnh có mang
một chút hình dáng và màu sắc quê nhà giúp tâm hồn tôi yên ả hơn
mỗi khi thấy lòng trăn trở, nhung nhớ một điều gì. Những lúc
buồn, tôi ngồi hằng giờ trong bao lơn nhìn ra cánh đồng và rừng
núi phía xa xa, để ngỡ là quê hương mình như đang ở phía bên kia
triền núi đó. Và cũng chính nơi đây, tôi đã bắt đầu tập tễnh cầm
bút viết lại cuộc đời mình, thế hệ mình, cuộc chiến bất hạnh và
cuộc tang thương dâu biển mà cả miền Nam Việt Nam đã trải qua.
Ở đất nước bé nhỏ này và với số người
Việt tị nạn khi ấy khoảng 10,000 người, nhưng có một số nhà văn,
nhà thơ tiếng tăm: Nguyễn Thị Vinh, Dương Kiền, Hoài Mỹ, Nguyễn
Hữu Nhật, Tâm Thanh, Khánh Hà, Cung Vĩnh Viễn, Nguyễn Văn Thà...
Bán ngôi nhà cũ của kommune mua giúp lúc ban đầu mới đến, chúng
tôi may mắn lời được một khoản tiền đủ để trả hơn một nửa số tiền
mua ngôi nhà mới. Ngôi nhà này nằm ở một kommune khác. Khi vừa
dọn về nhà mới được hai tuần, tôi nhận được một Ngân Phiếu Trả
Tiền (Utbetalingskort) gởi từ Phòng Xã Hội của kommune cũ, cấp
cho tôi một số tiền gần bằng 10 tháng lương của tôi lúc ấy. Tôi
ngạc nhiên, vì số tiền khá lớn nên nghĩ là có điều gì nhầm lẫn.
Cầm tấm Ngân Phiếu Trả Tiền, tôi đến gặp ông Trưởng Phòng Xã Hội.
Ông cho biết đó là món tiền mà Sở Tỵ Nạn cấp để lo cho gia đình
tôi, nhưng kommune không chi tiêu hết cho chúng tôi, vì con đông
nên không đủ phòng ốc và đồ dùng ở ngôi nhà cũ, hơn nữa chúng tôi
đã đi làm quá sớm sau khi đến Na–Uy, nên ông quyết định gởi cho
chúng tôi để sắm sửa cho ngôi nhà mới. Đã vậy ông còn xin lỗi, vì
đã không lo lắng đủ cho chúng tôi trong thời gian mới tới. Tôi
bắt tay ông từ giã mà trong lòng cảm thấy ngậm ngùi, khi nghĩ là
ở trên quê hương mình bây giờ biết tìm đâu ra những công chức
chính quyền thanh liêm và giàu tấm lòng như thế?
Trong thung lũng nhỏ này chỉ có bốn
ngôi nhà. Ngoài gia đình tôi, một gia đình người bản xứ, còn có
gia đình người Thụy Điển và một gia đình người Đức. Tất cả những
người láng giềng này rất tốt bụng, sau này đều trở thành những
người bạn thân thiết của gia đình tôi.
Gần 30 năm làm việc, tôi may mắn được
sắp xếp làm ở những chi nhánh rất gần nhà. Được hưởng bậc lương
tính theo thâm niên từ khi bắt đầu làm việc tại Việt Nam. Hầu hết
những đồng nghiệp người bản xứ đều luôn thân tình, giúp đỡ. Điều
làm tôi cảm phục hơn là sự thành thật và tin tưởng lẫn nhau của
họ. Công việc mỗi ngày liên quan tới tiền bạc. Có thời gian mấy
năm tôi được giao cho trách nhiệm thủ quỹ. Vào những ngày trước
Giáng Sinh hay thời điểm trả thuế, số tiền trong tủ sắt lên đến
nhiều chục triệu kroner. Mới đầu, tôi rất ngạc nhiên, khi giao
một số tiền lớn cho mỗi kasse (quày), mà họ chẳng bao giờ kiểm
lại. Có khi, một vài cô cậu sinh viên làm thêm vào các ngày thứ
bảy, hay ngày lễ, làm mất đến mấy chục ngàn, họ vẫn không bị la
rầy hay đuổi việc. Chúng tôi được học và dặn dò, nếu có cướp (cho
dù biết vũ khí là đồ giả), hãy luôn làm theo yêu cầu của kẻ cướp,
đừng bao giờ có ý chống lại. Nhưng điều này chưa hề xảy ra. Họ
rất quý sinh mạng con người. Không phải như dưới chế độ Cộng sản
trên quê tôi, sinh mạng con người chẳng khác gì cỏ rác!
Trong gần 30 năm làm việc, tôi chưa hề
thấy những ông “sếp” nặng lời với bất cứ một nhân viên nào cho dù
khi họ làm sai, thất thoát ít nhiều tiền bạc. Chỉ cần viết một
đôi dòng giải thích là đủ. Ngược lại, đôi lần, trong các buổi
họp, tôi thấy một vài nhân viên lại khiển trách “sếp” chỉ vì một
đôi điều không được hài lòng. Phải nói, đây là một quốc gia có
tinh thần dân chủ cao độ. Tôi nhớ mãi chuyện vợ chồng ông chủ
tịch quốc hội bị nhân viên quan thuế phi trường Oslo chặn lại và
buộc nộp tiền phạt khi hai ông bà đi công cán ở nước ngoài về, và
bà vợ mang trên tay một chiếc nhẫn hột xoàn quên khai báo. Một bà
bộ trưởng quốc phòng, mặc bộ quân phục khi đến thăm binh sĩ Na–Uy
đang tham gia chiến trường khói lửa A Phú Hãn, bị nhiều quân nhân
phê phán, bảo bà không phải là quân nhân, nên không có quyền mặc
quân phục. Bà đã phải lên truyền hình chính thức xin lỗi. Tôi
nghĩ chẳng có quốc gia nào dân chủ hơn. Điều này làm tôi rất hãnh
diện để được trở thành công dân của đất nước này. Và biết đến khi
nào mới có được trên quê tôi?
Sau bậc trung học, bốn đứa con của
chúng tôi muốn sang Mỹ du học. Khi được một đại học ở Mỹ chấp
nhận, tất cả đều được chính phủ Na–Uy cấp học bổng đủ để trả học
phí, tiền bảo hiểm và di chuyển, đến bậc Cao Học. Vợ tôi làm công
nhân cho một công ty điện tử. Có lẽ vì nhiều năm chỉ làm một động
tác, nên vai cánh tay phải bị đau nhức. Bác sĩ xí nghiệp cho nghỉ
một năm có lương để điều trị và sau đó được một hội đồng giám
định y khoa quyết định cho nghỉ vĩnh viễn với hưu bệnh. Lại được
công ty bảo hiểm của xí nghiệp bồi thường một số tiền sai biệt so
với lợi tức hằng tháng trước đó. Bây giờ, tuổi đã già, nhìn lại
quá khứ thăng trầm khốn khó, nhớ lại từng bước chân lưu lạc, lòng
tôi bùi ngùi xúc động. Quê hương vẫn còn mịt mờ xa, khốn đốn
trong bàn tay cai trị của bọn người CS không còn nhân tính. Mai
này, tôi cũng sẽ gởi lại trên quê hương thứ hai này nắm xương
tàn, hướng đầu về cố quốc mà tạ tội cùng núi sông tiên tổ.
Những đứa cháu nội, ngoại của chúng tôi
sinh ra và lớn lên ở Na–Uy, dù không có một kỷ niệm nhỏ nhoi nào
với Việt Nam, nhưng vẫn mãi có những ràng buộc máu thịt, bởi cha
ông là người Việt. Dù nói được tiếng Việt, nhưng các cháu không
thể thấy gần gũi với quê cha đất tổ. Nhiều lúc tôi thấy chạnh
lòng khi nghĩ rồi các thế hệ sau này càng lúc càng xa dần nguồn
cội. Nhưng tôi cũng tự an ủi mình, vì các cháu lớn lên, nhận đất
nước này là quê hương, sẽ cố gắng chăm chỉ học hành để vừa đóng
góp phần trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, vừa trả cái ơn cưu mang
từ những ngày đầu thời ông bà cha mẹ lưu lạc đến đây. Quan trọng
hơn, sẽ học tấm gương những người Do Thái, nối tiếp công việc
dang dở của cha ông, góp sức đấu tranh cho no ấm tự do trên quê
hương tiên tổ.
Xin cám ơn Na–Uy, đất nước xa xôi, lạnh
lẽo, nhưng rất nồng ấm tình người. Nơi in đậm mãi những dấu chân
lưu lạc của tôi và cả gia đình. Đã cho chúng tôi, nhất là các con
cháu tôi, một tương lai tốt đẹp như hôm nay, mà nếu còn ở lại
trong nước sẽ phải khốn cùng dưới chế độ phân biệt đối xử của
chính quyền Cộng sản. Xin cám ơn Na–Uy, nơi mà tất cả những người
Việt tỵ nạn đến đây sung sướng và hãnh diện để được nhận là quê
hương thứ hai của mình sau ngày phải đành lòng bỏ nước ra đi.
Một ngày buồn cuối tháng 4, sau đúng 38
năm lưu lạc.
Phạm Tín An
Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, June 1, 2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang