Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký
Chủ đề:
QLVNCH
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Ngày 26/10/1955, khi Tổng thống Ngô Ðình Diệm khai sinh nền Ðệ Nhất
Cộng
Hòa, cũng là ngày Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa (QĐVNCH) chính
thức được thành lập với quân số khoảng 167,000 người. Đến ngày
22/5/1964, với Sắc Lệnh số 161 CP/SL, Chính Phủ Nguyễn Khánh cải
danh thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Và cũng từ đây, song
song với tình hình chiến tranh ngày một leo thang, Quân Lực được
phát triển nhanh chóng với đầy đủ các quân, binh chủng hiện đại, để
trở thành một quân đội qui mô và hùng mạnh nhất nhì Đông Nam Á. Đến
năm 1972, với quân số trên một triệu người gồm đủ các quân, binh
chủng:
1. Quân
Chủng Lục quân: (tác chiến)
– Về lực lượng Bộ Binh, Tổng Trừ Bị,
ĐPQ&NQ:
11 sư
đoàn Bô Binh, 2 sư đoàn tổng trừ bị: Nhảy Dù và Thủy Quân lục Chiến,
17 Liên Đoàn Biệt Động Quân (về sau được thành lập 2 Sư Đoàn BĐQ), 1
Liên Đoàn Biệt Cách Nhảy Dù (đã có kế hoạch biến cải thành Lữ Đoàn),
chưa kể các đơn vị đặc biệt khác trực thuộc Nha Kỹ Thuật: Sở Phòng
Vệ Duyên Hải, các Sở Công Tác, Sở Liên Lạc...
Mỗi Tiểu Khu có từ 6 đến 12 tiểu đoàn Điạ
Phương Quân, (về sau được thành lập 1 hay 2 Liên Đoàn ĐPQ). Ở mỗi
Xã, có từ 1 đến 3 trung đội Nghĩa quân.
– Về Thiết Giáp: ngoài 1 thiết đoàn cơ hữu
của các sư đoàn Bộ Binh, còn có 4 lữ đoàn Kỵ Binh, gồm 21 thiết
đoàn: 3 thiết đoàn Chiến Xa M–48, 18 thiết đoàn Kỵ Binh, trong đó có
13 chi đoàn Chiến Xa M–41, còn lại là các chi đoàn Thiết Quân Vận
M–113. Tại mỗi Tiểu Khu có một chi đội Thám Thính Xa V–100.
Tổng cộng khoảng 2,000 xe tăng và thiết
giáp các loại.
–
Về Pháo Binh: Được thành lập đến cấp tiểu đoàn. Mội tiểu đoàn thông
thường có 18 khẩu đại bác 105ly hay 155ly (ngoại trừ các tiểu đoàn
PB Cơ Động 175ly và PB Phòng Không.)
Mỗi sư đoàn Bộ Binh, tùy theo số trung
đoàn, có từ 4 đến 5 tiểu đoàn Pháo Binh (1 tiểu đoàn PB 155ly và còn
lại là các tiểu đoàn PB 105ly.)
Sư Đoàn Nhảy Dù có 4 tiểu đoàn PB 105ly
(Riêng TĐ4 PBND mới được thành lập đầu năm 1975 nên chỉ có 2 Pháo
đội (12 khẩu 105ly).
Sư Đoàn TQLC có 3 tiểu đoàn Pháo Binh
105ly. (Tiểu Đoàn 4 dự trù thành lập vào đầu năm 1975, nhưng chỉ vừa
mới có 1 pháo đội (PĐ) thì tình hình thay đổi nên đã sáp nhập vào
tiểu đoàn khác.)
Trực thuộc các Quân Đoàn, ngoài các tiểu đoàn PB 105 và 155ly còn
các tiểu đoàn PB Cơ Động 175ly và các tiểu đoàn Phòng Không (Có tất
cả 5 tiểu đoàn PB 175 Cơ Động và 4 tiểu đoàn PB Phòng Không). Tại
mỗi Tiểu Khu có từ 4–7 trung đội PB (Tổng cộng có tất cả 176 trung
đội PB diện địa).
– Ngoài ra tại mỗi sư đoàn Bộ Binh hay
Nhảy Dù và TQLC đều có đầy đủ các đơn vị kỹ thuật và yểm trợ khác:
tiểu đoàn Công Binh, tiểu đoàn Quân Y, tiểu đoàn Tiếp Vận, v.v.
2. Quân Chủng Không Quân:
Không lực Việt Nam Cộng Hòa có 6 sư đoàn.
Không quân tác chiến gồm:
– 20 phi đoàn khu trục, với khoảng 550 phi
cơ A–1H Skyraider, A–37 Dragonfly, và F–5.
– 23 phi đoàn trực thăng, với khoảng 1,000
trực thăng UH–1 Iroquois và CH–47 Chinook. Ở mỗi phi đoàn trực thăng
đều có 1 hay 2 phi đội trực thăng võ trang (gunship), có nơi có cả
phi đội tải thương.
– 8 phi đoàn quan sát với khoảng 200 phi
cơ O–1 (L19) U–6A (L20), U–17 (Cessna), và O–2 Skymaster (chỉ trang
bị cho hai Phi Đoàn 110 ở Đà Nẵng và PĐ118 ở Pleiku).
Không Quân vận tải & yểm trợ:
– 1 Sư đoàn vận tải (gồm 9 phi đoàn vận
tải với khoảng 150 phi cơ C–7 Caribou, C–47 Skytrain, C–119 Flying
Boxcar, và C–130 Hercules).
– 1 không đoàn Tân trang Chế tạo.
– 4 phi đoàn vận tải võ trang “Hỏa Long”
(attack squadron) với các phi cơ Fairchild AC–119, Lockheed AC–130.
– Ngoài ra còn có các Phi đoàn Trắc giác
(tình báo kỹ thuật), Phi đoàn Quan sát, và Biệt đoàn Đặc vụ 314.
3. Quân Chủng Hải Quân:
Gồm có:
– 5 Vùng Duyên Hải và 2 Vùng Sông Ngòi.
– Một Hạm Đội với đầy đủ các loại tàu
chiến.
– Các Lực
lượng: Đặc nhiệm, Duyên Phòng, Duyên Đoàn
(*), Liên Đoàn Tuần giang,
Giang Đoàn Xung phong, Giang Đoàn Ngăn Chặn, Giang Đoàn Tuần Thám,
Giang Đoàn Trục Lôi...
(*)
Tại mỗi Vùng Duyên Hải có từ 6 đến 8
Duyên Đoàn. Tất cả có 28 Duyên Đoàn.
– 1 Liên Đoàn Người Nhái.
Đến tháng 4/1975 HQVN có số lượng tàu bè
như sau:
7 tuần
dương hạm WHEC,
2 khu trục hạm DER,
7 hộ tống hạm PCE,
3 trục lôi hạm MSC,
20 tuần duyên hạm PGM,
6 dương vận hạm LST,
6 hải vận hạm LSM,
3 trợ chiến hạm AGP,
6 hỏa vận hạm YOG,
8 khinh tốc đỉnh PT,
107 duyên tốc đỉnh WPB,
26 tuần duyên đỉnh,
14 giang đỉnh chỉ huy LCM,
16 giang vận hạm
LCU.
4. Các Quân
Trường, Trung Tâm Huấn Luyện:
Để đáp ứng với nhu cầu đào tạo, QLVNCH đã
có:
– Những quân
trường đào tạo sĩ quan và hạ sĩ quan:
Trường Võ Bị QGVN (hậu thân Trường VBLQ Đà
Lạt)
Trường Bộ Binh (hậu thân của Trường
SQTB Thủ Đức)
TTHL Hải Quân (Nha Trang)
TTHL Không Quân (Nha Trang)
Trường Đại Học
CTCT (Đà Lạt)
Trường Hạ Sĩ Quan (Đồng
Đế–Nha Trang)
Trường Thiếu Sinh Quân (Vũng
Tàu)
Trường Quân Y (Sài Gòn)
Trường Nữ Quân Nhân (Sài Gòn)
– Các Trung Tâm Huấn Luyện đào tạo tân
binh (Bộ Binh):
TTHL Quang Trung, TTHL Lam Sơn, TTHL Vạn Kiếp, TTHL Chi Lăng, TTHL
Hòa Cầm, TTHL Đống Đa.
Ngoài ra, tại mỗi Sư đoàn Bộ Binh đều có
một Trung Tâm Huấn Luyện riêng.
– Và các trường chuyên nghiệp tác chiến:
Trường Pháo Binh (Dục Mỹ)
TTHL Biệt Động Quân (Dục Mỹ)
Trường Thiết Giáp (Thủ Đức–Long Thành)
TTHL Nhảy Dù (Sài Gòn)
TTHL Thủy Quân Lục Chiến (Rừng Cấm–Thủ
Đức)
TTHL Lực
Lượng Đặc Biệt Đồng Bà Thìn (giải thể theo binh chủng cuối tháng
12/1970)
TTHL
Người Nhái (Cam Ranh)
(Riêng quân chủng Hải Quân, ngoài TTHL/HQ
Nha Trang, (đào tạo sĩ quan, HSQ, thủy thủ), còn có các TTHL/HQ Cam
Ranh (đào tạo HSQ và thủy thủ), TTHL/HQ Sài Gòn (đào tạo các khóa sĩ
quan đặc biệt, các khóa bổ túc chuyên môn hải hành) và TTHL Tuần
Giang Cát Lái.)
–
Cùng các trường chuyên môn khác:
Trường Tuyền Tin, Trường Quân Cụ, Trường
Quân Nhu, Trường Công Binh, Trường Quân Báo (Cây Mai), Trường Quân
Cảnh, Trường Sinh Ngữ Quân Đội, Trường Hành Chánh Tài Chánh, Trường
Quân Vận (Thông Vận Binh), Trường Tiếp Vận, Trường Quản Trị Nhân
Viên, TTHL Quân Khuyển, Trường Quân Nhạc, Truờng Thể Dục Quân Sự.
– Ngoài ra còn có các trường dành cho
những sĩ quan cao cấp:
– Truờng Chỉ Huy Tham Mưu
– Trường Cao Đẳng Quốc Phòng
Với một quân đội hùng mạnh, được tổ chức
và huấn luyện qui củ theo các quốc gia tiên tiến nhất, tất nhiên có
rất nhiều những qui chế về tổ chức, điều hành, nghi lễ, huy chương,
truyền thống. Đặc biệt trải qua hơn 20 năm chiến đấu với một kẻ thù
hung hãn, tàn ác được tích cực hỗ trợ bởi cả khối cộng sản, đầu sỏ
là Liên Sô và Trung Cộng, nên QLVNCH đã tạo nên bao nhiêu chiến
tích, sản sinh nhiều tướng lãnh, nhiều cấp chỉ huy lỗi lạc cùng với
những chiến sĩ anh hùng sẵn sàng hy sinh giữ nước.
Nhưng rồi, tất cả bỗng sụp đổ, biến mất
trong đớn đau tức tưởi, khi bàn cờ thế giới đổi thay, đồng minh bội
phản.
Một quốc
gia, một quân lực bị bất ngờ xóa sổ, hầu hết các cấp lãnh đạo, chỉ
huy bị giết hay bị đày ải trong ngục tù, ngoài một số đã tuẫn tiết.
Tất cả mọi cơ sở, tài liệu, giấy tờ liên quan đều bị thiêu hủy hay
lọt vào tay địch quân. Một ngọn núi xanh hùng vĩ vừa bị cơn hồng
thủy quái ác nhận chìm xuống biển đỏ, cho dù có làm dậy sóng, nhưng
rồi dần dà cũng mất tăm, lặng lẽ. Những kẻ bội phản, vong ơn có thể
quên, nhưng những người lính VNCH còn sống, dù trôi dạt nơi đâu vẫn
luôn nhớ tới ngôi nhà chung, những quân trường, đơn vị cũ, nơi mình
đã được đào tạo và cùng anh em đồng đội chiến đấu, sống chết với
quân thù. Nhưng muốn tìm lại những dấu tích, hình ảnh của quá khứ
“vàng son” ấy, lại là môt điều không dễ, và gần như không thể.
Rồi với thời gian, nhất là từ sau các đợt
những cựu tù được sang Mỹ định cư theo diện HO, người ta mới dần dà
đọc được nhiều bài viết về các nhân vật anh hùng, hào kiệt, các
chiến tích lẫy lừng trong quân sử, có một số còn có cơ hội mặc lại
bộ quân phục của binh chủng mình. Tuy nhiên việc muốn tìm hiểu đầy
đủ, chính xác về việc hình thành, nhiệm vụ của các cơ cấu trong quân
lực, các quân trường, quân binh chủng, lai lịch thành tích của các
vị tướng lãnh, đặc biệt các loại lễ nghi quân cách, các loại quân
phục, phù hiệu, huy chương, tưởng lục, v.v. vẫn còn rất hạn chế.
Mãi đến đầu năm 2011, Cộng đồng người Việt
tỵ nạn rất đỗi vui mừng khi thấy xuất hiện cuốn “Lược Sử Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa” với tên ba tác giả: Trần Ngọc Thống (Đại tá), Hồ
Đắc Huân (Thiếu tá) và Lê Đình Thụy (Trung úy), mặc dù theo ghi chú,
ông Lê Đình Thụy đã mất trước đó 3 năm (2008).
Phải công nhận đây là một tập tài liệu đầy
đủ và chính xác nhất về QLVNCH tại hải ngoại (sau 1975). Từ việc
hình thành quốc gia VNCH đến việc thành lập, trưởng thành của
QLVNCH, từng các Quân, Binh Chủng, các Quân, Sư Đoàn, các đơn vị
Tổng Trừ Bị, các Quân Trường, với đầy đủ “mầu cờ sắc áo”, hình ảnh
tất cả các loại quân phục, quân kỳ, hiệu kỳ, lệnh kỳ, phù hiệu, huy
hiệu, cấp bậc, huy chương.
Tất cả các cấp tướng lãnh, dù còn sống hay
đã chết, đều có đầy đủ hình ảnh, tiểu sử, binh nghiệp rất chi tiết.
Có cả danh sách các vị tuẫn tiết, bị tù, bị chết trong tù (và kể cả
kẻ phản nghịch như Tướng Nguyễn Hữu Hạnh.)
Ba tác giả này, môt vị đã ra đi quá sớm,
một vị thì tuổi quá cao nên đã bỏ bút rồi cũng ra đi sau đó, giờ chỉ
còn duy nhất lão niên Hồ Đắc Huân. Tuy tuổi cũng đã trên 86, nhưng
nhờ sức khỏe và trí nhớ trời cho, đặc biệt là tâm huyết dành cho đất
nước và quân đội mà ông đã phục vụ trọn 20 năm binh nghiệp để được
vinh dự nhận lãnh Đệ Ngũ Đẳng BQHC cao quí, Thiếu tá Hồ Đắc Huân vẫn
luôn miệt mài truy tìm, tham khảo từ các vị tướng lãnh, sĩ quan cao
cấp, tìm đến các thư viện, đi khắp nơi tiếp xúc những vị từng lãnh
đạo các phòng, cục chuyên môn hoặc từng chỉ huy trên các chiến
trường, để gom góp tài liệu, dữ kiện và liên tục cho ra đời những
tác phẩm “quân sử” giá trị khác.
Mới đây, tác giả Hồ Đắc Huân vừa giới
thiệu tập biên khảo “Hồn Trong Sách Cũ”. Trong đó ông có đề cập tới
một số tài liệu quí giá mà ông đã sưu tập được:
– Khoảng 50 Nguyệt San Chiến Sĩ Cộng Hòa
– “Niên Lịch Công Đàn 1960–1961”
– “Thành Tích Sáu Năm Hoạt Động Của Nền Đệ
Nhất VNCH 1954–1960” (do Bộ Thông Tin ấn hành)
– “Quân Sử 4” (do Phòng 5 Bộ TTM ấn hành
năm 1972)
– “Lược
Ký Tham Mưu” (do Trường Đại Học Quân Sự ấn hành)
– “Huấn Lệnh Điều Hành Căn Bản Về Cấp
Hiệu, Quân Phục, Quân Kỳ, Hiệu Kỳ, Lệnh Kỳ và Phù Hiệu” (do Phòng 5
Bộ TTM ấn hành.)
– “Kỷ Yếu Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu” do Phòng Tổng Quản
Trị biên soạn năm 1972.
– “Niên Giám Sĩ Quan 1971–1972” do Phòng
Tổng Quản Trị Bộ TTM biên soạn.
– “Huy Chương Tưởng Thưởng Trong QLVNCH”
(do Bộ TTM biên soạn)
– “Chuyên Nghiệp Quân Sự Của Sĩ Quan Quân
Chủng Lục Quân” (do Phòng Tổng Quản Trị Bộ TTM ấn hành năm 1972)
– “Cuộc Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa
của Việt Cộng – Mậu Thân 1968” (do Khối Quân Sử Phòng 5 Bộ TTM ấn
hành)
– “Thành
Tích Hoạt Động Của Nội Các Chiến Tranh 1966” (do Bộ Thông Tin Chiêu
Hồi tổng hợp tài liệu từ Phủ Chủ Tịch UBHPTƯ và các Tổng, Bộ biên
soạn)
– và một số
tài liệu khác...
Thiếu tá Hồ Đắc Huân tốt nghiệp Khóa 2 Sĩ Quan Đặc Biệt (Đồng Đế) Nha Trang, thời Đại Tá Đỗ Cao Trí đang làm Chỉ huy trưởng, cùng khóa với Đại tá Hồ Ngọc Cẩn và nhiều cấp chỉ huy khác trong các binh chủng Nhảy Dù, TQLC, Biệt Động Quân, mà đến hôm nay ông vẫn còn gắn bó. Trước đây, ông đã xuất bản cuốn bút ký “Tôi Đi Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch Đặc Biệt Nha Trang” để nói về quân trường này, về Khóa 2, với những thành công của các đồng môn cùng những kỷ niệm đẹp. Sau khi tốt nghiệp, ông được chọn phục vụ tại một số quân trường, nên qua kinh nghiệm giảng huấn nhiều bộ môn, ông tích lũy rất nhiều kinh nghiệm, hiểu biết về tổ chức quân đội, vũ khí, chiến thuật, chiến lược. Ông cũng kể lại rất chi tiết về cây cầu Đà Rằng (tại Phú Yên). Đây là cây cầu dài nhất miền Nam (dài 1,101m, rộng 7.5m) gồm 58 nhịp, lần đầu tiên do Công Binh VNCH (Tiểu Đoàn 201 thuộc Liên Đoàn 20 CBCĐ) thực hiện, được đích thân TT Nguyễn Văn Thiệu cắt băng khánh thành ngày 13/2/1971.
Cầu Đà Rằng trong ngày khánh
thành
Nhưng trên hết, ông là một người luôn vui
vẻ, khiêm tốn, và lúc nào cũng đầy nghị lực, nhiệt tình, đặc biệt
luôn thiết tha đi tìm ghép những mảnh vỡ của một Quân Lực, tuy không
còn tồn tại trên thế gian, nhưng vẫn bất diệt trong lòng ông, trong
lòng những người lính VNCH.
Những nỗ lực và tâm huyết ấy, dù trong âm
thầm nhưng rất xứng đáng để được chúng ta cám ơn và trân trọng.
Phạm Tín An Ninh
(mùa dịch
Covid–19 – 2021)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by PTAN chuyển
Đăng ngày Thứ Năm,
December 9, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang