Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Không ngờ tôi lại là người bưng tấm ảnh chị Ngà theo
sau quan tài của chị. Và cũng chính tôi là người đào huyệt chôn
chị. Đám ma của chị có lẽ là một đám ma buồn nhất mà tôi chứng
kiến. Có cái chết nào lại không buồn. Những ngày ở trong trại
“cải tạo”, tôi đã từng khiêng xác vài người bạn tù đi chôn ở ven
triền núi hoang vắng đến lạnh lẽo, trong cảnh nhá nhem của buổi
chiều đông trên khu núi rừng Việt Bắc. Nhưng đó là chuyện trong
tù, còn hôm nay ngay trên làng quê mình, chị Ngà đến nơi an nghỉ
cuối cùng mà không có một người ruột thịt tiễn đưa, ngay cả cái
áo quan cũng do bà con láng giềng góp tiền mua cho chị.
Chị nằm bên cạnh cha mẹ cùng người em
trai, trên một ngọn đồi đầy những cỏ may và cây hoa bộng giếng,
nhìn xuống cái làng quê mà gần cả một đời chị sống quanh quẩn ở
đây, cô đơn, lặng lẽ.
Chôn cất xong, mọi người ra về, tôi nán
lại, dựng tấm bia bằng gỗ trước mộ chị. Khi ngồi một mình nắn nót
viết cái tên của chị lên tấm gỗ, nước mắt tôi ràn rụa, mơ hồ như
thấy mình đang trở về cái thời nào đó thật xa xăm.
Ngày xưa cha tôi làm thầy giáo, dạy
trường Pháp Việt. Tôi mồ côi mẹ từ lúc mới lên ba, cho nên những
ngày đi dạy học ông thường dắt tôi theo. Đến lớp, ông giao tôi
cho mấy anh, chị học trò lớn của ông để tôi vừa chơi vừa học. Nhờ
vậy mà lúc còn bé tí xíu tôi đã biết “con ngựa cheval nhảy qua
hòn núi montagne ăn cỏ herbe uống nước de l’eau”.
Trong số các anh chị dạy tôi học, tôi
thích nhất là chị Ngà. Chị là con gái lớn của ông bà Tần, chuyên
nuôi tằm, bán tơ, một gia đình thuộc hàng khá giả trong làng, có
ngôi nhà ngói lớn, ở cách nhà ông bà nội tôi chỉ mấy cái vườn
cây. Chị Ngà có làn da trắng, mái tóc thật dài. Lúc nào gặp tôi
chị cũng cười và nói năng nhỏ nhẹ. Nghe cha tôi nói lại, chị hiền
lành ngoan ngoãn và học rất giỏi, nên là một trong số học trò
cưng của cha tôi. Thấy tôi mồ côi mẹ, lại là con của thầy mình,
nên chị rất thương tôi. Ngay cả những ngày nghỉ, chị cũng thường
ghé lại nhà ông bà nội, dắt tôi đi chơi, mua cho tôi mấy con bò,
con gà bằng đất. Có điều tôi ít khi đến nhà chị, vì rất sợ những
con tằm. Tôi bảo đó là những con sâu, mặc dù chị tốn bao nhiêu
công sức để nói về lợi ích của con tằm đã làm nên tơ lụa, và
những con bướm đẹp đẽ đang bay ngoài vườn kia là hoá thân từ
chính những con tằm. Nhưng lúc ấy tôi nghĩ là chị đã kể từ một
chuyện thần thoại nào đó nên không tin những điều chị nói.
Cả một thời ấu thơ, lớn lên ở nhà ông
bà nội, ngoài cô Út ra, chị Ngà là người mà tôi gần gũi nhiều
nhất. Chị có một người em trai tên Ngọc, lúc nhỏ tôi rất phục tài
đá banh của anh. Gần như không trận bóng nào có anh mà thiếu tôi
trong hàng khán giả nhi đồng. Nhờ anh mà đội bóng cùa làng tôi
giữ chức vô địch mấy năm liền trong huyện. Tôi mê anh đá banh,
nhưng nhiều cô gái trong làng thì mê anh đẹp trai, cao lớn. Sau
này anh đăng vào lính Thủy quận lục chiến. Nghe nói anh đánh giặc
hăng lắm, nên mới ba năm đã lên tới chức trung sĩ. Lâu lâu về
phép dắt theo cô bồ có mái tóc quăn, trông anh oai phong lắm.
Khi tôi từ giã quê lên tỉnh học, cũng
là lúc chị Ngà ra nghề làm cô giáo, dạy một lớp nhỏ trường làng,
rồi lấy chồng. Tôi cũng vinh dự được mời, và quà cưới tôi cho chị
hôm ấy là bức tranh chân dung của chị do chính tay tôi vẽ. Tưởng
chồng chị là ai, hoá ra là anh Phúc, cũng là học trò của cha tôi,
học trên chị một lớp, người cùng làng. Nghe nói anh học giỏi,
nhưng thầm lặng, ít nói và không thích giao du với bạn bè. Anh là
con trai một của bà ba Tịnh. Bà góa chồng từ lúc nào tôi không
biết. Chỉ nghe người ta bảo ông Tịnh theo vợ bé, là một cô đào
trong gánh hát rong, rồi biệt tăm luôn.
Anh Phúc thi đậu lấy bằng primaire,
nhưng viện cớ mẹ goá con côi, nên không đi làm công chức như
những người khác, mà lại tự mình khai thác một khu vườn bên kia
sông Gốc, trồng nhiều loại cây và có ao nuôi cá. Trong làng ai
cũng khen anh biết tính toán và có lòng hiếu thảo.
Trong đám học trò của cha tôi cũng có
vài anh khác ngắm nghé chị Ngà, nhưng vâng lời cha mẹ, chị lấy
anh Phúc, bởi anh là con một của bà mẹ góa, được nhà nước cho
miễn dịch, khỏi phải đi lính xa nhà, để chị còn được gần gũi săn
sóc ông bà khi đến tuổi già. Đám cưới nhà quê, nhưng khách khá
đông, mà hầu hết là bạn học của hai người và cũng là học trò của
cha tôi. Trong lễ cưới, sau khi cô dâu chú rể lạy tạ cha mẹ hai
bên, rồi xin được lạy cha tôi một lạy để đền ơn sư. Cha tôi cầm
tay anh chị dặn dò nhiều thứ, tôi không nhớ hết, chỉ còn mang
máng hai tiếng thủy chung.
Từ ngày chị Ngà lấy chồng tôi ít có dịp
gặp lại chị. Mặc dù nhà chồng chị cũng không xa mấy, nơi ven
làng, bên con sông Gốc, mà phía bên kia sông là khu vườn của anh
Phúc và cánh rừng tiếp giáp với dãy trường sơn.
Tôi gặp lại chị đúng vào một ngày buồn.
Chỉ đứng nhìn chị ấy khóc. Anh Ngọc, em trai duy nhất của chị, bị
tử trận đâu trong Rừng Sát. Cha mẹ chị ngất xỉu khi nhận chiếc
quan tài mà không hề được báo trước. Đám ma hôm ấy nghiêm trang
lắm, có cả ông quận và mấy anh lính bồng súng chào đi theo. Tôi
dìu chị đi sau linh cữu, tiễn đưa anh Ngọc đến nơi an nghỉ cuối
cùng.
Điều làm
tôi – và nhiều người – ngạc nhiên là trong đám ma của anh Ngọc,
không ai nhìn thấy mặt anh Phúc, chồng chị. Mọi người thì thầm
“cha nào con nấy, chắc là lại mê con đào hát nào, bỏ con Ngà
rồi!”
Tội
nghiệp cho chị và oan cho anh Phúc. Vì trước đó mẹ anh Phúc đã
thay mặt con trai xin lỗi gia đình sui gia, bởi anh Phúc ốm nặng
bất ngờ phải nằm bệnh viện.
Hai tháng sau, một trận lụt lớn tràn
qua làng tôi, kéo theo một số nhà cửa và trâu bò, nhưng không có
ai chết, ngoại trừ cái tin anh Phúc bị nước cuốn đi, khi anh còn
ở khu vườn bên kia sông Gốc, chưa kịp về nhà. Mẹ anh Phúc rước
thầy ngồi đồng đi tìm xác anh Phúc suốt mấy ngày liền, nhưng
người ta nghĩ là xác anh đã trôi ra biển.
Trong nhà cũng lập bàn thờ, nhưng chị
Ngà nhất định không chịu để tang. Chị bảo linh tính báo cho chị
biết là anh Phúc, chồng chị vẫn còn sống. Có thể trôi giạt đến
một nơi nào đó rồi được người ta cứu như câu chuyện nàng Thúy
Kiều mà chị thường đọc cho cha mẹ chị nghe...
Tôi rời quê vào Sài gòn học, rồi sau đó
đi lính. Lâu lâu nghỉ phép về quê, tôi tìm đến thăm chị. Sau ngày
cha mẹ mất, chị nghỉ dạy học, bán ngôi nhà ngói lớn của ông bà,
đem tiền bạc về xây lại ngôi nhà mẹ chồng thành ngôi nhà lớn ba
gian, mua luôn cả khu vườn bên cạnh có trồng đủ loại cây ăn trái.
Chị dành lại một số tiền mở một nhà máy xay xát nhỏ, nuôi bà mẹ
chồng bị đau bệnh mấy năm nay, chỉ nằm một chỗ.
Trong làng, có người thì bảo chị ấy
“khôn nhà dại chợ, bán nhà cha mẹ để gây dựng nhà chồng, và mang
cả bàn thờ cha mẹ, em út sang bên ấy, không sợ tủi hổ vong linh”.
Nhưng cũng có người, trong đó có ba tôi, thì khen chị, bảo là
“xuất giá thì phải tùng phu, con Ngà nó làm vậy là đúng theo sách
thánh hiền!”
Không hiểu có phải vì chị nghe lời dặn dò của ông Thầy, từng khai
tâm và dìu dắt chị nên người, thuộc lòng hai chữ thủy chung, nên
dù chồng đã biệt tích từ lâu, chị vẫn ở vậy, thờ phụng nhà chồng,
trong lúc chị vẫn còn trẻ và có nhan sắc trong vùng. Có mấy ông
thầy giáo ở xa đổi tới từng mon men đến chị nhưng chị khước từ.
Ngày mẹ chồng chết, cũng chỉ có mỗi một
mình chị mặc áo tang. Nghe nói cái đám ma đúng vào một ngày gió
mưa, ảm đạm. Người ta không chỉ thương cho người chết, chẳng có
chồng con trong phút lâm chung, mà còn tội nghiệp cho cả cô dâu,
một mình cô đơn đi sau quan tài, tiễn đưa bà mẹ chồng về nơi chín
suối, mà cũng đưa cuộc đời mình vào chốn quạnh hiu.
Chiến tranh càng lúc càng leo thang.
Sau ngày mấy ông tướng nghe theo Mỹ hạ bệ và giết hai anh em ông
Ngô Đình Diệm, không biết đất nước có thực sự khá hơn không,
nhưng ở quê tôi thì không còn bình yên như trước nữa. Một vài
người làm việc trong chính quyền bị ám sát. Cứ vài ba tuần lại có
một cuộc đụng độ giữa các toán dân vệ với quân du kích. Ba tôi
phải bỏ quê, về sống ở thành phố, giao ngôi nhà từ đường của ông
bà nội cho cô Út tôi chăm nom thờ phượng.
Tôi về phép thăm ba tôi đúng vào ngày
giỗ ông nội, nên hai cha con cùng về thăm quê. Tôi gặp chị Ngà
khi vừa bước chân vào nhà ông nội. Chị đến đây từ sáng sớm, phụ
cô tôi dọn dẹp nhà cửa, bàn thờ, chùi bóng mấy bộ lư đồng và mấy
tấm liễn. Thấy ba tôi, chị vòng tay cúi đầu thưa Thầy như cái hồi
còn bé. Chị nắm tay tôi, miệng nở nụ cười. Nhưng nhìn trong đôi
mắt chị, tôi thấy phảng phất buồn.
Không biết ba tôi thay đổi quan niệm từ
lúc nào, sau đám giỗ, ông bảo tôi tìm chị Ngà, dặn chị ở lại cho
ông nói chuyện. Ông khuyên chị Ngà nên bước thêm bước nữa, hy
vọng còn sinh đẻ được để có mụn con, hầu tránh cảnh tuổi già đơn
chiếc, chẳng có ai lo lắng cho mình. Hôm ấy tôi cũng phụ họa
nhiều điều và hứa sẽ làm mai cho chị. Lần này Chị không một mực
khước từ, nhưng xin để tang mẹ chồng cho đủ ba năm. Tôi giận chị
nhưng cũng cảm phục tấm lòng thủy chung của chị.
Tháng tư bảy mươi lăm, khi chị Ngà chưa
mãn tang mẹ chồng, thì cả miền nam để tang cho đất nước. Cái “đại
thắng mùa Xuân” của những người Cộng sản đã gây biết bao nhiêu
thê lương tang tóc. Ba tôi bị bắt trong lúc tôi còn theo đơn vị
từ cao nguyên “di tản chiến thuật” vào các địa danh xa lạ ở tận
Long An tham dự những trận đánh cuối cùng cô đơn và buồn tẻ.
Miền Nam mất. Trong lúc những người
Cộng sản ngơ ngác hò reo chiến thắng, tôi lặng lẽ quá giang đủ
các loại xe trở về quê. Tìm tới trại tù Đá Bàn, một mật khu lúc
trước nằm sâu trong núi, nơi ba tôi bị giam giữ, nhưng cuối cùng
tôi vẫn không được phép gặp ba tôi. Tôi về nhà ông nội thăm bà cô
út và thắp hương từ biệt trước bàn thờ gia tộc.
Cô tôi đau lòng cho biết, người ký lệnh
bắt ba tôi là một anh học trò của chính ông ngày trước. Anh bỏ
nhà lên núi rồi tập kết ra Bắc. Bây giờ đang giữ một chức vụ khá
lớn trong Uỷ Ban Quân Quản.
Cô tôi chưa kể hết câu chuyện thì chị
Ngà đến. Chị nắm chặt hai bàn tay tôi, không nói điều gì. Tôi
thấy chị đang khóc. Tôi nghĩ là chị thương và lo lắng cho cha con
tôi trong cái cảnh sa cơ này. Tôi lấy lại bình tĩnh, chưa kịp nói
lời trấn an, thì chị nhìn tôi nghẹn ngào:
– Em, em... xin Thầy và em tha thứ cho
chị. Chị không ngờ... chị thật sự không ngờ.
Và chính tôi cũng không ngờ. Anh học
trò ký lệnh bắt cha tôi chính là anh Phúc, chồng của chị. Tôi rút
nhanh tay ra khỏi bàn tay của chị.
Dường như đây là lần đầu tiên trong
đời, nhìn những giọt nước mắt – mà lại nước mắt của một người rất
gần gũi thân quen – lòng tôi dửng dưng không hề xúc động. Tôi có
cảm giác đắng cay của một người bị lừa gạt và phản bội. Tôi giận
cho tình đời và thầm ân hận là cha tôi đã từng “nuôi ong tay áo”.
Tôi từ biệt làng quê và bà cô cả một
đời nuôi nấng chăm lo cho tôi từ thời tấm bé, bước vào trại “cải
tạo” với ngổn ngang trăm mối trong lòng. Tự dưng tôi mất mát gần
như tất cả mọi thứ trên đời, kể cả những tình cảm mà tôi cứ ngỡ
là nó sẽ không bao giờ mai một.
Hơn tám năm trong nhiều trại tù từ Nam
ra Bắc, bị hành hạ đói khổ khốn cùng. Tôi sống còn có lẽ là nhờ
những giấc mơ về quá khứ. Trong đó tôi bắt gặp lại hầu hết bóng
dáng những người thân yêu của cái thời hạnh phúc. Và khuôn mặt
xinh đẹp hiền hậu dễ thương của chị Ngà vẫn thường hiện lên rõ
nét, mặc dù khi đầu óc tỉnh táo, tôi đã cố gắng xua đuổi hình ảnh
ấy ra khỏi ký ức mệt mỏi của mình. Tôi thương chị mà hận chị. Tôi
nghĩ là chị đã đồng lõa với nhà chồng để lừa gạt chúng tôi hơn
mười mấy năm qua.
Ra khỏi tù, tôi không được phép về sống
chung với vợ con ở thành phố Ninh Hòa, quê vợ. Lý do hết sức đơn
giản là: chính quyền ở đó không nhận tôi tạm trú. Công an tỉnh
bắt buộc tôi phải về “trình diện chính quyền” nơi sinh quán. Tôi
lại một mình khăn gói về quê cũ, mà ở đó chỉ còn một bà cô già
goá bụa sống âm thầm trong ngôi nhà từ đường có mái ngói âm dương
của ông bà nội tôi để lại.
Nghe tin tôi về, bà con hàng xóm đến
thăm. Mới hơn tám năm mà trông ai cũng già nua, khắc khổ. Trong
số đó tôi để ý một người đàn bà, đứng ngoài cửa nhìn tôi, đôi mắt
thất thần, đầu tóc rối bù, áo quần rách rưới bẩn thỉu. Tôi ngờ
ngợ nhớ tới một người. Nhưng khi vừa đứng lên định bước tới hỏi
thăm, thì bà ta vụt chạy về phía sau vườn. Tôi ngẩn người khi cô
tôi bảo nguời đàn bà ấy chính là chị Ngà, vợ anh Phúc ngày xưa.
Buổi tối, sau khi dắt tôi lên căn nhà
thờ thắp hương lạy ông bà, cô tôi đóng kín cửa, khêu ngọn đèn
dầu, ngồi kể cho tôi bao nhiêu nỗi niềm tâm sự.
Cha anh Phúc – theo lời tiết lộ sau này
từ những đồng chí thân tín của anh Phúc – thực ra không hề theo
một ả hát rong nào cả, mà bỏ làng vào bưng từ khi anh Phúc mới
lên mười. Ông đã chết từ lâu, nhưng hàng năm vợ con vẫn nhận được
thư ông do một vài người lạ mặt mang tới. Trong mấy lá thơ, hầu
hết là “động viên” tinh thần anh Phúc nối gót cha đi làm “kách
mệnh”. Trước khi lên núi, anh Phúc làm quen, rồi tỏ ra yêu chị
Ngà, nhưng thực ra đó là kế hoạch đã được các “đồng chí thủ
trưởng” giao cho anh Phúc phải thi hành, để giải quyết việc nuôi
nấng mẹ của Phúc, mà bọn họ biết là bà đã trở thành goá bụa từ
lâu rồi.
Những
ngày làm vườn bên kia bờ sông, anh Phúc đã hoạt động cho phía bên
kia. Dưới căn hầm trong khu vườn là sào huyệt từng che dấu cho
nhiều cán bộ. Sau một trận tấn công chiếm trụ sở xã bất thành, sợ
hành tung bại lộ, anh Phúc đã lên núi rồi tập kết luôn ra Bắc,
sau khi dựng lên vở kịch chết trôi trong trận lụt năm nào.
Tất cả mọi việc không phải chỉ để qua
mắt mọi người, mà còn đánh lừa cả chị Ngà. Chị nhẹ dạ cả tin, nên
ban đầu cứ tưởng chồng mình còn sống bị trôi giạt ở đâu đó, nên
vẫn chờ đợi trong hy vọng. Sau một thời gian dài bặt vô âm tín,
chị mới nghĩ là anh đã chết. Tội nghiệp, chị không hề biết là
mình đã bị lừa dối để uổng phí cả một đời xuân sắc.
– Thế bây giờ ông Phúc ở đâu và vì sao
chị Ngà lại ra nông nỗi? Tôi hỏi.
– Sau ngày “giải phóng” chưa đầy một
tháng, thằng Phúc đưa vợ con từ ngoài Bắc vô đây, giành lấy ngôi
nhà do công sức của con Ngà gầy dựng, trong đó phần lớn là tài
sản của chính cha mẹ nó. Con Ngà phải ra phía góc vườn che một
cái chòi tranh để trú nắng trú mưa.
– Còn cái máy xay xát ở đâu mà trông
chị nghèo khổ đến như vậy? Tôi thắc mắc.
– Họ mang vào hợp tác xã. Thời gian đầu
họ cho con Ngà làm công nhân xay lúa, nhưng lại trả lương bằng bo
bo. Chỉ sau vài tháng tất cả các máy xay xát tập trung về huyện,
nó bị mất việc.
– Bây giờ gia đình ông Phúc vẫn còn bên
ấy? Con không muốn có ngày gặp mặt ông ta.
– Thực ra nó giành nhà, nhưng chỉ ở một
vài tháng rồi cho gia đình một “đồng chí” nào của nó cũng từ
ngoài Bắc vào tá túc, trong khi chờ chia chác những ngôi nhà lớn
mới tịch thu. Sau đó thằng Phúc bán cả nhà lẫn vườn tược lại cho
người khác, vào thành phố nhận một chức hàm lớn hơn. Con Ngà nó
phát điên từ dạo ấy. Ngày nghe tin ba con chết trong trại tù cải
tạo, nó như một kẻ không hồn. Ban đêm, người ta nghe tiếng nó gọi
Thầy ơi, Thầy ơi rồi khóc nức nở.
Tôi theo cô Út, đi dọc theo phía sau
mấy khu vườn, tìm đến chị Ngà. Trong căn chòi lụp xụp tối tăm,
chị Ngà đang ngồi thẫn thờ trên cái giường tre như một pho tượng
cũ Trên đầu giường có ba tấm ảnh của cha mẹ chị và anh Ngọc, em
chị, nhem nhuốc, úa màu. Không ngờ cái ngày đổi đời, người chồng
biệt tăm bao nhiêu năm bây giờ bỗng dưng về, trở thành ông lớn
thì cuộc đời của chị lại tàn tạ bi thảm như hôm nay. Tôi ngồi
xuống bên cạnh chị, ôm đôi vai gầy còm của chị mà trong lòng tựa
hồ như bao nhiêu vết chém.
– Chị Ngà ơi, chị vẫn mãi mãi là chị
của em mà. Em thương chị và sẽ lo lắng cho chị.
Chị Ngà ngồi bất động. Rồi bất ngờ òa
lên khóc. Cô cháu tôi càng dỗ dành an ủi, chị lại càng khóc to
hơn, tôi nghe tiếng ấm ức nghẹn trong cổ họng chị.
Tôi năn nỉ, khóc lóc với chị bao nhiêu
lần mới đón được chị về ở chung trong nhà ông nội. Tôi mang mấy
tấm ảnh của cha mẹ chị và anh Ngọc về để một góc trên bàn thờ gia
tộc. Từ ngày ấy chị khá hơn xưa. Những lúc ngồi tâm tình với cô
cháu tôi, chị vui vẻ bình thường như thuở còn con gái, nhưng cũng
có nhiều đêm khuya chị ngồi trước bàn thờ lẩm bẩm một mình và
khóc sụt sùi. Từ ngày có chị, tôi cũng thấy mình đỡ bớt cô đơn,
và có lúc còn thấy mình hạnh phúc trở lại với cái thời thơ dại.
Vậy rồi chị lìa bỏ thế gian này cũng
thật bất ngờ. Buổi sáng thức dậy sớm, tắm rửa xong chị thay quần
áo mới, kẹp lại mái tóc, trông chị trẻ ra. Cả ngày hôm ấy chị
cười đùa hồn nhiên vui vẻ, ngồi ôn lại bao nhiêu kỷ niệm của
những ngày tôi còn bé, và chị còn là cô học trò cưng của ba tôi.
Khi vui, trí óc chị trở nên minh mẫn lạ thường. Chị còn nhớ bao
nhiêu điều mà chính tôi đã quên từ lâu lắm. Trước khi đi ngủ, chị
còn ôm đầu tôi vào lòng, nhại một câu hát đã lâu “may mà có em
đời còn dễ thương...”. Và sau đêm hôm ấy, chị không bao giờ thức
dậy nữa.
Trước
ngày vượt biển, phải cắt ruột bỏ quê mà đi, tôi đến nghĩa trang
gia tộc thắp hương cho ông bà và mẹ tôi, rồi đến thăm mộ chị cuối
cùng. Trong lúc cầm ba nén hương đứng trước mộ chị, tôi nghĩ đến
thuyết luân hồi của nhà Phật, và hình dung bây giờ chị Ngà đang
sống ở một thế giới khác, xinh đẹp và rất hạnh phúc với một người
chồng xứng đáng, bởi chị là một nguời đàn bà thánh thiện, sắt
son.
Một con
bướm trắng không biết từ đâu bay lại đậu trên tấm bia bằng gỗ, mà
chính tay tôi đã dựng lên cho chị, nhịp nhịp đôi cánh rồi vụt bay
theo cơn gió lốc, biến mất trong bầu trời xanh.
Phạm Tín An Ninh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Lang Pham chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, March 18,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang